- 15 -
Tôi không hề nghĩ rằng tôi sẽ sợ hãi khi việc này bắt đầu, nhưng tôi đang sợ. Tôi nghĩ mình sẽ vượt qua được một khi tôi đến đây, một khi tôi đã yên vị trong chiếc ghế của mình. Tôi đã nhầm. Hoặc có lẽ tôi đã chỉ bỡn cợt bản thân trong vài tuần qua.
Suốt cả ngày tôi cố gắng tập trung vào những điều nhỏ bé trong phòng xử án để đầu óc khỏi vướng bận những việc lớn lao, ngay cả khi tôi biết lẽ ra mình phải tập trung như thể chẳng có ngày mai.
“Không có ngày mai.” Tôi ước gì mình không có suy nghĩ đó. Nó thật đáng ghét.
Nhưng có những lúc tôi không làm được, có những lúc tôi chẳng thể nào tập trung nổi. Hoặc có lẽ tôi nên nói là tôi không muốn - có những lúc tôi không muốn tập trung. Ðôi khi, tôi chợt nhận ra chẳng nghĩ đến gì khác ngoài chiếc đèn chùm đẹp lạ lùng trong căn phòng này còn dễ hơn là nghĩ đến việc tôi có thể ngồi tù ở nơi nào đó trong khi cô con gái đáng yêu của tôi đang học cao đẳng hoặc khi nó sinh con đầu lòng.
Tôi tha thiết muốn có mặt khi con tôi sinh con đầu lòng.
Tôi muốn có mặt khi con tôi sinh con đẻ cái.
Và khi ý nghĩ tôi có thể bỏ lỡ một việc như thế xuất hiện trong đầu tôi ngày hôm nay, tôi đã tống nó ra khỏi đầu ngay lập tức và tập trung vào chuyện khác. Bất kì chuyện gì khác. Như chiếc đèn chùm chẳng hạn. Tôi đã nhìn thấy phòng xử án trước đây, khi tôi bị truy tố vào mùa xuân, nhưng hôm đó tôi chẳng ngó quanh quất gì cả, vì vậy tôi đã không nhận ra chiếc đèn chùm. Thật ra mà nói, tất cả những gì tôi thật sự làm sáng hôm đó là hiện diện trong chiếc áo đầm mùa xuân nhỏ bé trong lúc Stephen nói, “Không có tội, thưa quý tòa.” Mất khoảng hai giây.
Nhưng hôm nay tôi đã thấy chiếc đèn chùm, tôi không thể không thấy nó. Và nó đẹp, rất đẹp. Một chiếc đèn bằng sắt uốn treo đung đưa ở giữa trần nhà. Bóng đèn nằm trong những bông hoa tulip pha lê trang nhã, còn bộ khung kim loại là một chuỗi những vòng xoắn và đường uốn cong hết sức duyên dáng. Trong rất nhiều lần, tôi dễ hình dung trong đầu về những bông hoa tulip hoặc những đường uốn cong đó hơn nhiều so với khuôn mặt những người đang bị chất vấn đủ thể loại câu hỏi về đẻ tại nhà và nghề bà mụ. Hôm nay Stephen và Bill Tanner hẳn đã nói chuyện với ba mươi hoặc ba mươi lăm người, vậy mà họ vẫn chưa đạt thỏa thuận về việc ai có mặt trong bồi thẩm đoàn, ai không.
Vì thế, như Stephen đã nói, “Ngày mai chúng ta lại phải làm việc này nữa.” Tôi thật không tin nổi.
Tôi nghĩ hôm nay có bốn hoặc năm người ở trên đó ghét tôi dù chẳng biết tôi là ai. Trước đây việc đó chẳng làm tôi bận lòng. Trước khi Charlotte chết, tôi không hề nghĩ rằng tôi sẽ lúng túng khi gặp phải một người ghét tôi vì công việc tôi làm. Tôi nghĩ tôi đã xem nó như rắc rối của họ, chẳng phải việc khiến tôi phải lo lắng mất ăn mất ngủ. Nó giống như, “Này, tự mà lo lấy. Ðấy là việc của chị, không phải của tôi.”
Nhưng hôm nay nó thực sự khiến tôi phát cáu. Nó thực sự khiến tôi sợ chết khiếp.
Từ chỗ tôi ngồi, tôi có thể nhìn thấy hồ Memphremagog, và chiều nay, khi thỉnh thoảng lại có một bồi thẩm viên tiềm năng kể chuyện con của ông ta đứa nào cũng được đẻ trong bệnh viện vì nơi đó an toàn hơn, tôi lại cố gắng hình dung đến hồ nước trong đầu. Rồi tôi có thể nhìn chăm chú vào người đàn ông đó và làm ra vẻ như đang lắng nghe, trong khi kì thực tôi chỉ đang nhìn cái hồ.
Tôi cá rằng nước hồ lúc này rất lạnh, lạnh khủng khiếp.
Bây giờ thật không phải là thời điểm thuận lợi trong năm để tổ chức một phiên tòa như thế này. Ít nhất là đối với tôi. Mọi thứ đều đang chết đi, hoặc ngả nâu. Tôi không có thói quen bận tâm đến mùa thu. Năm nay thì khác. Ðó là một điều có vẻ như khác lạ nữa với tôi kể từ khi Charlotte chết. Ðột nhiên tôi ghét mùa thu.
Hôm nay có những khoảnh khắc tôi nhận ra mình đang dán mắt vào mặt nước hồ và rùng mình khi nghĩ đến nơi tôi đang ở lúc nước hồ đóng băng.
trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
CÁC BÁC SĨ KHÔNG PHẢN ĐỐI, họ vận động hành lang. Họ không phải loại người tụ tập bên ngoài phòng xử án với áp phích và bảng đeo hai mặt, hoặc nắm tay nhau và hát những bài chống đối. Các bà mụ thì ngược lại. Các bà mụ chính xác là kiểu người tranh thủ công chúng để bày tỏ quan điểm chính trị của mình.
Và thế là trong khi các bác sĩ làm cho sự hiện diện của họ trở nên có thế lực theo nhiều cách khác nhau trước và trong khi phiên xử mẹ tôi diễn ra - họ quả thật rất thích ra làm chứng - song họ đã không đứng trên bậc tam cấp của Tòa án hạt Orleans.
Nhiệm vụ đó thuộc về các bà mụ.
Vào hôm thứ hai khi phiên xử mẹ tôi bắt đầu, gia đình tôi đã được khoảng sáu mươi đến bảy mươi người chào đón ở Newport, tính luôn các bà mụ và khách hàng của họ. Có những bà những cô tôi nhận diện được, như Cheryl Visco và Megan Blubaugh, Molly Thompson và Donelle Folino, song cũng có rất nhiều đàn ông đàn bà tôi chưa từng thấy trước đây, nhưng là những người dường như có niềm tin mãnh liệt vào quyền của một người đàn bà được đẻ con trên chính giường ngủ của mình. Một số bệnh nhân của mẹ tôi cũng có mặt ở đó, những khuôn mặt tôi ghi nhớ từ các lần khám thai ở nhà chúng tôi mà gần đây nhất là vào mùa đông năm trước. Khi vào bên trong, chúng tôi nhanh chóng nhận ra, còn có thêm nhiều khách hàng của mẹ, lặng lẽ đan len hoặc cho con bú ở ba băng ghế cuối cùng.
Chúng tôi đã trông thấy những người ủng hộ ngay khi lái xe đến đường Main Street vào buổi sáng hôm đó. Họ đứng như đội chiến binh dọc hai bên bậc tam cấp tòa án và thành những hàng dài trên bãi cỏ mở rộng ra từ đường bộ đến cửa trước. Chúng tôi đã đến New Port trong chiếc xe nhà ga cũ đặc trưng của mẹ tôi, nên được họ nhận ra ngay lập tức, và tiếng reo hò trỗi dậy khi chúng tôi đưa xe xuống bãi đỗ xe nằm giữa tòa án và hồ nước.
“Hãy trả tự do cho Sibyl, hãy để trẻ em được đẻ tự nhiên!” là khẩu hiệu đầu tiên chúng tôi nghe được từ đám đông, vừa bước xuống xe đã nghe. Trong tất cả những câu khẩu hiệu chúng tôi nghe được vào những tuần tiếp theo (và chúng tôi đã nghe được rất nhiều), đó là câu khẩu hiệu tôi không thích nhất. Nó ngụ ý mẹ tôi không tự do; nó gợi ra nhà tù, sự giam cầm và sự tan nát của gia đình tôi.
Đáng tiếc là, cho đến ngày nay, đó là câu tôi nghe thấy thường xuyên nhất trong đầu. Những câu khác - hoặc là bài thơ con cóc liên hệ bệnh viện với phòng thí nghiệm, hoặc là bài hát ngắn nâng tầm chuyện đẻ tại nhà lên thành một nghi lễ tôn giáo - trở lại với tôi khi tôi nghĩ ngợi về những tuần lễ đó, nhưng giờ đây chúng không nhảy xổ ra trong đầu tôi như những bài hát dở ẹ trong lúc tôi khám cho bệnh nhân hoặc pha cà phê.
Như kế hoạch, Stephen và một cộng sự trẻ từ công ty của ông đã đợi sẵn tại bãi đỗ xe khi chúng tôi đến. Đêm hôm trước có sương mù, vì thế tuy mặt trời đã lên cao vào lúc tám rưỡi, không khí vẫn lành lạnh và tôi trông thấy hơi thở của Stephen khi ông nói chuyện.
“Chị có người hâm mộ kìa,” ông nói, chỉ về đoàn người biểu tình ở bên kia đường.
Mẹ tôi mỉm cười. “Anh có đứng sau chuyện này không?”
“Chúa ơi, không! Chúng ta đã đảm bảo sẽ có một số bạn bè ở trong phòng xử án - những người bạn im lặng - nhưng những người biểu tình đằng kia đích thân đến đây. Đừng hiểu nhầm, tôi tuyệt đối hài lòng khi họ ở đây, nhưng tôi chẳng liên can gì cả.”
Những người lớn bắt tay nhau, và tôi được giới thiệu với cộng sự của Stephen, một người đàn ông trẻ hơn ông ta vài tuổi, tên là Peter Grinnell. Peter không có vẻ chải chuốt của Stephen, và rõ ràng ông ta rất thích bột chiên và xúc xích - những món đặc sản hấp dẫn ở các hội chợ hạt và thị trấn thường mở màn tại Vermont vào đầu tháng tám và tiếp diễn cho đến tuần đầu tiên của tháng mười. Mái tóc ông rất mảnh, làn da nhợt nhạt, và ông ta cần phải giảm từ mười ba đến mười tám kí lô.
Tôi không thể hình dung người đàn ông này có điểm nào thích hợp với công ty luật danh giá - khiến người ta vừa thấy đã sợ - mà tôi đã xem lướt qua hôm nọ ở Burlington; tôi ngạc nhiên khi một người như Stephen lại muốn ông ta làm việc ở đó. Peter mặc một chiếc áo choàng, vì thế tôi không thấy được bộ complet của ông ta, nhưng tôi nhận ra mình đã hi vọng nó, như Stephen nói, nhỉnh hơn một bậc so với bất kì thứ gì mà Bill Tanner mặc.
“Chị cảm thấy thế nào, Sibyl?” Stephen hỏi.
Mẹ tôi nhún vai. “Tôi có thể cảm thấy tim mình đang đập khá nhanh. Nhưng tôi nghĩ tôi không sao.”
“Lên dây cót chưa?”
“Chưa, Stephen ạ, anh biết là chưa mà,” bà lắc đầu đáp, giọng nghe chừng bỏ cuộc. “Tôi không phải kiểu người lên dây cót.”
“Nhưng họ thì phải,” ông nói, và chĩa ngón cái như kiểu người đi nhờ xe vào những bà mụ và người đẻ tại nhà sau lưng chúng tôi.
“Họ không phải là tôi.”
“Chà, trông chị...” Stephen khựng lại giữa chừng, một khoảng dừng ngay lập tức tỏ ra sượng sùng và không giống luật sư của mẹ tôi chút nào. “Trông chị giống như đã sẵn sàng,” cuối cùng ông nói.
Tôi luôn cho rằng điều Stephen muốn nói là mẹ tôi trông thật đẹp. Hoặc là quả cảm, có lẽ thế. Hoặc là can đảm. Vì mẹ tôi quả thực trông như tất cả những điều đó, ít nhất là với tôi. Trông bà có vẻ mệt mỏi và xanh xao, nhưng ngẫm lại, tôi nghĩ tôi đã hiểu tại sao ít nhất một trường phái sắc đẹp vào thế kỉ mười chín lại tôn vinh vẻ đẹp nhợt nhạt như bệnh lao - tại sao, ngay cả vào phút chót, Lucy Westenra và Mina Harker của Bram Stoker[22] vẫn được cho là kiều diễm. Mẹ tôi kẹp mái tóc màu vàng hoe của mình bằng một chiếc kẹp tóc màu xanh nhạt, và bà đang mặc chiếc váy kẻ giản dị màu xanh lá cây giống loại váy nữ sinh mà bà đã mua đặc biệt cho dịp này. Không giống những bà mụ ở bên trong lẫn bên ngoài tòa án, bà mang giày da và tất dài.
Nhưng tôi nghĩ Stephen khựng lại vì bố tôi có mặt ở đó. Có lẽ ông ta sẽ nói với mẹ rằng ông nghĩ bà rất hấp dẫn nếu hai người ở riêng với nhau.
“Dĩ nhiên, tôi sẵn sàng rồi,” mẹ tôi nói. “Bây giờ tôi đâu còn lựa chọn nào khác, đúng không?”
“Đúng rồi. Chắc là thế.”
Mẹ gật đầu, và bố khoác tay qua vai bà.
“Ngoài này lạnh quá,” ông nói với hai người luật sư và tôi. “Chúng ta vào trong đi.”
“Bà ngoại chưa đến đây,” tôi nói, chẳng cụ thể với một ai.
“Liệu bà của cháu có tìm được đường đến phòng xử án không?” Stephen hỏi.
Trước khi tôi kịp trả lời, bố nói ông sẽ đi với chúng tôi đến cửa trước tòa án rồi đợi bà ở đấy. Thế là giữa mùi hương của sơn mới và áp phích, năm người chúng tôi len lỏi qua một biển những người phụ nữ mặc váy bohemian in hoa và choàng khăn kiểu Nga, những người đàn ông để râu dài đến lưng chừng ngực, và hàng chục đôi chân đàn ông đàn bà mang tất len dày và dép xăng đan.
Tôi đã không nhận ra rằng Charlotte Fugett Bedford có một chị gái và một anh rể. Chẳng hiểu sao tôi đã quên mất chi tiết cô cũng có một người mẹ.
Và chẳng ai nói với tôi rằng ba người đó đã đi từ Alabama đến Vermont để ngồi ở băng ghế sau Bill Tanner và trợ lý của lão ta để theo dõi phiên xét xử mẹ tôi.
Nhưng khi tôi bước vào phòng xử án, tôi lập tức biết họ là ai. Chẳng cần ai phải nói với tôi. Hai người phụ nữ có nét phảng phất giống người thân đã khuất của họ, và kiểu nghiêng đầu tựa vào người đàn ông của người phụ nữ trẻ hơn cho thấy họ đã kết hôn. Cả ba đều mặc trang phục chỉ thích hợp cho mùa hè, quá mỏng manh để đến Vermont trong tuần cuối cùng của tháng chín.
Tôi thấy họ trước khi họ thấy tôi, vì thế buổi sáng đầu tiên đó, tôi có thể nhìn tránh đi trước khi mắt chúng tôi chạm nhau và tôi phải thừa nhận nỗi buồn hằn sâu trên gương mặt họ. Dù tôi không tin rằng mình đã xem nhà Fugett hoặc nhà Bedford sở hữu sự độc ác mà Bill Tanner mang trong người, nhưng vào mùa hè năm đó, tôi đã cố gắng để quên hoặc lờ đi chuyện mẹ tôi không phải là nạn nhân trong bi kịch này, hoặc chuyện - trong mắt nhiều người - bà không phải là người duy nhất chịu khổ sở.
Hai mươi tám ứng viên bồi thẩm đoàn được chấp hành viên tòa án xếp ngồi thành bốn hàng, mỗi hàng bảy người: Hai hàng trong bồi thẩm đài nâng cao, hai hàng trên những chiếc ghế gỗ có lót đệm ngay phía trước đó. Như thế có nghĩa là hai hàng trước thì thấp hơn hai hàng trong bồi thẩm đài, vì thế trong phòng xử, khu vực đó có vẻ giống như một rạp chiếu phim. Các ghế ngồi có độ dốc xuống.
Ngoài ra, một chục bồi thẩm viên tiềm năng khác an tọa tại hai hàng ghế gần bồi thẩm đài nhất trong phòng xử án, và trong suốt buổi sáng khi Bill Tanner đặt ra hằng hà sa số câu hỏi, một vài người trong số họ lại đến thế chỗ của những người khác ở các dãy ghế dọc phòng xử án.
Mục đích là để tìm ra mười hai bồi thẩm viên và hai người dự phòng được cả Stephen Hastings lẫn Bill Tanner chấp thuận. Mỗi bên được bác sáu người mà không cần phải nêu lý do với thẩm phán, điều đó có nghĩa là nếu chỉ có một hoặc hai lần phản đối có lý do chính đáng - tức là loại một bồi thẩm viên tiềm năng vì những nguyên nhân rất kịch tính như thiên vị có thừa nhận, hoặc tầm thường như một cuộc hẹn gặp bác sĩ không thể dời được trong thời gian diễn ra phiên tòa - thì một bồi thẩm đoàn có thể được lập ra từ nhóm hai mươi tám người đầu tiên đó.
Dĩ nhiên, điều này hiếm khi xảy ra, và phiên tòa của mẹ tôi đương nhiên cũng không ngoại lệ. Không có giới hạn số lượng ứng viên bồi thẩm đoàn có thể bị loại vì lý do chính đáng, và luật sư chính của cả hai bên dường như khá giỏi ở khoản đào bới ra lý do để loại người ta mà không cần dùng đến bất kì lần nào trong sáu lần bác bỏ cần thiết quý giá của họ.
Có lẽ ở đâu đó trong các tập hồ sơ dưới tầng hầm của Tòa án hạt Orleans, hoặc trong một chiếc đĩa mềm hoặc chiếc máy tính ở một văn phòng trên tầng hai hoặc tầng ba của tòa nhà, là tên của vài chục người đàn ông đàn bà nằm trong danh sách bồi thẩm đoàn ban đầu vào cuối tháng chín đó. Có lẽ không. Nhưng nhiều cái tên trong số hai mươi tám người đầu tiên ấy (kể cả tên của đội quân tiếp viện tham gia cùng họ, khi lần lượt từng người bị Stephen hoặc Bill Tanner loại ra sau khi nêu thêm một lý do nữa khiến người đó không thể ngồi vào ghế phán xét mẹ tôi một cách khách quan hoặc hợp lý được) đã bị xóa nhòa trong kí ức tôi cùng với tên của mười bốn người cuối cùng.
Nhưng những khuôn mặt thì không phai nhạt; tôi vẫn nhớ rõ mồn một mặt mũi và vóc dáng của mười bốn người cuối cùng đó. Hơn nữa, tôi biết - hoặc ít ra tôi tin rằng mình biết - chính xác ai là người Stephen lấy làm vui khi ngồi vào bồi thẩm đài trong hai tuần, và chính xác người nào khiến ông ta cảm thấy không thoải mái.
“Anh chị muốn người trong bồi thẩm đoàn là những người ủng hộ sinh tại nhà, hay là những người nghĩ rằng đó là một chuyện hết sức ngớ ngẩn?” Stephen hỏi bố mẹ và tôi vào đêm thứ năm trước khi phiên tòa bắt đầu. Stephen đã đưa gia đình tôi đến dùng bữa tối tại một nhà hàng Pháp ở Stowe, kiểu nhà hàng khiến tôi mất bốn mươi phút chọn áo váy trong tủ quần áo trước khi tìm được cách phối hợp mà tôi nghĩ ngay rằng vừa duyên dáng vừa cá tính. Stowe gần Reddington hơn Burlington một tẹo, nhưng nó xem ra vẫn nằm ngay giữa hai thành phố, và tôi tưởng tượng Stephen đã hi vọng một buổi ăn tối bên ngoài sẽ vực dậy tinh thần mẹ tôi trước khi phiên tòa cuối cùng cũng diễn ra.
Chúng tôi vừa kết thúc bữa ăn và ba người lớn đang nhấm nháp cà phê thì Stephen nêu ra chủ đề về thành phần bồi thẩm đoàn. Như thể ông là một giáo sư khoa luật còn gia đình Danforth là một nhóm sinh viên, ông nói tiếp, “Anh chị nghĩ sao: Anh chị muốn một nhóm những người nghĩ rằng sinh tại nhà là một đề xuất an toàn hoàn hảo, hay là một nhóm người nghĩ việc đó còn nguy hiểm hơn cả cho máy bay hạ cánh trong bão?”
“Tôi nghĩ mình muốn những người ủng hộ sinh tại nhà,” bố tôi nhanh nhảu đáp. “Họ sẽ thông cảm hơn.”
“Thông cảm hơn cho Charlotte hay Sibyl?”
“Sibyl,” bố tôi đáp, và ngay lập tức tôi bắt đầu lo cuộc trò chuyện sắp chuyển sang hướng mà tôi sợ. Tôi không biết câu trả lời của bố đúng hay sai và sai lầm của bố sẽ khiến ông bẽ mặt - và sau đó sẽ khiến ông phát cáu, hay là cuộc thảo luận sẽ xấu đi chỉ vì chủ đề đó quá nhạy cảm. Nhưng tôi biết mình không thích cách Stephen đặt tách cà phê xuống rồi nhún vai sau khi bố thốt ra tên của mẹ.
“Có thể đó là kiểu người chúng ta mong muốn,” Stephen từ tốn nói, “nhưng cũng có thể không. Rõ ràng tôi và các cộng sự đã bàn đi bàn lại vấn đề này. Cá nhân tôi muốn thấy một bồi thẩm đoàn gồm những người tin rằng đẻ tại nhà là một cách sinh con hợp lý. Nhưng tôi có hai cộng sự tỏ ra rất thuyết phục khi lập luận rằng tôi nên cố gắng tập hợp được một nhóm những người nghĩ chuyện đẻ ở trong phòng ngủ là một việc vô cùng ngu ngốc, một nhóm những người...”
“Một nhóm những người gì?” mẹ tôi hỏi Stephen khi ông ta dừng lại.
“Hãy thứ lỗi cho tôi, Sibyl,” Stephen nói, hít vào thật sâu trước khi lựa lời nói tiếp. “Một nhóm những người nghĩ rằng việc sinh tại nhà là quá... nguy hiểm nên Charlotte mới phải trả giá.”
Mẹ tôi nghiêng đầu và đặt một bàn tay lên một bên cổ. Tôi nhớ là toàn bộ bàn ăn trong nhà hàng - tối hôm ấy nhà hàng đông nghịt những cặp đôi lớn tuổi giàu có đến Vermont vào mùa thu để ngắm lá chuyển thành màu vàng, cam và đỏ - dường như đã trở nên im lặng xung quanh chúng tôi, và đột nhiên tôi không còn nghe được cả những cuộn băng nhạc cổ điển đang mở suốt bữa ăn. Tôi nghe một tiếng rít cao vút trong tai mình, và tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra trước: Mẹ tôi sẽ khóc, hay bố tôi sẽ mắng lại Stephen?
Tôi đã sai; chẳng có việc nào xảy ra cả. Tôi tin bố hẳn sắp sửa nói với Stephen bằng giọng tức giận rằng ông ta đã nói quàng nói xiên, nhưng mẹ lại lên tiếng trước. Dù mệt mỏi, dù chưa sẵn sàng phấn khởi về mặt cơ thể, như cách mà hai người đàn ông quanh bà mong muốn, nhưng mẹ tôi vẫn rất mạnh mẽ.
“Tôi không nghĩ đó là một lựa chọn thông minh,” bà nói, giọng nhẹ nhàng nhưng cương quyết. “Tôi không nghĩ biến các bà mẹ của tôi hoặc tôi trông như những kẻ ngốc thì sẽ có ích lợi gì cho chúng ta.”
Stephen gật đầu, và âm nhạc, cuộc trò chuyện và âm thanh dao nĩa chạm vào đĩa sứ cao cấp lại vang lên. “Tôi đồng ý. Tôi chỉ nói với anh chị điều mà một số cộng sự của tôi tin là đúng thôi,” Stephen nói.
Bố tôi tựa lưng vào ghế. “Vậy là tôi đã đúng. Anh sẽ lấp đầy bồi thẩm đoàn với những người ủng hộ đẻ tại nhà.”
“Tôi nghi ngờ mình có thể ‘lấp đầy’ được bồi thẩm đoàn với những người như thế. Nhưng nếu tôi tìm được những người có vẻ như suy nghĩ như thế, thì tôi sẽ cố gắng giữ họ lại.” Ông ta quay mặt sang trực diện mẹ tôi và nói tiếp, “Tôi xin lỗi. Tôi chỉ hi vọng có thể diễn đạt được rằng toàn bộ chuyện này vô cùng phức tạp, ngay cả đối với tôi.”
“Ngay cả đối với anh,” bố tôi nói. “Hãy tưởng tượng mà xem.”
“Với tư cách là một luật sư, Rand ạ. Ý tôi là vậy.”
“Tôi hiểu.”
Stephen thở dài. “Có lẽ tôi đã giải thích được một nửa vấn đề rồi. Nhưng trước nguy cơ sự việc rối rắm hơn nữa, tôi sẽ nói với anh chị một chuyện khác: Ngay lúc này thì tôi đã hiểu mình không muốn ai có mặt trong bồi thẩm đoàn rõ hơn là muốn ai có mặt.”
“Và người đó là?” bố tôi hỏi.
“Chà, xem nào. Trước tiên, tôi sẽ cố gắng tránh xa những phụ nữ ở độ tuổi sinh con. Tôi không chắc họ có thể tách mình ra khỏi nạn nhân hay không. Và tôi không muốn bất kì y tá, bác sĩ hoặc kĩ thuật viên cấp cứu y tế nào cả. Không một tình nguyện viên nào từ đội cứu hộ của thị trấn. Điều cuối cùng chúng ta cần là những con người không đủ hiểu biết như họ tưởng mà lại đi phê phán Sibyl. Và, đương nhiên, sẽ không có một người nào trong bồi thẩm đoàn từng ở cạnh một ca sinh đẻ tồi tệ - từng có một ca đẻ như thế, hoặc chứng kiến một ca, nghe kể về một ca rất gần nhà. Tôi có thể đảm bảo với anh chị điều đó.”
“Anh muốn có nhiều nam hay nữ hơn?” bố tôi hỏi. Các ngón tay của mẹ vẫn đặt trên cổ, và dù bà đang nhìn Stephen chăm chú - có lẽ đã nhìn như thế kể từ khi ông ta xin lỗi ít phút trước - tôi vẫn không nghĩ rằng bà thấy ông. Tôi biết ở chừng mực nào đó bà đang lắng nghe, và tôi biết bà sẽ nhảy vào cuộc trò chuyện trở lại nếu cần tháo ngòi một quả bom đang bốc khói giữa chồng mình và luật sư; tuy nhiên, bà có vẻ như hài lòng khi ngồi yên và để hai người đàn ông hao hơi tổn sức phỏng đoán.
“Không đơn giản là chuyện nam nữ. Tôi ước gì nó đơn giản như thế. Tôi nghĩ trong trường hợp này việc tìm được người thông minh thì quan trọng hơn.”
“Là do các chuyên gia à?”
“Đúng. Một người thông minh sẽ kiên nhẫn trong lúc nghe lời khai về những chuyện như chuẩn mực chăm sóc. Hoặc kết quả khám nghiệm tử thi nói gì - và không nói gì. Và người thông minh sẽ không tự động quy kết rằng bác sĩ và chuyên gia của chính quyền bang nhiều uy tín hơn bác sĩ và chuyên gia của chúng ta.”
Và thế là khi các luật sư bắt đầu lập bồi thẩm đoàn - hỏi hết câu này đến câu khác với những người nông dân, nhân viên cửa hàng và thợ đốn gỗ lớn tuổi hợp thành đội ứng tuyển - tôi hiểu ai là người chúng tôi muốn góp mặt trong bồi thẩm đoàn và ai là người chúng tôi không muốn. Tôi ngồi ở hàng ghế đầu tiên ngay sau lưng mẹ, Stephen và Peter Grinnell, bố một bên và bà ngoại một bên cạnh tôi, và tôi lên trong đầu một danh sách những người tôi muốn còn lại cuối cùng trong bồi thẩm đài.
Hai luật sư tập sự từ công ty của Stephen và Patty Dunlevy ngồi với gia đình tôi trên băng ghế của chúng tôi, nhưng ba người nhà của Charlotte có một băng ghế riêng. Người ta muốn cho họ khoảng cách. Còn lại thì chẳng có một chỗ trống nào trong phòng xử án.
Băng ghế của nhà Danforth và nhà Fugett ngang hàng nhau, nhưng hai gia đình chúng tôi bị ngăn cách bởi một lối đi rộng, một thám tử tư và các luật sư tập sự. Chỉ khi tôi đang quan sát các bồi thẩm viên ngồi dọc bức tường cạnh cửa nhất thì mới có nguy cơ một người trong nhóm người Alabama quay đầu qua và bắt quả tang tôi đang nhìn chăm chú, hoặc tôi phải lập tức nhìn đi nơi khác để tránh ánh mắt mà tôi sợ sẽ chứa đầy hận thù.
Tuy nhiên, có một lần trong số ít dịp tôi đang quan sát nhà Fugett, ngay sau khi hai mươi tám bồi thẩm viên ban đầu đã yên tọa, tôi nhận ra một thành phần quan trọng của gia đình ấy vắng mặt. Tôi rướn người qua bà ngoại và hỏi luật sư tập sự ngồi cạnh bà, một cô gái trẻ mà tôi được biết tên là Laurel, “Mục sư Bedford đâu ạ?”
“Ông ấy sẽ ra làm chứng,” cô ấy thì thầm, “vì thế ông ấy được ngồi riêng. Chừng nào đến phần biện luận kết thúc, ông ấy mới có mặt trong phòng xử án.”
“Foogie có đến không ạ?”
“Foogie?”
“Thằng bé ấy,” tôi đáp, và rồi, nhớ ra bây giờ thực sự có đến hai thằng bé, nhanh chóng bổ sung, “đứa lớn hơn.”
“Ý em là Jared, phải không? Không, nó sẽ không đến đây. Ít nhất thì tôi không nghĩ vậy.”
Tôi ngả người ra lưng ghế, cảm thấy nhẹ nhõm. Ngồi cách chị và mẹ của Charlotte chín, mười mét đã là quá tệ rồi; sẽ không thể chịu nổi khi chứng kiến ông góa cô đơn cùng một con trai bé nhỏ mà giờ đây ông ta buộc phải tự tay nuôi nấng.
“Đây là sự khác biệt không nhỏ,” Bill Tanner nói với nhóm ứng cử viên bồi thẩm đoàn, chậm rãi đi đi lại lại giữa bàn của lão và ghế chủ tọa. “Một phần quan trọng trong công việc của quý vị sẽ là hiểu sự khác nhau giữa mối nghi ngờ hợp lý và mối nghi ngờ tưởng tượng - chúng khác nhau đấy - rồi đưa ra một phán quyết có lý.”
Tôi không biết Tanner có phải là loại người thích câu cá bằng côn trùng[23] hay không, nhưng tôi quen biết khá nhiều người lớn thích môn này ở Reddington để có thể tưởng tượng vào lúc đó rằng lão ta đúng là một người như vậy: Lão bước như đang lội qua chỗ nước cạn, nhấc cao chân và di chuyển thận trọng. Lão cao và gầy, trước mặt bồi thẩm đoàn lão nói chuyện như một ông già. Lão có vẻ kiên nhẫn và bài bản, loại người cột dây câu hết sức tỉ mỉ và rồi đứng trong dòng sông một cách vui vẻ, tung dây câu hàng giờ liền.
Tôi đã nghe giọng của Tanner hai lần trước đó trong bản tin truyền hình, nhưng buổi sáng hôm đó là lần đầu tiên tôi nghe trực tiếp, và lần đầu tiên tôi nghe lão nói thao thao bất tuyệt: Thật khó tin rằng người đàn ông nhã nhặn này lại có thể nói ra những điều khủng khiếp về mẹ tôi như lão đã nói, hoặc rằng lão sẽ sớm nói những điều còn tồi tệ hơn nữa.
Tóc lão gần như bạc trắng, còn khuôn mặt hằn sâu nếp nhăn. Lão thường cầm kính bằng một bên gọng trong lúc nói, để lộ ra những dấu đỏ hằn sâu dọc sống mũi nơi cặp kính thường ấn vào. Tôi đoán lão khoảng năm mấy sáu mươi tuổi rồi.
“Còn ông thì sao, ông Goodyear? Ông có cần cảm thấy chắc chắn một trăm phần trăm về tội lỗi của ai đó trước khi kết án người đó, hay ông sẽ kết án sau khi loại bỏ mọi nghi ngờ hợp lý?” lão hỏi.
“Trên đời này chẳng có thứ gì là chắc chắn một trăm phần trăm cả,” Goodyear trả lời. Sáng hôm đó ông đã nói mình là thợ in của một nhà in ở Newport, và dấu vân tay của ông đã bị mực in làm phai.
“Trừ các khoản thuế,” Tanner nói. Một tay lão đang cầm mắt kính, còn tay kia đang cầm một tờ giấy có kẻ ô. Ô đó liệt kê những bồi thẩm viên tiềm năng theo hàng, vì thế Tanner biết tên của tất cả mọi người.
“Ông có con không, ông Goodyear?”
“Hai con trai.”
“Chúng bao nhiêu tuổi?”
“Một đứa mười tuổi, một đứa bảy tuổi. Không, tám tuổi. Nó sắp tròn tám tuổi. Tuần tới.”
“Ông lập gia đình rồi chứ?”
“Vâng. Được mười hai năm rồi.”
“Vợ ông làm gì?”
“Cô ấy làm việc hai ngày mỗi tuần tại căn tin trường học. Thời gian còn lại cô ấy chăm con.”
“Ông sinh trưởng ở khu này chứ?”
“Đúng thế.”
“Ông thật là may mắn,” ông ta thở dài. “Đây là một trong những khu đẹp nhất của bang.”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Ông sinh ra tại đâu?”
“Newport.”
“Ở ngay thành phố này à?”
“Đúng vậy.”
“Bệnh viện?”
“Đúng rồi.”
“Các con của ông thì sao? Chúng sinh ra ở đâu?”
“Cũng ở bệnh viện đó.”
“North Country à?”
“Phải.”
Ngày nay, ta hình dung luật sư đứng trên bục và dùng micro. Thời đó ở cái góc Vermont quê mùa của chúng tôi, tình hình lại khác. Như diễn viên sân khấu, các luật sư nói rất to đủ để nghe thấy, và họ làm thế mà không cần lên giọng. Họ cầm ghi chú trong tay lúc nói, và nếu họ cần chỗ để đặt giấy tờ, họ dùng bàn của mình.
“Những lần chuyển dạ có dễ dàng không? Hay là khó nhọc? Hay ở khoảng giữa?”
“Chúng dễ dàng đối với tôi,” ông Goodyear đáp. “Một lần tôi ở nhà chị vợ ăn tối, còn lần kia thì ở trong phòng chờ với cả hai gia đình chúng tôi.”
“Chúng có dễ dàng với vợ ông không?”
“Tôi nghĩ là có. Chúng tôi đã có hai đứa con trai ngoan ngoãn từ hai lần đó.”
“Ông và vợ có tính đến chuyện đẻ con tại nhà không?”
“Ý ông là thay vì đến bệnh viện ư?”
“Đúng. Chính xác là vậy.”
Goodyear mỉm cười. “Không, thưa ông. Tôi không tin là ý nghĩ ấy từng xuất hiện trong đầu chúng tôi.”
“Để xem nào,” Tanner nói. “Tôi chưa hỏi thăm Golner. Julia Golner. Sáng nay bà khỏe không, bà Golner?”
“Tôi khỏe.”
“Bà có làm việc không, bà Golner? Hay bà đã về hưu?”
“Ồ, tôi đã nghỉ làm cách đây bảy năm rồi. Tôi sáu mươi tám tuổi rồi, thưa ông Tanner.”
“Chồng bà có làm việc không?”
“Ông ấy qua đời rồi.”
“Tôi rất tiếc. Ông nhà mới qua đời à?”
“Không. Năm một nghìn chín trăm bảy mươi lăm.”
“Bà có con không?”
Bà ta nhoẻn miệng cười. “Bảy đứa. Và mười lăm đứa cháu - con số may mắn của tôi.”
“Bà sinh ra ở Vermont chứ?”
“Vâng.”
“Trong bệnh viện?”
“Không. Tôi ra đời năm một nghìn chín trăm mười ba. Tôi ra đời trước các cuộc Thế chiến. Cả hai cuộc!”
“Vậy bà sinh ra tại nhà?”
“Tôi chào đời trong phòng ngủ của bố mẹ tôi, trong ngôi nhà nông trang mà ông bà đã sống nhiều năm ở Orleans.”
“Còn con bà thì sao? Họ cũng được sinh tại nhà chứ?”
“Không. Có vài đứa. Nhưng không phải tất cả.”
“Bà nói rõ hơn giúp tôi được không?”
Trong thiên sử về các ca đẻ sống và sảy thai hẳn còn tiếp diễn không ngừng trong suốt hai thập niên nếu chồng bà ta không đăng lính năm 1943, bà Golner đã kể lại lịch sử sinh đẻ không chính thức ở Vương quốc Đông Bắc từ năm 1932 đến 1951, và sự di chuyển của nó từ nhà đến bệnh viện. Bà kể trước tòa rằng bà đẻ bốn người con trước Thế chiến thứ hai trong phòng ngủ của mình, và ít nhất từng đấy lần sảy thai. Sau đó bà có ba người con sau chiến tranh, và hai “linh hồn” nữa không trụ nổi qua thai kì đầu tiên.
Những đứa trẻ hậu chiến đó ra đời trong bệnh viện: “Tôi không biết tại sao lại như thế,” bà nói. “Tôi nghĩ sau khi chiến tranh kết thúc, chúng tôi đều đồng ý rằng đó là cách tốt hơn. An toàn hơn, tôi nghĩ thế.”
“Tôi phục vụ ba năm ở Thái Bình Dương. Tôi chiến đấu trên đảo Iwo Jima.”
“Ông có bị thương không?”
“Không, số tôi đỏ lắm,” ông Patterson nói với luật sư bang. Ông ta có thân hình vạm vỡ, mặc một chiếc áo cổ lọ và áo len màu xanh bó sát vào cơ thể như lớp da thứ hai, ngồi khoanh tay thủ thế trước ngực một cách ngạo nghễ.
“Thời gian ông ở Thái Bình Dương: Đó có phải là lý do ông nói ông có ít... lòng kiên nhẫn với những người từng phản đối cuộc chiến ở Việt Nam không?”
“Không. Ngay cả khi tôi không có cơ hội phụng sự tổ quốc, tôi vẫn mong những người khác sẽ bước lên khi được yêu cầu. Và chúng ta đều biết rất nhiều người đã không bước lên.”
“Bước lên.”
“Đúng thế.”
“Vào thập niên sáu mươi và đầu thập niên bảy mươi.”
“Vâng.”
“Giả sử có một nhân chứng mà ông không thích, thưa ông Patterson. Theo quan điểm cá nhân. Ông có thể công bằng được không?”
“Ý ông là sao?”
“À, ví dụ như bên bị hoặc bên nguyên có một người làm chứng nói điều khiến ông phật ý. Liệu ông có lắng nghe lời làm chứng của họ với thái độ cởi mở không?”
“Có chứ. Có vẻ như tôi sẽ làm được. Đó là nhiệm vụ của tôi,” ông Patterson nói, nhưng trước khi ông kịp nói hết câu, tôi biết Stephen sẽ gạch một đường ngang tên ông ta.
Khi rời phòng xử án để ăn trưa, chúng tôi đi qua một hàng phụ nữ ngồi ở băng ghế phía sau đang chuẩn bị cho con bú. Những đứa bé nhỏ nhất không phải do mẹ tôi đỡ đẻ, vì bà đã dừng hành nghề gần sáu tháng trước. Nhưng có hai đứa bé ở đó được mẹ tôi đỡ đẻ khoảng vài tuần hoặc vài tháng trước khi Charlotte Bedford chết, những đứa trẻ sơ sinh lớn hơn, đâu chừng sáu đến chín tháng tuổi. Tôi nhìn chúng bú mẹ một lúc trước khi phát hiện ra một điều còn thú vị hơn nữa: Một số nhà báo, ngay cả nhà báo nữ, đang cố hết sức để nói chuyện với các bà mẹ cho con bú trong thời gian nghỉ giải lao mà không để cho mắt nhìn xuống dưới trán của các bà mẹ. Trông như họ đang cố phỏng vấn bức tường phía sau các bà mẹ ấy.
Mẹ tôi ăn trưa với bánh mì quế nướng và chocolate nóng trong một nhà hàng, bà khăng khăng muốn chúng tôi ghé qua cửa hàng hoa trên đường Main Street để ngắm các vòng hoa mùa thu treo ở đó. Khi nói chuyện, bà nhắc đến khung cảnh mùa thu năm đó, và những hàng xe mang biển số bang khác đỗ ở một số điểm dọc các con đường thôn quê. Bà nghĩ lá phong có màu đỏ rực rỡ hơn bình thường, và rõ ràng điều đó khiến bà vui thích.
Stephen và nhóm thuộc hạ nhỏ của ông không bao giờ rời khỏi phòng xử, ngoại trừ luật sư tập sự có tên Laurel. Cô ấy cùng chúng tôi đi ăn trưa, và dường như trách nhiệm chính của cô là giúp chúng tôi chen qua đám nhà báo và tươi cười nói với họ rằng chúng tôi chẳng có gì để nói.
“Tôi nghĩ nhà mình đang làm rất tốt,” cô ấy nói khi chúng tôi đứng lại một lúc bên vệ đường phía ngoài cửa sổ kính của tiệm hoa. “Tôi nghĩ mọi người thể hiện rất tốt hình ảnh một gia đình.”
Bà ngoại cười tươi còn mẹ tôi gật đầu, như thể nhận ra ý nghĩa lớn lao trong câu bình phẩm của Laurel. Mẹ mỉm cười với cô luật sư tập sự, nụ cười thường trực trên khuôn mặt bà như những nếp nhăn mới xuất hiện trong nửa năm qua - một nụ cười vừa mang tính hoài nghi vừa mang tính kiên nhẫn. “Chà, cô biết đấy,” mẹ nói, giọng của bà cực kì nghiêm túc, “chúng tôi đã phải mất rất nhiều năm mới có được hình ảnh đó.”
Một lần, nhiều tuần trước, tôi đã nhìn trộm từ cửa sổ phòng ngủ của bố mẹ cảnh mẹ đón Stephen khi ông ta đến nhà chúng tôi vào cuối ngày. Tôi đã nghe thấy tiếng xe đỗ lại trong đường chạy xe vào nhà, và thế là tôi đặt bài tập về nhà qua một bên rồi đi xuyên qua nhà, đến một trong những căn phòng nhìn ra phía trước nhà chúng tôi. Trong buổi ăn sáng, bố đã nói phải bảy giờ, bảy rưỡi tối đó ông mới về nhà, nên tôi muốn biết ai ghé qua lúc năm giờ chiều.
Đó là Stephen. Khi tôi đến cửa sổ, mẹ đã đi ra ngoài, sải bước trên lối đi để đón ông. Bà di chuyển chậm rãi, với dáng đi của người mộng du, hoặc của một người đang nghĩ ngợi mông lung. Tuy thế, tôi vẫn bất ngờ khi thấy bà rời khỏi nhà để đến xe của Stephen: Bà có thể đã mất bước sải chân rạo rực của một cô gái trẻ đang yêu, bà có thể đã tiều tụy vì phải chờ đợi phiên tòa, nhưng bà vẫn có một đam mê đủ để đem lại không khí cho chút tia sáng dễ chịu mà cuộc đời vừa rọi xuống cho bà.
Khi Stephen bước khỏi xe, mẹ tôi đã đến đó. Bà để ông nắm cả hai bàn tay bà trong tay ông, và họ đứng đó một lúc, cửa xe vẫn mở, khoảng cách giữa đôi chân họ bị tấm thép xám che khuất khỏi tầm mắt tôi.
...
“Ai chịu sức ép bằng chứng?” Stephen hỏi Lenore Rice, một cô gái trẻ làm việc tại siêu thị Grand Union ở Barton. Lenore lớn hơn tôi có lẽ sáu hoặc bảy tuổi, nhưng trông không giống như vậy: Cô thuộc dạng người nhỏ con, vóc dáng nhỏ nhắn chẳng khác nào mới dậy thì.
“Tôi không biết đó là gì,” cô trả lời.
“Sức ép bằng chứng là một thuật ngữ pháp lý,” Stephen chậm rãi bắt đầu, nhưng không tỏ vẻ nhượng bộ. “Chúng ta có hai phía trong phòng xử này, phía biện hộ và phía chính quyền bang. Tôi đại diện phía biện hộ, còn ngồi ở đằng kia, ông Tanner đại diện chính quyền bang. Một trong hai chúng tôi sẽ phải chứng minh một điều gì đó bên trong bốn bức tường này trong vòng vài tuần tới, và người còn lại sẽ không làm thế. Tôi có phải là người sẽ chứng minh điều gì đó không?”
“Có chứ sao không,” cô ấy đáp. “Đương nhiên.”
“Và điều đó là gì?”
“Là thân chủ của ông vô tội.”
Stephen gật đầu, rồi ngồi một lúc xuống mép bàn của luật sư biện hộ. Peter đưa cho ông danh sách kẻ ô theo hàng những bồi thẩm viên tiềm năng trước khi ông yêu cầu.
“Thưa ông Anderson, ông có đồng ý với cô Rice không?” Stephen hỏi sau khi liếc nhìn vào tờ giấy. “Ông có đồng ý rằng tôi phải chứng minh điều gì đó trong quá trình kiện tụng này không?”
“Không.”
“Tại sao lại không?”
“Một người là vô tội cho đến khi bị chứng minh có tội.”
“Đúng thế,” Stephen nói, đứng dậy và bước về hàng thứ nhất của bồi thẩm đài. “Hoàn toàn chính xác. Ông làm nghề gì, thưa ông Anderson?”
“Tôi là thợ điện.”
“Cảm ơn ông. Đừng đi đâu cả, chốc nữa chúng ta sẽ nói chuyện thêm. Thưa cô Rice, cô nghĩ sao về điều ông Anderson vừa nói? Cô có đổi ý không?”
“Về việc gì?”
“Về việc tôi có phải chứng minh thân chủ của mình vô tội hay không.”
“Chà, ông ấy nói là ông không phải làm thế.”
“Thật ra, không phải ông Anderson nói tôi không phải làm thế, mà đó chính là toàn bộ triết lý của ngành luật học của chúng ta. Hệ thống công lý của chúng ta. Ở đất nước này, một người là vô tội - vô tội tuyệt đối - cho đến khi bị chứng minh có tội. Nếu cô là một bồi thẩm viên, cô cần bắt đầu phiên tòa này với quan điểm bị cáo vô tội. Cô có đồng ý với điều đó không, thưa cô Rice? Cô có thể làm thế không?”
Cô ta nhìn xuống đùi mình. “Tôi không biết,” cô lẩm bẩm.
“Cô không biết?”
“Tôi cứ nghĩ rằng người ta sẽ không phải ra tòa nếu không làm điều gì sai.”
Stephen quay sang thẩm phán Dorset. “Thưa quý tòa, tôi có thể tiếp cận ghế chủ tọa được không?”
Thẩm phán gật đầu, cả Stephen và Bill Tanner đứng trước hàng rào chắn bằng gỗ cao rồi thì thầm với Dorset một lúc lâu. Khi họ nói xong, thẩm phán lẩm bẩm gì đó với chấp hành viên tòa án. Tanner sau đó lùi lại ghế ngồi của mình, còn Stephen trở lại mép bàn của ông.
“Thưa cô Rice, cô đã bị loại. Tòa cảm ơn cô rất nhiều vì đã sẵn lòng dành một ngày cho chúng tôi,” thẩm phán Dorset nói.
Cô gái trẻ đứng dậy, trông có vẻ ngoan cố hơn là nhẹ nhõm, và chấp hành viên tòa án gọi bồi thẩm viên số ba mươi hai tiến lên phía trước từ một trong những băng ghế phía sau. Lenore Rice là người thứ tư cả Stephen và Bill Tanner không muốn thấy có mặt trong mười bốn bồi thẩm viên cuối cùng, và đã cố gắng loại bỏ có lý do.
“Nó làm bằng đậu nành hữu cơ,” Nancy Hallock nói.
“Và bà dùng nó thay cho sữa?” Stephen hỏi.
“Đúng. Chúng tôi không có bất kì sản phẩm hoặc phụ phẩm từ động vật nào trong nhà mình.”
“Không có thịt ư?”
Người phụ nữ nhún vai. “Eo. Chúa ơi, không.”
“Gia đình bà đều là người ăn chay hoàn toàn à?”
“À, tôi và chồng tôi thôi. Chúng tôi không có con.”
“Cho phép tôi hỏi bà bao nhiêu tuổi?”
“Vâng, tôi bốn mươi mốt.”
“Bà có định sinh con không?”
“Tôi nghĩ đã có đủ người trên hành tinh này rồi, ông không nghĩ thế sao? Nếu chúng tôi quyết định có con thì chúng tôi sẽ nhận con nuôi.”
Khi tôi đi vào văn phòng của mẹ để hôn bà và chúc ngủ ngon sau ngày chọn bồi thẩm đoàn đầu tiên, bà đang hí hoáy viết nhật kí ở bàn làm việc. Bà chưa bao giờ che giấu chuyện mình viết nhật kí nhiều năm rồi, và những quyển sổ đóng gáy lỏng lẻo mà bà dùng - những quyển sổ dày có khoen sắt, bọc bằng lớp vải màu xanh mỏng, giống như sổ của tôi - chất đầy ngăn dưới cùng của kệ sách phía sau bàn làm việc. Bà tin bố và tôi tôn trọng sự riêng tư của bà.
“Mẹ có muốn thêm nước nóng trước khi con đi lên lầu không?” tôi hỏi, chỉ về tách trà còn một nửa của bà.
“Thôi khỏi, được rồi con ạ,” bà đáp, đặt bút xuống và tựa lưng vào ghế. “Con chẳng nói chẳng rằng trong bữa ăn tối nay. Mọi việc ổn cả chứ?”
Tôi nhún vai. “Chắc thế.”
“Con nghĩ ngày đầu tiên của mẹ con ở tòa thế nào? Khá là nhàm chán, phải không?” bà nói, hi vọng giảm nhẹ tầm quan trọng của điều tôi đã chứng kiến.
“Con nghĩ nó khá thú vị đấy chứ.”
Bà mỉm cười. “Ở tuổi con, con lẽ ra chỉ nên nghĩ các buổi nhạc rock và những chàng trai dễ thương là thú vị thôi.”
“Họ cũng thú vị.”
“Tối nay con đã nói chuyện với Tom chưa?”
“Rồi ạ.”
“Con có kể với cậu ấy về ngày hôm nay không?”
“Chỉ những việc mà chú Stephen bảo là được bàn đến thôi ạ,” tôi nói dối. Thật ra, tôi đã kể với Tom mọi chi tiết mà tôi nhớ được.
“Con có hài lòng vì đã ở đó không?”
“Vâng, có ạ.”
Bà đặt bút xuống, vươn tay qua đầu ra sau vai, các ngón tay lướt trên kệ sách. Ngoài nhật kí cá nhân của bà, kệ sách còn có các chuyên luận về sinh sản - những quyển sách có tựa đề như Nghề bà mụ thiêng liêng và Trái tim và đôi tay - và những quyển sổ mẹ dùng để ghi chép hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân. Tôi biết trong chiếc tủ hồ sơ bằng gỗ nằm sau kệ sách còn có nhiều bệnh án hơn nữa, trong đó nhiều hồ sơ đã bị chính quyền bang tịch thu theo trát của tòa.
“Mẹ cá là nó sẽ khiến con muốn trở thành luật sư khi lớn lên,” bà nói, đảo tròng mắt.
“Hoặc là một bà mụ.”
“Đúng. Hoặc là một bà mụ.”
Từ nơi đang đứng, tôi có thể nhìn thấy hàng hàng lớp lớp dòng mực xanh trải dài trên những trang giấy trắng như những con sóng. Bà viết ở mặt trước lẫn mặt sau của mỗi tờ giấy, vì thế khi quyển sổ được mở phẳng ra, nó tạo hiệu ứng giống như một quyển sách rất lớn.
“Mẹ nghĩ chuyện này sẽ kết thúc sớm chứ?”
“Ồ, mẹ nghĩ như thế đấy, cục cưng ạ,” mẹ đáp, giọng đượm vẻ lo lắng vì tôi. Tôi lập tức thấy hối hận vì câu hỏi của mình. “Stephen nói phiên tòa chỉ diễn ra trong hai tuần thôi.”
“Và con chắc chắn là chúng ta sẽ thắng,” tôi nói, hi vọng tạo cho bà ấn tượng rằng tôi rất tự tin đến nỗi - hơn hết thảy - bà không cần phải lo lắng gì về cô con gái mười bốn tuổi của mình.
“Ồ, mẹ cũng tin chắc là như thế,” bà nói.
“Và rồi mọi việc sẽ trở lại bình thường.”
Bà mở miệng ra để nói, và tôi nghe tiếng vọng lại trong đầu mình - Chắc chắn rồi, Connie ạ. Khi đó mọi việc sẽ trở lại bình thường - nhưng không có từ nào thốt ra, cả một tiếng thì thầm cũng không. Thay vào đó bà gật đầu, nhưng cả hai chúng tôi đều biết thẳm sâu trong lòng rằng cái chết của Charlotte đã thay đổi mọi thứ mãi mãi. Với mẹ tôi, không gì có thể trở lại bình thường được nữa.