Phần ba - 14 -
Stephen và Rand muốn tôi “nạp nhiên liệu.” “Lên dây cót.” “Chuẩn bị tinh thần.” Họ muốn tôi sẵn sàng cho một cuộc chiến. Tôi nghĩ họ nói như thế vì lúc đó đang vào mùa bóng bầu dục, và chúng tôi nghe những khẩu hiệu ấy suốt ngày. Nhưng chúng thật lạ khi phát ra từ Rand, vì anh chẳng bao giờ thật sự đam mê bóng bầu dục. Giống như tôi, anh luôn xem đó là một loại hình bạo lực có tổ chức vô cùng quái đản. Nhưng anh là đàn ông, vì thế tôi nghĩ đó là kiểu nói duy nhất anh có để truyền cảm hứng cho tôi; đó là những từ duy nhất mà anh biết. Dĩ nhiên, môn thể thao này bỗng có mặt ở khắp nơi. Ít nhất thì trông có vẻ là như thế ở khu vực này của hạt. Ðội bóng bầu dục của trường Connie đã thắng ba trận đầu tiên trong mùa thu năm nay, điều này sẽ chẳng có gì to tát ở một số khu vực khác, nhưng nó xảy ra ở đây. Ai đó đã nói với tôi rằng đây là đội chưa bao giờ thắng, vậy mà đột nhiên họ thắng ba trận liên tiếp, mà lại thắng vang dội nữa. Tôi cho rằng những chiến thắng thường rất thiên vị. Stephen khá hơn một chút ở khoản “Hãy chuẩn bị tinh thần!”, có lẽ vì anh ấy thường xuyên gặp những người lo sợ như tôi. Ðó là một phần trong công việc kiếm sống của anh. Anh ấy phải giữ cho tôi không suy sụp, và do đó anh dường như biết nên gây sức ép đến đâu với tôi khi đặt các câu hỏi lúc chúng tôi ở cạnh nhau, và chính xác lúc nào thì nên lùi lại và cho tôi ít không gian. Anh ấy cũng khéo bắt chước. Ðó không phải là từ chính xác, vì nói thế thì hóa ra anh giống con vẹt hay con khỉ. Hoặc một kiểu nghệ sĩ mua vui nào đấy. Ý tôi là rõ ràng anh lắng nghe tôi rất chăm chú, mà không chỉ nghe những gì tôi nói: Anh lắng nghe cách tôi nói chuyện, chính xác những từ tôi sử dụng. Và rồi, vài phút sau, tôi sẽ nghe anh lặp lại một từ hoặc một cách diễn đạt. Sáng nay tôi ở phòng làm việc của anh ấy, và tôi đang giải thích với anh những suy nghĩ của tôi về giai đoạn chuyển dạ đầu tiên. Tôi nói với anh mỗi đợt dâng trào có tiềm năng thay đổi một người mẹ như thế nào, và cuối cùng một đợt dâng trào sẽ làm được điều đó. Tôi nói với anh một người phụ nữ ở giai đoạn đó có thể biến từ một người vô cùng trầm tĩnh trước mọi thứ xung quanh mình thành một con vật điên cuồng không còn nhận thức được gì ngoài thực tế cơ thể mình. Những cơn dâng trào của mình. Cách cơ thể mình thay đổi. Ðó là một phần của quá trình sinh đẻ, sự từ bỏ mọi thứ - và ý tôi là mọi thứ - ngoại trừ duy nhất đòi hỏi được đẻ. Tôi nói cơ thể người phụ nữ biết nó đang làm gì, và cô ấy chỉ cần để nó làm điều đó. Có lẽ khoảng mươi, mười lăm phút sau, chúng tôi đang nói về một bác sĩ sản phụ khoa thực sự có niềm tin vào sinh đẻ tại nhà - tất nhiên ông ấy không hành nghề ở gần Reddington, đòi hỏi như thế thì thật quá đáng - và ông ấy sẽ nói gì trước tòa. Rồi Stephen nói với tôi, “Ông ta là người vô cùng trầm tĩnh. Chị sẽ thích ông ta.” Và rồi, vài phút sau, khi chúng tôi đang nói về thời gian anh dành ra để nghiên cứu vụ kiện của tôi, anh nói, “Tôi đã làm việc này quá thường xuyên đến nỗi bản năng có thể mách bảo cần đào sâu vào một vấn đề đến mức nào, và khi nào thì nên từ bỏ một việc gì đó. Ðó chỉ là một phần trong công việc của tôi mà thôi.” Có phải Stephen cố tình làm thế? Tôi chẳng thể nào biết được. Nhưng tôi thích như vậy, nó làm tôi cảm thấy dễ chịu. Và nó dễ chịu hơn rất nhiều so với những câu khẩu hiệu bóng bầu dục, cách nói mà - giống như Rand - anh ấy thỉnh thoảng lại dùng đến, nhất là khi giờ đây phiên tòa sắp bắt đầu và anh sợ rằng tôi chưa “lên đủ dây cót”. Tôi muốn nói với anh ấy - tôi muốn nói với cả anh ấy và Rand - rằng thật khó “lên dây cót” khi phần lớn thời gian tôi quá bận bịu với việc sợ hãi phát khiếp. Nhưng tôi nghĩ nếu tôi nói ra, họ sẽ còn lo lắng cho tôi hơn trước gấp bội, và cố gắng “nạp nhiên liệu” cho tôi. Giúp tôi sẵn sàng chiến đấu hoặc phản công hoặc làm bất kì việc gì mà các cầu thủ bóng bầu dục làm. Vả lại, tôi nghĩ nếu tôi nói với họ rằng tôi sợ biết nhường nào, thì tôi sẽ trút hết nỗi lòng của mình. Ðột nhiên tôi sẽ kể với họ rằng tôi sợ mình sẽ vào tù. Tôi sợ mình sẽ phải bỏ nghề. Và - và nỗi sợ này đã không quá lớn trong mùa xuân, nó chỉ mới khiến tôi sởn gai ốc trong một tháng qua - đôi khi tôi sợ rằng mình có lẽ đã phạm sai lầm vào tháng ba. Có thể lắm. Nếu Charlotte Bedford quả thật đã còn sống thì sao? trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth NEWPORT NẰM Ở MŨI CỰC NAM của hồ Memphremagog, một hồ nước hẹp, lạnh lẽo, kéo dài bốn mươi tám cây số từ Bắc xuống Nam. Có lẽ một phần ba hồ nằm trong địa phận nước Mỹ, phần còn lại nằm ở phía Bắc biên giới, ở Canada. Trước khi phiên tòa của mẹ bắt đầu, tôi ghét cái hồ đó. Đến khi phiên tòa kết thúc, tôi căm thù nó. Có vài lý do hiển nhiên để một đứa bé ghét nó. Nó thật khó đánh vần và phát âm. Bây giờ thì tôi đã biết tên hồ trong tiếng Abenaki[18] có nghĩa là “hồ nước đẹp”, nhưng ở trường, nó chỉ là một chuỗi kí tự dài ngoằng, khó hiểu và khó chịu. Tuy thế, ngay cả khi đã lớn, ngay cả khi tôi không còn sợ hãi trước ngữ âm của từ đó, tôi vẫn không thích cái hồ. Nó luôn trông như kiểu hồ thích nuốt chửng người bơi và những chiếc thuyền nhỏ. Trong một vài lần tôi được đưa đến đấy để bơi cùng lũ bạn, nước hồ luôn có vẻ như lạnh hơn những hồ lân cận - đặc biệt là những nơi nhỏ bé mời gọi như hồ Crystal hoặc Echo - và dòng chảy của nó cũng nguy hiểm hơn. Và tôi nghĩ mặt hồ chưa bao giờ thôi dậy sóng. Cũng có nhiều thần thoại về hồ Memphremagog, một số kể về một con thằn lằn khổng lồ đáng sợ hơn rất nhiều so với con quái vật hiền lành mà có người nói là bơi trong hồ Champlain, số khác lại kể về một thứ đặc biệt rùng rợn có thể sống thoải mái trên bờ lẫn dưới lòng nước tối tăm, và có thể biến dạng thành con mồi của nó: cá hoặc chó hoặc nai con. Đó là cách nó giết các con vật đó. Dù tôi không bao giờ tin vào những chuyện kiểu này, nhưng tôi đã hằn sâu trong đầu suy nghĩ rằng cái hồ là một nơi chốn không vui mà tôi chẳng muốn dính dáng đến. Tuy nhiên, phần lớn mọi người lại không giống tôi; phần lớn mọi người rất ngưỡng mộ hồ Memphremagog. Và phần lớn những người dành bất kì phút nào trong Tòa án hạt Orleans đều rất hài lòng khi thành phố Newport tiếp giáp với cái hồ ở vị trí đó. Tòa án nằm trên đường Main Street, tọa lạc ở đỉnh dốc, còn phòng xử án nằm ở tầng ba, tức là tầng cao nhất của tòa nhà hình hộp xây bằng đá và gạch có tuổi đời một thế kỉ. Phòng xử án có ba chiếc cửa sổ to vật vã nhìn ra hồ, cách đấy chỉ ba tòa nhà về phía Bắc. Các bồi thẩm viên được dành cho tầm nhìn toàn cảnh mặt hồ, cũng như hình thù và đỉnh các ngọn núi Owl’s Head và Bear ở phía xa. Tôi mường tượng trong những phiên xử ít quan trọng hoặc ít nổi tiếng hơn phiên xử mẹ tôi, các bồi thẩm viên đã ngắm nhìn mặt nước hồ đến ríu cả mắt. Dẫu vậy, ngay cả trong phiên xử mẹ tôi, bồi thẩm đoàn lại thỉnh thoảng dùng hồ Memphremagog như một nơi để tập trung khi họ muốn lảng tránh ánh mắt của mẹ tôi, hoặc khi một vật chứng cực kì rùng rợn được trình ra. Với tôi, đây chỉ là một lý do nữa để ghét cái hồ. Là bị cáo, mẹ tôi có tầm nhìn tuyệt vời về hướng mặt hồ: Bà và Stephen ngồi chung một bàn cạnh cửa sổ, và Stephen luôn chọn chỗ ngồi về phía giữa phòng xử án để có thể đứng lên và đi đi lại lại mà không cần phải leo qua người mẹ tôi hoặc thu hút sự chú ý không cần thiết về phía bà. Là con gái của bị cáo, tôi ngồi ở băng ghế đầu tiên - băng ghế ngay sau lưng bà - đồng nghĩa với việc cái hồ cũng là một sự hiện diện không thể tránh khỏi và không thể thoát trong mắt tôi. Ngay cả khi bố tôi chọn “chỗ ngồi cửa sổ”, bóng hồ vẫn hiển hiện trước mắt tôi: Cửa sổ vừa cao, vừa rộng, lại vừa sạch như thế cơ mà. May mắn là mẹ không có cùng quan điểm với tôi về hồ Memphremagog. Nhận ra cách truyền thông tiếp cận phiên tòa và vai trò của hình ảnh trong lịch sử truyền thông, bà đã nói một điều với bố, Stephen và tôi vào một buổi tối khi chúng tôi rời khỏi phòng xử án, cho thấy trong tâm trí bà, cái hồ không chỉ là một chứng nhân công bằng trước những sự kiện diễn ra ở tầng ba của một tòa nhà cách bờ nó chỉ vài dãy nhà, mà thực ra còn là đồng minh của bà. Trời đã xế chiều khi chúng tôi đi đến xe của mình, nhưng mặt trời vẫn chưa lặn. Lúc đó có lẽ gần năm giờ rưỡi. “Nhìn xem cô ta đang đứng ở đâu kìa,” mẹ tôi nói, chỉ về phóng viên của chi nhánh đài CBS tại Burlington, lúc bấy giờ đang nói trước ống kính máy quay phim, “và nhìn xem hậu cảnh sẽ là gì. Tất cả họ đều đứng ở đấy. Mọi người có nhận thấy không? Ngày này qua ngày khác, từng người trong số họ. Kể cả cô phóng viên từ đài Boston chỉ đến đây một buổi chiều. Chuyện này thật đáng chú ý đúng không? Tất cả họ đều đứng ngay đó.” Chúng tôi đã không chú ý điều đó - ít nhất tôi đã không chú ý - nhưng chúng tôi đều hiểu ngay lập tức mẹ muốn nói gì: Người phụ nữ nọ đang đứng bên kia đường, đối diện với tòa án, thay vì trước tòa nhà, hoặc trên bậc tam cấp tòa nhà. Một ai đó - chính cô phóng viên, hoặc người quay phim - hình như đã quyết định chọn hồ nước làm phông nền thay vì Tòa án hạt Orleans. “Ai không có mặt ở đây khi nghĩ về việc này sẽ nghĩ đến hồ nước,” mẹ tôi nói tiếp, “những người thấy nó trên ti vi. Ngày mai hoặc tuần sau hoặc bất kể khi nào, đó là điều họ sẽ nhớ khi họ hình dung toàn bộ chuyện này. Cái hồ đó. Cái hồ tuyệt diệu và bí ẩn đó.” Mọi hi vọng của Stephen về một phiên tòa không bắt đầu trước Giáng sinh đã bốc hơi khi kì nghỉ cuối tuần Lễ Lao động[19] cận kề. Tất cả chúng tôi đều biết đó sẽ là một phiên tòa mùa thu. Và chỉ hai ngày sau Lễ Lao động, ngày thứ tư đầu tiên của tháng chín, chúng tôi được thông báo chính thức về ngày diễn ra phiên tòa. Nó sẽ bắt đầu vào thứ hai, ngày 29 tháng chín, và Stephen nghĩ nó sẽ kéo dài ít nhất hai tuần. Có thể là ba tuần. Trong suốt mùa hè nóng bức, khô cằn quen thuộc đó - một tháng bảy khiến hoa lá héo tàn, ngô khoai còi cọc, và một tháng tám làm cạn khô nhiều giếng nước của hàng xóm chúng tôi - vụ kiện chưa bao giờ mất điều mà Stephen từng nhắc đến khi ở cạnh mẹ tôi là “năng lượng của bên công tố.” Khi mùa thu đến, người tên là Tanner dường như điên dại hơn bao giờ hết, thích thú tra tấn tinh thần mẹ tôi lẫn truy tố bà. Và dù ngẫm lại, tôi biết đây chẳng qua chỉ là định kiến của một cô bé mới lớn không hiểu “sự cung khai” chỉ là một thuật ngữ của luật sư để chỉ sự quấy rối được tòa cho phép, hoặc những cách mà cả bên bị lẫn bên nguyên dùng những lần ra tòa làm đối trọng để thu hút sự chú ý trước phiên tòa, tôi biết sự ngờ vực của tôi ít nhiều có lý: Bill Tanner thật sự rất lồng lộn, Bill Tanner thật sự rất khát máu. Cả Tanner lẫn thuộc hạ của lão ta đều không tin rằng mẹ tôi đã khước từ lời đề nghị của chính quyền bang về một năm tù giam (mà bà có thể chỉ thụ án sáu hoặc bảy tháng) và sáu năm tù treo để đổi lấy lời nhận có tội trước tội danh bất cẩn gây chết người. Nếu sáu năm tù treo nghe chừng khá dài, họ vẫn nghĩ đó là một đề nghị cực kì cao thượng và khoan hồng: Tuy Charlotte Bedford đã chết, mẹ tôi vẫn chỉ đi tù nửa năm mà thôi. Đúng, bà sẽ phải bỏ nghề bà mụ, nhưng đối với họ, đó là một cái giá nhỏ nhoi. Không có đề nghị nào tốt hơn thế này, họ hẳn đã nghĩ như thế; không có một thỏa thuận nào tử tế hơn. Trong khi đó, khi tin đồn về đề xuất của Tanner lan truyền trong giới y khoa, nhiều bác sĩ - đặc biệt là bác sĩ sản khoa - đã giận điên người. Giận bầm gan tím ruột. Ý nghĩ về một bà mụ hippie đã giết chết một người phụ nữ bằng một ca mổ lấy thai trong phòng ngủ (và trong bài công kích của họ, đây thực sự là một bối cảnh quan trọng) mà chỉ phải ở tù có vài tháng đã khiến nhiều bác sĩ nổi trận lôi đình. Tôi có cảm tưởng một vài người trong số họ dành thời gian để viết bài xã luận hoặc thư từ gửi đến báo chí còn nhiều hơn cả cho việc hành nghề y, và Stephen bắt đầu gọi Ủy ban nghề y là “Các nữ thần trả thù,” một cách liên tưởng vắn tắt mà cả tôi cũng hiểu. Nghĩ lại, tôi vẫn thấy ngạc nhiên khi có quá nhiều bác sĩ rõ ràng chẳng hề màng đến lời khuyên của chính họ về cách tránh căng thẳng. Từ cửa sổ phòng ngủ bố mẹ tôi, chỗ nhìn ra sân sau và thấy được núi Chittenden ở xa xa, tôi đã quan sát mẹ tôi và Stephen ngồi lọt thỏm trong hai chiếc ghế Adirondack[20] ở góc bãi cỏ cạnh mái hiên. Họ đã dịch chuyển ghế để có thể ngồi cạnh nhau và nhìn thấy mặt trời lặn qua làn không khí mùa thu ẩm ướt. “Xinh đẹp có thể là một bất lợi trước bồi thẩm đoàn,” Stephen đang nói, ông duỗi chân ra, luồn bàn chân xuyên qua lớp lá trên mặt đất. “Anh suy nghĩ nhiều quá đấy. Anh toàn suy nghĩ về những chuyện trời ơi đất hỡi mà thôi.” “Đó là nghề của tôi mà.” “Ái chà, tôi nghĩ chúng ta không cần phải lo rằng tôi quá đẹp đến mức đẩy chúng ta vào thế bất lợi.” “Đó sẽ là một yếu tố trong quá trình thẩm tra sơ khởi[21]. Ý tôi là vậy.” “Quá trình gì?” “Quá trình chọn lọc bồi thẩm đoàn.” “Đầu óc của anh suy nghĩ kiểu gì thế. Thật là không thể tin nổi.” “Tôi hi vọng đó là một lời khen.” “Tôi không biết. Tôi chỉ thấy nó thật khó tin.” “Đầu óc tôi ư?” “Quá trình này. Chính ý nghĩ rằng vì anh nghĩ tôi đẹp...” “Là ý nghĩ rằng bồi thẩm đoàn sẽ nghĩ chị đẹp. Tôi nghĩ gì chẳng liên quan.” “Ha!” “Họ sẽ nghĩ như thế, Sibyl ạ. Chị là một người phụ nữ đẹp không cần bàn cãi. Không cần bàn cãi. Và đối với một số bồi thẩm viên, nó sẽ là một lợi thế. Với những người khác, nó sẽ là một rắc rối mà chúng ta phải vượt qua.” Mẹ tôi và Stephen buông thõng cánh tay xuống hai bên ghế, những ngón tay của họ chạm vào lớp cỏ vừa chớm ngủ đông và những chiếc lá thu đã bắt đầu khô. Đôi khi đầu ngón tay họ chạm nhau, thỉnh thoảng mu bàn tay họ sượt qua nhau. Tôi tự hỏi liệu họ có đang tận hưởng những giây phút ngắn ngủi khi da họ cọ xát nhau hay không. “Con định để Connie chứng kiến thật ư?” bà ngoại hỏi mẹ vào một ngày thứ bảy giữa tháng chín, như thể tôi không có mặt ở đó, ăn trưa cùng họ tại bàn ăn trong nhà bếp của chúng tôi. “Chúng con thật sự sẽ để Connie chứng kiến,” mẹ tôi đáp. Tôi hình dung khi còn trẻ, bà ngoại là người cực kì khoan dung. Nói gì thì nói, con gái của bà đã bỏ học ở trường Mount Holyoke để chung sống với một người đàn ông lớn tuổi hơn ở Cape Cod, rồi sau đó trải qua một mùa đông với tổ chức Những con báo đen ở Boston. Khi mẹ Sibyl của tôi cuối cùng cũng trở về Vermont, bà đã có thai trước khi cưới, và bà đã làm cả hai việc đó khi còn rất trẻ. Và ngay cả khi đây từng là “thập niên sáu mươi” - một bức bình phong cho nhiều hành động quá giới hạn và một cái cớ cho mọi thể loại hành vi phản xã hội - thể nào cũng có người nghĩ rằng hai mẹ con họ sẽ căng thẳng với nhau ở chừng mực nào đấy. Nhưng họ luôn quả quyết rằng chẳng hề có căng thẳng gì sất, một điểm trong lịch sử gia đình mà bố nói rằng ông có thể chứng thực từ ít nhất là khoảnh khắc ông bước vào cuộc đời mẹ tôi. Tuy nhiên, đến khi Charlotte Fugett Bedford chết, bà ngoại tôi đã trở nên bảo thủ hơn. Chồng bà, ông ngoại tôi, đã qua đời mười năm trước, và một thập niên sống một mình đã khiến bà trở nên có phần khó chịu, cảnh giác, và dễ cau mày hoặc bới lông tìm vết. Và, đương nhiên, người đàn bà chứng kiến cô con gái mình ra tòa đã già hơn rất nhiều so với người đàn bà có con gái bỏ học cao đẳng: Bà đã từ tuổi ngũ tuần bước sang tuổi lục tuần, và cũng không thoát khỏi những trăn trở tuổi tác như bất kì ai. Tuy nhiên, Ngoại tôi - tên tôi gọi bà, ngay từ khi mười bốn tuổi - vẫn là một người phụ nữ ân cần và nhiệt tình suốt lúc tôi trưởng thành. Xu hướng ôm bạn khi gặp của mẹ tôi ít nhất có một phần do di truyền, và tôi sẽ mãi không đánh mất tình yêu dành cho mùi thoảng hương hoa, thoảng chất sát trùng từ keo xịt tóc của Ngoại: mũi tôi ngập ngụa mùi hương ấy mỗi khi ôm bà. Nói tóm lại, khi rõ ràng các cáo buộc chống lại mẹ tôi chỉ có thể dàn xếp thông qua một phiên tòa, Ngoại đã làm mọi cách để thuyết phục bố mẹ không cho tôi đến phòng xử án. Bà nghĩ đó sẽ là một trải nghiệm để lại ấn tượng xấu, và dù có một vài người tham dự phiên tòa đồng tình với bà - đặc biệt là khi chứng kiến cơn suy sụp tinh thần cuối cùng của tôi - bố mẹ lại biết tôi tha thiết muốn có mặt ở đó. Hơn nữa, tôi nghĩ họ nhận ra rằng nếu để tôi nghe những chi tiết quan trọng qua lời kể lại trong phòng tắm nữ ở trường thì ấn tượng cũng sẽ xấu không kém. Vì thế không quan trọng chuyện tôi sẽ nghỉ học hai (và có lẽ là ba) tuần; không quan trọng chuyện tôi sẽ thấy đủ loại vật chứng đáng sợ; không quan trọng chuyện tôi sẽ nghe người ta nói những điều thật sự khủng khiếp về mẹ tôi, hoặc phải chứng kiến nhiều kiểu nhân chứng trong đủ mọi bộ dạng khóc lóc ở bục. Dù gì đi nữa, không ai nghĩ Mục sư Asa Bedford sẽ giữ được điềm tĩnh trong suốt quá trình kiện tụng, hoặc Anne Austin sẽ chịu đựng không rơi một giọt nước mắt điều mà Stephen gọi là một cuộc đối chất “tìm và diệt thẳng tay, bắn tự do, hủy tàn nhẫn”. Và tôi nghĩ khi tháng chín đến, cả bố lẫn Stephen đều bắt đầu tự hỏi mẹ tôi sẽ phản ứng thế nào. Chúng tôi đều nhận thấy bà đã trở nên im lặng và ủ ê - không đến nỗi ảm đạm, chỉ là mệt mỏi vì mất ăn mất ngủ - và họ không ngừng cố gắng vực dậy tinh thần bà theo cách riêng của họ. Nhưng tất cả những chuyện này chẳng có gì quan trọng, vì bố mẹ tôi hiểu tôi thiết tha muốn tham dự phiên tòa. Tôi cảm thấy mình có trách nhiệm đạo đức phải có mặt; trong suy nghĩ của tôi, sự hiện diện của tôi là cách thể hiện tình đoàn kết quan trọng với mẹ. Vả lại, Stephen muốn tôi đến đó. “Stephen nghĩ Connie đây sẽ rất có ích,” mẹ tôi nói với ngoại, và siết nhẹ cánh tay tôi. Con đừng lo lắng về Ngoại, cái siết tay đó nói: Con sẽ đến tòa. “Có ích? Có ích thế nào?” “Connie sẽ là một sự nhắc nhở thường trực cho bồi thẩm đoàn rằng con không phải là một bị cáo vô danh. Con không chỉ là một bà mụ nào đó. Con là một người mẹ. Con có một đứa con gái, một gia đình.” Ngoại đã biến những củ cà rốt cuối cùng trong vườn rau của bà thành món rau trộn với nho khô và hạt óc chó, và trong khi lẽ ra phải thái cà rốt thành miếng nhỏ, chiếc máy xay của bà có tuổi đời lớn hơn cả tôi, vì thế món rau trộn vẫn còn nhiều khoanh màu cam to tướng. Tôi đã nhìn Ngoại cẩn thận nhai một khoanh như thế trong lúc suy nghĩ về lời giải thích của mẹ, và nhận thấy có một ít đất khô dính trên cổ tay chiếc áo len màu xanh nhạt của bà. Đất từ vườn của bà, tôi nghĩ. Có lẽ bà mới nhổ những củ cà rốt mà chúng tôi đang ăn ngay trong sáng hôm ấy. Bằng một giọng nghe giễu cợt hơn là nghi ngờ, bối rối hơn là giận dữ, cuối cùng Ngoại nói, “Như thế có nghĩa là họ sẽ khoan hồng?” “Đây không phải là chuyện khoan hồng!” mẹ tôi đáp trả. “Thế thì nó là...” “Con không cần khoan hồng.” “Vậy thì cậu luật sư ấy của con có ý gì? Tại sao cậu ta lại muốn Connie có mặt ở đấy đến thế?” “Cậu luật sư ấy của con? Mẹ à, mẹ có cần nói như thế không? Nghe thật là khủng khiếp. Cứ như mẹ nghĩ anh ấy là phường lang băm vậy.” Ngoại thở dài, rồi xoa các đốt bị viêm khớp trên những ngón tay dài. Cả mẹ và tôi đều biết Ngoại không hề nghĩ Stephen là lang băm. Sao bà có thể nghĩ thế? Nếu bà có ý gì đi nữa khi rút ngắn Stephen Hastings thành “cậu luật sư ấy của con,” nếu có bất kì ý gì sau lời nhận xét ấy đi nữa, thì nó có thể chỉ là một nỗi sợ mơ hồ xuất phát từ việc mẹ tôi có vẻ như lên giọng mỗi khi nhắc đếnStephen, cách mà từ đó nhuốm hứa hẹn và tô màu hi vọng khi phát ra từ mẹ. “Mẹ chỉ nghĩ Connie không nên đến đấy,” Ngoại nói sau một lúc, đặt hai tay lên đùi. “Nếu con không cần... khoan hồng hay thông cảm hay gì đi nữa, thì mẹ không hiểu tại sao con lại muốn đem một đứa bé mười bốn tuổi vào phòng xử án đó.” “Việc ấy biến mẹ thành một người có thật,” tôi xen vào, diễn giải một câu mà tôi đã nghe Stephen nói với bố mẹ đầu tuần đó. “Và điều đó khiến cho việc kết tội mẹ trở nên khó khăn hơn. Các thành viên bồi thẩm đoàn không thích kết tội những con người thật, những người có thể là hàng xóm của họ.” Cả hai người lớn quay sang nhìn tôi. “Hôm tối thứ tư con không làm bài tập về nhà, phải không?” mẹ nói, mặt làm ra vẻ nghiêm khắc. “Hôm tối thứ tư con có làm bài tập.” “Phải rồi, con đã làm bài tập sau khi Stephen về,” mẹ nói. Sau đó bà quay sang ngoại và nói tiếp, “Connie sẽ có mặt với con vì con yêu nó và con muốn nó đến đấy - miễn là con bé muốn đến đấy. Nó đã đi cùng chúng con một chặng đường xa thế này, có lẽ nó cũng nên nhìn thấy kết cục.” Tôi giật mình thức giấc giữa đêm vài ngày trước khi phiên tòa diễn ra, và qua tấm van nhiệt trên sàn, tôi nhìn thấy đèn phòng khách bên dưới vẫn sáng. Lúc đó đã gần hai giờ sáng. Thoạt đầu tôi nghĩ bố hoặc mẹ quên tắt đèn trước khi đi lên cầu thang, và tuy họ rất ít khi quên như thế, nhưng đó là khoảng thời gian không bình thường. Tất cả chúng tôi đều có quá nhiều việc phải bận tâm Tôi lăn người qua một bên, hi vọng sẽ ngủ lại nhanh, nhưng tôi nghĩ đã nghe thấy gì đó trong phòng khách. Một thứ gì đó mơ hồ như tiếng sột soạt, khó nhận thấy như một cơn gió. Một cơn lốc, có thể, xoay tít, cuộn lên từ tầng hầm thông qua khe hở giữa những tấm ván sàn. Có phải những tấm rèm chỉ khẽ rùng mình? Hay là ai đó đã thở ra, một sự run rẩy mong manh trong hơi thở của người đó? Tôi bò ra khỏi giường và vẫn mặc nguyên đồ ngủ cúi nhìn xuống tấm van nhiệt. Nếu có người trong phòng khách, thì họ cũng không phải đang ngồi trên ghế sofa, thứ duy nhất tôi có thể thấy - cùng chiếc bàn cà phê và một phần nền lò sưởi - xuyên qua tấm lưới sắt. Tôi không sợ cũng không lạnh, nhưng khi quyết định đi xuống cầu thang, tôi bắt đầu run lẩy bẩy: Connie Danforth, hệt như một nữ anh hùng trong các bộ phim kinh dị vớ vẩn mà tôi và lũ bạn thường xem, cô tư vấn viên học đường ngu ngốc đêm hôm vào rừng một mình, chiếu đèn pin hướng về phía trước mà không biết thực tế đã ra hiệu cho kẻ giết người tâm thần đeo mặt nạ khúc côn cầu đến giết mình. Những bậc thang vẫn im lìm khi tôi bước trên chúng, chủ yếu là do tôi biết chính xác phải bước vào đâu để tránh tiếng cọt kẹt thường vang lên. Tôi tự nhủ mình đi xuống cầu thang để lấy một cốc sữa. Nếu ai đó hỏi tôi đang làm gì - mà tại sao phải là ai đó, đây là nhà tôi cơ mà - thì tôi chỉ cần nói rằng: Tôi định đi lấy một cốc sữa. Đèn phòng ăn và nhà bếp đã tắt; tôi thấy phòng bùn tối mịt. Có lẽ đúng là bố mẹ đã quên tắt đèn. Có lẽ tôi đã chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng gió kì lạ thổi qua một căn nhà Vermont cũ kĩ khi chuyển mùa hoặc không khí miền Bắc trở lạnh. Tôi dừng lại ở lối đi vào phòng khách từ nhà bếp, lưng tựa vào tủ lạnh, và cảm thấy động cơ của nó rung rung dọc sống lưng mình. Có lẽ tôi đã chờ nghe một tiếng nói cất lên gọi tôi. Tôi tự hỏi mình có nghe thấy hay không, tiếng nói chuyện đột ngột cất lên của người trong căn phòng đó. Không nghe gì cả, tôi chống hai bàn tay vào tủ lạnh rồi quay về hướng phòng khách. Ở đó tôi thấy bố, một mình với hơn một chục tập giấy nhỏ ghim lại nằm rải rác quanh ông trên sàn nhà ở một góc phòng. Loại giấy photocopy hiệu Xerox. Ông vẫn đang mặc áo sơ mi mà ông mặc đi làm ngày hôm ấy, và quần tây màu xám nhạt. Ông ngồi lọt thỏm vào chiếc ghế bập bênh cạnh chiếc đèn bằng đồng trên sàn nhà. “Con thức khuya làm gì đấy, con yêu?” ông hỏi khi thấy tôi đứng ở cửa. Ông có vẻ lo lắng khi thấy tôi còn thức. “Con định đi lấy một cốc sữa ạ.” “Không ngủ được à?” “Không, ý con là, con giật mình dậy. Rồi con quyết định uống sữa luôn.” Ông gật đầu. “Con biết sao không? Bố nghĩ bố sẽ uống một cốc với con. Rồi có lẽ bố cũng phải đi ngủ thôi.” “Bố đang làm việc ạ?” tôi hỏi, chỉ về phía những xấp giấy tờ quanh ông trên sàn nhà. “Những thứ này à? Ồ, không phải đâu. Đấy là những tiền lệ. Tiền lệ pháp lý. Đấy là một số ca mà luật sư của mẹ con đã nghiên cứu khi lập hồ sơ bào chữa.” Tôi nhặt lên một tập giấy được ghim lại với nhau, một tập hợp gồm chín hoặc mười trang có nhan đề “Bang kiện Orosco.” Tôi xem lướt qua phần phụ chú dài dòng, một câu văn không hoàn chỉnh, giống như một nghiên cứu được viết sai ngữ pháp: “Những câu hỏi được chứng nhận về việc liệu thông tin và biên bản lời khai có tuyên thệ trong vụ kiện bất cẩn gây chết người có thiếu sót không sau khi đơn thỉnh nguyện bãi bỏ và thu lại lời khai bị từ chối.” “Bố đang đọc những thứ này à?” tôi hỏi, ngạc nhiên trước việc bố lại trừng phạt bản thân như thế. “Ừ.” “Tại sao?” Ông nhún vai. “Vì bố yêu mẹ con. Và bố muốn hiểu Stephen đang làm gì để bảo vệ bà.” Ông đứng dậy và dắt tôi vào nhà bếp, nơi tôi mới đứng chỉ một lúc trước với đầu óc chứa đầy nghi ngờ, rồi lôi ra từ tủ lạnh một hộp sữa.