- 16 -
Cuối cùng họ cũng chọn xong bồi thẩm đoàn vào chiều nay. Tôi nghĩ các luật sư sẽ tiếp tục đặt câu hỏi sang ngày thứ tư, nhưng đến trước giờ ăn trưa hôm nay, thẩm phán đã nghe đủ, và cả hai bên đều đồng ý sẽ tiến hành lựa chọn vào lúc ba giờ chiều. Vermont là một bang nhỏ, và Stephen đinh ninh rằng nhiều người trong nhóm sẽ bị loại vì họ biết tôi hoặc Charlotte, nhưng chỉ có một người bị loại vì lý do này. Mà người đó cũng không hẳn là biết rõ hai chúng tôi. Ông ấy từng đến nhà thờ của Asa vào một ngày Chủ nhật để xem giáo đoàn ở đấy có phù hợp với gia đình mình hay không - ông ta đã quyết định là không - và đã bắt tay Asa trong lúc vị mục sư bắt tay mọi người khi họ ra về sau buổi lễ. Trong bồi thẩm đoàn cuối cùng, có hai người được sinh ra tại nhà, nhưng chẳng qua chỉ vì họ chào đời vào thập niên sáu mươi - họ sinh ra vào thời mà chuyện đến bệnh viện để đẻ còn rất hãn hữu ở đây. Cũng có vài người trong nhóm ứng viên ban đầu từng sinh con tại nhà, tôi khá chắc chắn một người đã nhờ Molly Thompson đỡ đẻ, nhưng cả hai đều bị loại. Ở sau lưng, tôi nghe Rand khẽ văng tục khi số thứ tự của họ được xướng lên lúc họ bị loại, một tiếng “Mẹ kiếp!” nho nhỏ mà tôi chắc chắn chỉ có Peter và tôi nghe thấy, nhưng tôi ngoái đầu lại để nháy mắt với anh, ngầm nói, Không sao đâu, chẳng có vấn đề gì cả. Nhưng dĩ nhiên là có. Stephen không muốn tôi ngoái đầu lại để nháy mắt với người nhà hoặc nhìn những người ở sau lưng chúng tôi, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn làm thế. Tôi không cưỡng lại được, giống như một phản xạ vậy. Ðôi khi tôi chỉ muốn nhìn thấy Connie. Hôm nay tôi cũng nháy mắt với nó một lần. Thế thôi. Tôi ước gì Connie trở lại thời thơ bé. Tôi ước gì nó còn bé và tôi còn trẻ - có lẽ không phải là trẻ sơ sinh, dù tôi thật sự rất thích quấn con bé trong tã khi nó còn là một đứa bé ấm áp, bụng kêu óc ách và bé xíu xiu. Tôi ước gì Connie lại hai hay ba tuổi, khi nó là một cô bé loắt choắt xinh xắn thích nhảy múa, xoay vòng vòng và leo trèo lên ghế sofa như leo núi, miệng lúc nào cũng hát theo những bài hát mà tôi và Rand đã sửa lời một chút: “Vầng trăng nhỏ sáng lấp lánh lấp lánh. Soi sáng phòng Connie lên nào?” Connie ôm nồng nhiệt nhất khi con bé lên hai. Nhất trần đời. Nó thường quàng hai cánh tay tí hon quanh cổ tôi rồi cứ thế siết thật chặt: “Ôm, Mẹ!” Tôi yêu điều đó biết bao nhiêu. Và khi Connie hai tuổi, tất cả những điều mà tôi đang buộc gia đình mình trải qua lúc này còn cách xa nhiều nhiều năm lắm. Tôi ước gì mọi việc lại được như thế. Tôi ước gì cuộc đời mình không phải như chiếc đĩa nhạc ai đó tặng tôi sắp hát hết, mà chỉ có vài bài đầu là nghe được mà thôi. Như thế thì có ích kỉ quá không? Tôi rất tiếc nếu đúng là thế, vì tôi không có ý định tỏ ra ích kỉ, hoặc làm ra vẻ mình là một nạn nhân đáng thương đã bị một người chỉnh nhạc hoặc nhà sản xuất băng đĩa nào đấy làm cho toi đời. Tôi biết tôi đã phạm phải sai lầm gì, tôi biết mình đã toi đời ở điểm nào. Thỉnh thoảng trong tuần này tôi cũng quay sang để nhìn gia đình Charlotte, nhìn chị gái và mẹ cô ấy. Chị gái Charlotte cắn móng tay giống hệt như cô thường làm. Chị ta giơ thẳng các ngón tay. Chúng tôi đã chạm mắt nhau vài lần ngày hôm nay, tôi đã nghĩ chị ta sẽ suy sụp tinh thần và bật khóc khi chúng tôi nhìn thấy nhau. Chạm mặt chị ta và ngồi thật gần chị ta như thế khiến tôi cảm thấy bụng mình trương lên vì tội lỗi. Tôi cảm thấy nó lớn lên trong người mình, tôi chỉ muốn dùng tay trái chạm vào bụng mình để cảm nhận cái gì đó đang di chuyển. Một cú đá nhẹ. Một cái nấc cụt. Chị gái Charlotte căm ghét tôi. Cả chị ta và mẹ chị ta đều căm ghét tôi. Cảm giác bị căm ghét thật là kinh khủng, và khi tôi ở một mình trong phòng lúc thế giới đã say giấc - ít nhất là thế giới của tôi - có vẻ như tôi đáng bị như vậy. Vậy mà điều kì lạ nhất là, gia đình Charlotte có lẽ sẽ không hận tôi đến như thế nếu tôi không cố gắng cứu Veil. Cháu trai của người này và cháu ngoại của người kia. Stephen nói đến lúc việc này kết thúc, mọi người sẽ hiểu điều đó. Anh nói anh sẽ đảm bảo mọi người nhận ra rằng tôi đã có thể để cho đứa bé ấy chết ngay trong bụng mẹ nó, và nếu tôi làm thế, thì chẳng ai trong số chúng tôi phải có mặt ở đây vào lúc này. Anh sẽ cho họ thấy bi kịch sẽ còn tồi tệ hơn nữa vì có đến hai người sẽ chết thay vì một người, và không ai phải ngồi cả ngày trong phòng xử án đổ lỗi cho người kia. Tôi đã không gặp Veil kể từ ngày nó chào đời. Liệu nó cũng sẽ lớn lên và căm ghét tôi không? Liệu nó cũng sẽ đổ lỗi cho tôi vì đã giết mẹ nó? trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth SUỐT MÙA HÈ VÀ SANG THU, tôi luôn lo sợ rằng Bill Tanner sẽ tống mẹ tôi vào tù và hủy hoại gia đình tôi. Nhưng phải đến buổi sáng thứ tư đầu tiên của phiên tòa, khi tôi nhìn ra ngoài cửa sổ phòng xử án và thấy những đám mây màu xám hợp kim cuồn cuộn từ phía Tây Bắc, tôi mới bắt đầu sợ rằng người đàn ông này còn có thể hô phong hoán vũ. Bầu trời u ám và căn phòng trở nên tối lờ mờ khi lão ta bắt đầu phần biện luận mở đầu, và đến ngày nay các luật sư bang ở hạt Orleans vẫn còn lắc đầu cười khi kể lại chuyện Bill Tanner đã tính toán để kiện Sibyl ra tòa đúng vào lúc trời nổi cơn bão tố. Dĩ nhiên, ngoài phòng xử án, với những người đi mua sắm trên đường Main Street ở Newport hoặc với những người thơ thẩn ngắm lá thu trên những con phố nhỏ ở thị trấn Jay, thì đó chỉ là một ngày mưa bình thường của mùa thu. Chỉ với những người ở trong phòng xử án tại tầng ba với tầm nhìn toàn cảnh ra ao hồ núi non ở phía Bắc mới cảm thấy ý nghĩa siêu nhiên đáng sợ ấy. “Sẽ không có ai nói với quý vị rằng Sibyl Danforth là một người độc ác. Sẽ không có ai nói với quý vị rằng bà ta là một sát nhân máu lạnh,” Tanner nói. “Có chăng, quý vị sẽ nghe bên biện hộ nói bà ấy là người tốt thế nào... là người giỏi ra sao. Theo những gì tôi biết, họ sẽ nói với quý vị bà ta là một người mẹ tuyệt vời, người vợ hoàn hảo. Có thể bà ta đúng là như thế. Có thể không. Tuy nhiên, về phía quý vị, những điều đó không hề quan trọng. Hoàn toàn không. Sibyl Danforth đã bị truy tố vì hành nghề y không phép, và bà ta đã bị truy tố tội bất cẩn gây chết người. Sẽ không có ai nói bà ta đã giết ai. Nhưng bà ta đã làm thế. Đó là một sự thật, và đó là điều quan trọng. “Một phụ nữ trẻ đã chết và được an táng tại nghĩa trang Alabama bởi vì Sibyl Danforth, và một người cha đang phải đối mặt với trách nhiệm nặng nề là tự tay nuôi nấng hai đứa con trai nhỏ dại. Hãy tưởng tượng: Bé Jared Bedford chỉ mới nhận được tình yêu thương chăm sóc của mẹ trong bảy năm. Bảy năm ngắn ngủi. Tệ hơn nữa, em trai của bé, Veil - một đứa trẻ đã sống sót, một cách kì diệu và may mắn, bất chấp sự bất cẩn không thể lý giải và sự sử dụng dao bếp tùy tiện của bà Danforth - sẽ không bao giờ, không bao giờ biết người phụ nữ lẽ ra sẽ nuôi dạy cháu nên người: Charlotte Fugett Bedford.” Tanner lắc đầu thở dài trước khi tiếp tục. “Charlotte Fugett Bedford đã chết vì Sibyl Danforth. Không thể chối cãi. Không thể phủ nhận. Không thể đảo ngược. Một người phụ nữ hai mươi chín tuổi đã chết vì sự khinh suất có tính tội ác của Sibyl Danforth. Và nếu bà Danforth không phải loại người cầm súng lên bắn một người trong số quý vị vì tiền hoặc ma túy hoặc... hoặc gây án vì bị kích động, thì bà ta vẫn phải chịu trách nhiệm trước cái chết của Charlotte Bedford. Sibyl Danforth đã giết cô ấy. Rõ ràng và đơn giản: Sibyl Danforth đã giết cô ấy. Đó là lý do tất cả chúng ta có mặt ở đây vào lúc này.” Người câu cá bằng côn trùng nhìn vào từng bồi thẩm viên trong lúc phát biểu, như thể lão ta đang ca tụng một dòng sông mà họ từng cùng nhau câu cá giờ đây đã cạn khô vì ô nhiễm đến mức không thể dùng được. Để nhấn mạnh, lão thỉnh thoảng dừng lại và nhìn ra những đám mây ngoài cửa sổ, nhưng hình như lão luôn nhìn lại bồi thẩm đoàn khi muốn trình bày một điểm đặc biệt quan trọng. “Phía biện hộ sẽ cố gắng thuyết phục quý vị rằng đây là một vụ án phức tạp với rất nhiều tình tiết chưa rõ ràng, và họ sẽ đưa vào phòng xử này rất nhiều người xưng là chuyên gia nhưng có thể chưa bao giờ đặt chân đến Vermont. Chưa bao giờ. Nhưng quý vị sẽ sớm nhận ra vụ án này chẳng phức tạp chút nào. “Chúng tôi sẽ cho quý vị thấy rằng từ thời điểm Charlotte và Asa Bedford ngồi xuống với Sibyl Danforth để bàn bạc việc đẻ con tại nhà, bà Danforth đã hành xử với một thái độ thiếu trách nhiệm trầm trọng, một thái độ chỉ có thể dẫn đến thảm họa. “Liệu ngay từ đầu Charlotte Bedford có nên được cho phép đẻ con trong phòng ngủ hay không? Chúng tôi sẽ chứng minh rằng các bà mụ khác - cũng như có thể là mọi bác sĩ có hiểu biết trên hành tinh này - sẽ trả lời là không. Rủi ro quá cao. “Liệu Charlotte và Asa có hiểu rủi ro này không? Rõ ràng là không. Hoặc bản thân bà Danforth đã không nhận ra rủi ro ấy, hoặc bà ta đã chọn cách không chia sẻ hiểu biết của mình về rủi ro ấy với khách hàng; dù thế nào thì bà ta đã chưa hề cảnh báo nhà Bedford về những nguy hiểm trong quyết định của họ. “Vào ngày Charlotte Bedford chuyển dạ, Sibyl Danforth có chứng tỏ bà ta đã suy nghĩ bằng lý trí khi cân nhắc yếu tố thời tiết không? Không, bà ta đã không làm thế. Liệu một người phụ nữ đã sinh ra và lớn lên ở ngay tại Vermont, một người phụ nữ hẳn phải biết... sự thất thường, trái gió trở trời và hoàn toàn không ổn định của thời tiết Vermont, có bàn bạc với nhà Bedford về khả năng họ bị sẽ mắc kẹt trong nhà trong trường hợp chuyện không may xảy ra không? Không. Bà ta đã không làm thế.” Mưa vẫn chưa dội lên cửa sổ bằng kính rộng đối diện với bồi thẩm đài, nhưng tôi để ý thấy một vài bồi thẩm viên đã nhìn ra ngoài bầu trời u ám phía sau Bill Tanner. Tôi cũng không thể cưỡng lại việc nhìn về phía ấy. “Và rồi đêm hôm ấy,” lão nói, “khi bà ta nhận ra rằng vì sự tắc trách đáng kinh ngạc của mình mà bà ta và một người phụ nữ đang chuyển dạ bị dồn vào một phòng ngủ cách xa sự hỗ trợ của bệnh viện nhiều cây số, bà Danforth đã làm gì? Bà ta đã bảo Charlotte rặn... và rặn... và rặn. Bà ta đã bảo Charlotte rặn trong thời gian lâu hơn rất nhiều so với sự cho phép của bất kì bác sĩ nào. Bà ta đã bảo cô ấy rặn lâu hơn rất nhiều so với sức một người phụ nữ khỏe mạnh có thể chịu đựng. Không gây tê. Không thuốc giảm đau. Bà ta cứ bảo cô ấy rặn.” Mẹ tôi cử động rất ít trong suốt cuộc công kích. Thỉnh thoảng bà quay về phía hồ nước, và hẳn bà đã ngắm những con sóng bạc đầu do bão gây ra, nhưng bà vẫn ngồi thản nhiên với hai tay đan lại đặt trên bàn. Đôi khi Stephen hoặc Peter viết ra gì đấy, nhưng mẹ tôi thì không bao giờ chạm đến cây bút của bà. Trông bà như bị gây tê, hoặc đã trở nên chai lì trước sự thù ghét. Dù bố và tôi đều nóng phừng phừng vì điên tiết, nhưng bà vẫn như đang ở một nơi khác hẳn. “Sibyl Danforth đã buộc người phụ nữ đáng thương ấy rặn lâu đến nỗi bà ta nghĩ rằng mình đã giết cô ấy! Bà ta quả thực tin rằng đã buộc một bệnh nhân của mình rặn lâu, lâu kinh khủng, đến mức người phụ nữ ấy cuối cùng tắt thở. Bị ép rặn đến chết, có thể nói như vậy. Điều nực cười ở đây là gì? Sibyl Danforth đã không ép cô ấy rặn đến chết. Bà ta đã suýt làm thế. Nhưng không hẳn. Charlotte Bedford không chết vì rặn. Cô ấy chết vì một con dao hai mươi lăm tấc với một lưỡi dao mười lăm tấc sáng choang. “Tất cả quý vị sẽ thấy - và tôi vô cùng đau xót khi nói ra điều này - khi chúng ta kết thúc, người phụ nữ ấy đã chết bởi vì con người đang ngồi ở chiếc bàn đằng kia đã cầm một con dao bếp và tàn nhẫn mổ phanh bụng của Charlotte Bedford trong phòng ngủ của người phụ nữ tội nghiệp ấy, và bà ta làm thế trong lúc người phụ nữ ấy vẫn còn thở.” Lão ta nhìn mẹ tôi rồi lắc đầu khinh bỉ. Mẹ tôi không nao núng, nhưng cạnh tôi, bố đang sôi gan lộn ruột. Ông vắt hết chân nọ qua chân kia. “Tội ác này rất ghê tởm trên nhiều cấp độ, nhưng quý vị sẽ nhận thấy hai điều đặc biệt đáng sợ: Charlotte Bedford lẽ ra đã không chết nếu ở trong bệnh viện. Điều này đã rõ. Và Charlotte Bedford lẽ ra đã không chết nếu được một bác sĩ chăm sóc suốt thời gian mang thai. Rõ ràng, Sibyl Danforth không phải là bác sĩ. Bà ta là bà mụ. Và tuy những người phụ nữ xưng là bà mụ tự nhận họ có đủ mọi kiến thức nhà nghề, tuy tự nhận họ có khả năng đỡ đẻ, nhưng trong thực tế họ biết về thuốc men còn ít hơn cả quý vị hoặc tôi. Sibyl Danforth chưa bao giờ học ngành y. Bà ta chưa bao giờ học ở trường hộ sinh. Bà ta không có giấy phép hành nghề y. Thực ra, bà ta được đào tạo y khoa quá ít đến nỗi vào lúc từ sáu giờ đến sáu giờ ba mươi sáng ngày mười bốn tháng ba, bà ta thậm chí còn không phân biệt được giữa một người còn sống với một người đã chết! Hãy nhìn nhận điều này, Sibyl Danforth không hề đủ tiêu chuẩn để đỡ đẻ, chẳng khác nào người phụ nữ ở cửa hàng văn phòng phẩm bán báo cho tôi sáng nay hoặc cậu trai bơm xăng cho xe của tôi!” Tanner dừng lại để hình ảnh hiện lên sống động trong đầu bồi thẩm đoàn: một cậu trai mặt mụn đội mũ lưỡi trai và những đôi tay bẩn thỉu đỡ đẻ một đứa bé. Tuy nhiên, trong sự im lặng thoáng chốc đó, tôi nghe thấy tiếng một em bé sắp được cho bú ở phía sau phòng xử, và tôi cảm thấy sướng rơn. Một con khỉ mới lớn dính dầu mỡ là một hình ảnh ấn tượng, nhưng với tôi, nó dường như bị lu mờ trước một đứa bé sơ sinh đang bú mẹ. Sinh vật bé nhỏ sau lưng chúng tôi khóc ré lên vì đói, rồi mê mẩn khi mẹ nó cởi áo ra và con bé trông thấy bầu vú mà nó sắp được bú. Khi Tanner nói tiếp, lão đứng thẳng lưng và đặt một bàn tay lên thanh chắn của bục nhân chứng, khi đó còn trống. “Phía biện hộ có thể quả quyết rằng phiên tòa này là để vạch ra sự thật về việc nghề y đã cướp đi quá trình sinh đẻ thuộc về phụ nữ như thế nào,” lão nói, giọng trở nên sôi nổi hơn khi tiến gần đến cái mà tôi cho là đỉnh điểm. “Ái chà, đó là chỉ chuyện vớ vẩn. Họ có thể tranh luận rằng phiên tòa này là để nêu lên quyền của thai phụ được chọn đẻ con tại nhà. Điều đó cũng vớ vẩn nốt.” “Phiên tòa này nhằm vào một điều, và chỉ một điều mà thôi: sự vô trách nhiệm và phán đoán sai lầm của Sibyl Danforth, đã dẫn đến sai lầm tước đi mạng sống của Charlotte Bedford. Khái niệm bất cẩn gây chết người ở Vermont đã rõ - quý vị đã nghe nó từ thẩm phán - và vụ án trước mắt quý vị là một ví dụ đáng sợ nhưng rất điển hình: Sibyl Danforth đã cực kì khinh suất. Sibyl Danforth đã nhúng tay vào một việc có nguy cơ gây chết người cao. Và vào buổi sáng ngày mười bốn tháng ba năm 1981, bà ta đã gây ra cái chết cho Charlotte Fugett Bedford - nói theo luật là ‘một con người khác’.” Tanner có lẽ đã định nói thêm, nhưng cơn bão đã ngăn lão lại: Như một tín hiệu, có lẽ chỉ một giây sau khi trích luật, một cơn gió dội lớp nước mưa đầu tiên vào những cửa sổ phía sau lão ta với một lực mạnh đến nỗi nghe như sấm và làm mặt kính rung lên. Tôi chỉ là một trong số nhiều người có mặt trong phòng xử há mồm kinh ngạc. Ở trường, chúng tôi được phép vắng học tối đa ba lần một quý nếu có lý do chính đáng như phiếu hẹn khám bệnh hoặc là phiên tòa xét tội bất cẩn gây chết người của mẹ bạn gái. Bằng cách đến lớp trước giờ ăn trưa và cúp cua tiết lịch sử sau đó, Tom có thể tận dụng gần ba giờ đồng hồ để lái xe đến Newport và làm gia đình Danforth bất ngờ khi chúng tôi bước ra khỏi tòa án. Bố mẹ tôi mời Tom ăn cùng chúng tôi tại nhà hàng, nhưng anh đã đem theo bánh mì sandwich, nước ngọt, và viễn cảnh một buổi dã ngoại mùa thu dành cho hai người, vì thế họ để chúng tôi tự đi chơi riêng trong một giờ. “Chỉ cần các cháu đừng nói chuyện với nhà báo,” Stephen căn dặn khi chúng tôi tách ra khỏi người lớn. “Làm ơn đấy. Thực ra, đừng nói chuyện với bất kì ai... nhớ nhé.” Trời vẫn còn mưa, vì thế Tom và tôi ngồi ăn sandwich trên băng trước chiếc Sunbird gỉ sét mà anh trai anh đã sửa xong nhưng phải đến cuối tuần mới được chủ lấy về. Anh đỗ cạnh một chiếc xe khác gần Thư viện Quốc gia, một khối bê tông sừng sững ảm đạm nằm đối diện tòa án trên đường Main Street. Trong gần suốt buổi ăn trưa, chúng tôi chẳng nói gì về phiên tòa, dù tôi không tin rằng cả hai chúng tôi dứt khoát hoặc cố ý né tránh chủ đề ấy. Anh hỏi mọi việc thế nào khi chúng tôi vừa ngồi vào xe, và tôi kể với anh, Bill Tanner là lão già khốn nạn ra sao, nhưng rồi sau đó chúng tôi chuyển sang các đề tài khác: chuyện Sadie Demerest sắp chia tay với Roger Stearns. Chuyện chúng tôi sợ đội bóng của trường sẽ thua trận đầu tiên tối thứ sáu hôm đó trước St. Johnsbury, một trường lớn hơn nhiều với một đội mà chúng tôi phải thừa nhận là lớn hơn và giỏi hơn nhiều. Chuyện Chip Reynolds đang thử những miếng ngậm thuốc phiện bé tí mà anh trai nó thường đem về từ Montreal, và sự quả quyết của chúng tôi rằng nó đang đâm đầu vào rắc rối. Cơn bão tôi nhìn thấy trong phòng xử án vào sáng hôm đó đến từ phương Bắc, và Tom kể với tôi anh đã nhìn thấy nhiều đàn ngỗng Canada lũ lượt bay về phương Nam: tôi tưởng tượng những hình chữ V lớn màu xám kêu inh ỏi trên bầu trời, và trong đầu tôi hình dung cảnh chúng bay về trước hết đàn này đến đàn khác. Anh bảo chú của anh đã săn được con ngỗng đầu tiên của năm vào ngày hôm ấy, một cú hạ nhanh ở trên phố Gary ngay trước bữa ăn sáng, và anh cười cợt trước niềm tự hào của ông chú khi bắn hạ một con chim “có lẽ chỉ nặng cỡ một thanh kẹo Snickers.” Trước khi chia tay, lúc tôi nhét tờ giấy bạc đã vo thành viên xuống đáy túi xách màu nâu của mình, tôi hỏi anh ở trường có ai nói về phiên tòa không. “Anh biết có một lớp, tiết đạo đức của lớp trên, nói về nó suốt bốn mươi lăm phút sáng nay. Làm cho nhiều đứa bọn anh ước gì mình lớn hơn một tuổi.” “Ý anh là ở trong lớp học á? Họ nói về phiên tòa trong lớp học à?” “Anh thề có Chúa. Garrett Atwood kể với anh mà,” anh nói, nhắc đến một cầu thủ bóng rổ lớp trên đang hẹn hò với cô bạn Rollie dậy thì sớm của tôi. “Và họ nói về phiên tòa?” “Không nói nhiều lắm về phiên tòa,” anh đáp, ấn đầu thuốc lá bốc khói vào gạt tàn, “chủ yếu về việc nó quá ư... quá ư đau lòng. Cô Bedford lấy một mục sư và những chuyện đại loại thế.” Tôi không nghĩ lúc đấy trong vốn từ chúng tôi thường dùng có từ trớ trêu, nhưng tôi biết chính xác hàm ý của anh. “Garrett có kể với anh nó kết thúc thế nào không?” “Anh không nghĩ cuộc thảo luận thực sự đi đến đâu, ngoại trừ cuối cùng có vài đứa con gái khóc.” “Cho cô Bedford? Hay là cho chồng cô ta?” “Cả hai. Cả cho em và mẹ em nữa.” “Thật buồn quá.” “Toàn bộ chuyện này thật đáng buồn. Dĩ nhiên, thầy Rhymer rất giỏi, thầy ấy giúp cho mọi người không kích động. Nhưng Garrett nói mọi người vẫn cảm thấy như đây là một trong những chuyện khủng khiếp mà chúng ta không thể nào hiểu nổi.” “Thế còn ngoài lớp học thì sao? Người ta có nói về nó ngoài lớp học không?” “Ừ, có. Vì em không đi học. Nhưng nói thật, nếu em đi học, người ta có thể sẽ vẫn nói - chỉ không nói khi em ở gần bên thôi,” anh nói thêm. “Họ nói gì?” Anh nhún vai. “À, chủ yếu là họ nghĩ rằng chuyện đang xảy ra thật bất công. Đa số lũ con gái nói chúng nghĩ rằng đẻ con ở nhà thì cũng chả sao, và mai mốt có thể chúng sẽ làm thế.” Anh không nhìn tôi trong lúc nói; anh nhìn trân trối vào đầu thuốc lá vẫn còn bốc khói của mình, và tôi biết ngay rằng anh đang nói dối. Tôi biết với một niềm tin mang tính bản năng, trực giác. Thực ra, tôi biết rằng sự thật hoàn toàn ngược lại. Lũ con gái, nếu có nói về hoàn cảnh của tôi hoặc mẹ tôi đi nữa, đều sẽ bày tỏ nỗi sợ về đẻ tại nhà nói chung, và nỗi kinh ngạc của chúng khi có ai đó lại ngu ngốc đến nỗi thử làm một việc như thế tại nhà. “Như nhiều bà mụ, bà ấy có lẽ đã được dân làng nhìn nhận với một thái độ vừa khâm phục vừa ganh tị, vừa sợ hãi vừa tôn trọng,” Stephen nói, nhắc đến một bà mụ sống vào cuối thế kỉ mười tám, tác giả quyển nhật kí mà ông đã đọc kĩ. Người phụ nữ đó từng hành nghề ở New Hampshire, và quyển nhật kí hai trăm năm tuổi của bà đã được phát hiện và xuất bản khi tôi học lớp sáu. Tôi chưa đọc quyển sách đó, nhưng mẹ tôi và các bà mụ bằng hữu của bà thì đã đọc rồi, và người phụ nữ ấy - Priscilla Mayhew ở xứ Fullerton - đã trở thành một vị thánh nhỏ và một hình mẫu lớn trong mắt họ. “Làm bà mụ luôn luôn là như thế,” ông nói với thái độ trang nghiêm, bình thản bước trước mặt bồi thẩm đoàn. “Với một số người, họ là phù thủy - hoặc, ngày nay, là loài lạc hậu kì lạ và có phần nguy hiểm của một thời đại khác. Nhưng trong mắt những người khác, họ là những người chữa bệnh. Không ngạc nhiên khi phụ nữ thường xem họ như người chữa bệnh, còn đàn ông xem họ như phù thủy dễ khóc. Hoặc là pháp sư. Hoặc là người vác tù và hàng tổng. Bà mụ, về bản chất và nghề nghiệp, đã luôn luôn thách thức chính quyền; họ luôn có vẻ quá độc lập - ý tôi là trong mắt đàn ông ấy. Lịch sử nghề bà mụ của nước Mỹ chứa đầy những tên tuổi phụ nữ được đề cao bởi những người cùng giới và bị tẩy chay bởi cánh đàn ông. Những tên tuổi như Anne Hutchinson. Đúng thế, Anne Hutchinson. Thủ lĩnh tôn giáo đầu tiên của nước Mỹ thuộc địa là một người phụ nữ và là một bà mụ. “Không chỉ có một trí tuệ siêu phàm, Anne Hutchinson còn có một trái tim mạnh mẽ và đôi tay êm ái của một bà mụ. Và bà có nhiều tín đồ. Vậy điều gì đã xảy ra với Anne? Những người đàn ông - những người đàn ông - của Massachusetts đã đày bà đến vùng rừng rậm, và với sự giúp đỡ của bà, nơi đó đã trở thành tiểu bang Rhode Island xinh đẹp. “Họ có hỏi xem các bà mẹ cảm thấy thế nào về việc này không? Không. Dĩ nhiên họ không hỏi,” Stephen nói tiếp, ông lắc đầu và mỉm cười với các bồi thẩm viên, trao cho họ một nụ cười ngụ ý, Tôi chẳng lấy làm ngạc nhiên, còn quý vị? Tôi nhìn theo ánh mắt của ông đến bồi thẩm đoàn, hi vọng thấy họ cũng đang phẫn nộ như ông. Tôi không thể biết. Người Vermont sẽ là những người chơi bài rất giỏi nếu họ có quyết định từ bỏ nghĩa vụ quân sự, và nhóm những người gồm nông dân, thợ bán hoa, giáo viên, thợ quét ống khói, thợ đốn gỗ, thư kí và thợ mộc này cũng không ngoại lệ: Họ ngồi bất động, nhiều người đặt tay lên đùi, nét mặt gần như đanh lại hệt nhau, trịnh trọng, và không thể giải mã. Có bảy phụ nữ và năm đàn ông trong bồi thẩm đoàn. Hai người dự bị đều là nữ, vì thế bồi thẩm đài trông cứ như tuyền là nữ. Không ai trong số họ từng đẻ con tại nhà, dù tôi biết hai trong số ba người phụ nữ lớn tuổi trong bồi thẩm đoàn đã từng chào đời tại nhà. Không có bác sĩ hoặc y tá trong bồi thẩm đài, như Stephen mong muốn, nhưng rõ ràng cũng không có bà mụ, hoặc những người liên quan đến bà mụ. Một người đàn ông biết một bà mụ, nhưng không rõ lắm, còn một người khác - thợ quét ống khói bán thời gian và thợ lợp mái nhà bán thời gian - thường cạo muội than bám trong ống khói ở nhà của một bà mụ. Nhưng ông ta không nhớ hai người có bao giờ nói về chuyện sinh đẻ khi ở đó. Không ai trong bồi thẩm đoàn làm việc ở hợp tác xã lương thực hoặc các cửa hàng bách hóa thực phẩm thiên nhiên đông khách. Không ai nói rằng mình từng sống trong công xã. Có một phụ nữ ở độ tuổi sinh sản trong bồi thẩm đoàn, đối tượng mà Stephen hi vọng tránh được. Đó là một phụ nữ gần ba mươi tuổi có mái tóc đỏ thời thượng và kiểu trang điểm mà người Vermont chỉ thường thấy ở những du khách đến từ thành phố New York. Cô có hai con ba tuổi và sáu tuổi, và dự định sẽ đẻ thêm. Cô ta làm thư kí tại một khu nghỉ mát trượt tuyết, nhưng chẳng ai trong chúng tôi nghĩ cô làm việc đấy vì tiền. Ngoài ra, ông nội cô là bác sĩ, vì thế cô ta làm cho Stephen lo lắng chẳng kém bất kì người nào khác trong bồi thẩm đoàn. Cô ta thông minh, nói năng lưu loát, và hăng hái một cách thích hợp - hoặc không thích hợp, cô ta là loại người có thể điều khiển các cuộc nghị án. Thật không may, còn có những ứng viên tệ hơn nữa, theo quan điểm của chúng tôi, và do đó cô ta được ở lại. Stephen giơ quyển nhật kí của Priscilla Mayhew lên cho bồi thẩm đoàn xem một lần nữa, một quyển sách bìa cứng với lớp bọc chống bụi bằng giấy bóng. Bìa trước có tranh vẽ một chiếc ghế dùng trong đỡ đẻ tại nhà, và đó là nguồn cơn khiến mẹ tôi không thôi bực bội. Rất có thể Priscilla Mayhew đã không bao giờ dùng đến một vật như thế, và nếu đọc kĩ quyển nhật kí, người ta sẽ nhận ra điều đó. “Vậy, theo tiêu chuẩn của nước Mỹ cuối thế kỉ hai mươi, tỉ lệ sản phụ tử vong của bà Mayhew có cao không?” Stephen hỏi bồi thẩm đoàn câu hỏi tu từ. “Có. Theo tiêu chuẩn của chúng ta thì đúng là cao. Theo tiêu chuẩn của chúng ta, nó cao một cách không thể chấp nhận. Bà Mayhew đã chứng kiến một ca tử vong trên mỗi một trăm chín mươi hai đứa trẻ khỏe mạnh, vui vẻ mà bà đỡ đẻ. Khoảng hai trăm năm sau, vào năm 1981, chỉ có một trên một nghìn bà mẹ chết trong lúc sinh con. Vậy mà chỉ mới vào năm 1930, chỉ mới năm mươi năm trước thôi, tại Mỹ có một trên một trăm năm mươi người chết vì sinh đẻ. Một trên một trăm năm mươi. Quý vị có thể tìm hiểu tại Trung tâm Thống kê Y tế Quốc gia. Có điều gì trớ trêu ở đây không? Tất nhiên là có. “Tại Mỹ vào năm 1930, đa số phụ nữ đẻ con trong bệnh viện, và họ đẻ con với sự chăm sóc của bác sĩ. “Nói cách khác, Priscilla Mayhew, bà mụ ở thế kỉ mười tám, có tỉ lệ sản phụ tử vong thấp hơn đáng kể so với các bác sĩ hành nghề vào năm 1930. “Và dù sản khoa đã có những bước nhảy vọt ấn tượng trong năm mươi năm qua, thống kê cho thấy ngày nay một ca đẻ tại nhà theo dự tính cũng an toàn không kém một ca đẻ trong bệnh viện - cho cả mẹ lẫn con,” Stephen nói, sải bước về chiếc bàn mà mẹ tôi và Peter đang ngồi. Peter đưa cho ông một tờ giấy có các cột số liệu. “Các con số trong nghiên cứu này có thể khiến quý vị ngạc nhiên, nhưng chúng đây. Trong một nghiên cứu gần đây, có một phẩy ba trẻ em chết trên một nghìn trẻ được sinh tại nhà, trong khi có một phẩy bảy trẻ chết trên một nghìn trẻ chào đời tại một số bệnh viện ở Minnesota... hoặc hai phẩy bốn tại một bệnh viện của bang New York. “Quan điểm của tôi? Những người đang truy tố bà Danforth sẽ quả quyết rằng sinh tại nhà không chỉ là vô trách nhiệm, mà còn điên rồ. Chà, quý vị sẽ thấy là họ đã sai. Đó có thể không phải là một sự lựa chọn đúng đắn cho một số phụ nữ, nhưng nó cũng không nguy hiểm hơn so với một ca đẻ ở bệnh viện là bao. Hãy thừa nhận điều này, phụ nữ đã đẻ con tại nhà từ khi, à, từ khi bắt đầu có sự sống. Và cho đến gần đây, họ đã được chăm sóc bởi những người như Priscilla Mayhew: những bà mụ hiểu biết, hết lòng hết dạ, tận tình. Những người phụ nữ cống hiến cuộc đời họ cho những chị em lúc sinh đẻ. Những phụ nữ này là ai? “Có một người đang ngồi ngay trước mặt quý vị. Sibyl Danforth. Như quý vị đã biết, Sibyl Danforth là một bà mụ. Quý vị sẽ biết bà ấy là một bà mụ hiểu biết. Một bà mụ hết lòng hết dạ. Một bà mụ tận tình. “Quan trọng nhất là, quý vị sẽ biết bà ấy là một bà mụ xuất sắc. “Quý vị sẽ biết theo số liệu thống kê, những đứa trẻ do bà ấy đỡ đẻ khỏe mạnh không kém những đứa trẻ chào đời ở bệnh viện North Country, và các bà mẹ của bà ấy thực ra còn khỏe hơn nữa. Đúng vậy, các bà mẹ của bà ấy khỏe hơn. Họ ít bị rạch âm hộ hơn, ít bị vết rách hơn, và ít sự can thiệp phẫu thuật hơn,” ông nói, ngụ ý mổ lấy thai. Ông đã giải thích với gia đình tôi rằng ông sẽ dùng những cách nói uyển ngữ bất kể khi nào có thể vào lúc đầu - những từ như vết rạch chẳng hạn, thay vì vết rách đáy chậu - và ông sẽ tránh dùng từ đẻ mổ bằng mọi giá. Từ đó, và toàn bộ ý nghĩa bao hàm của nó, sẽ sớm trở thành một từ cố định trong phiên tòa, ông đã nói thế. “Trong suốt những năm đỡ đẻ em bé và chăm sóc bà mẹ của bà ấy, chỉ có duy nhất một phụ nữ thiệt mạng. Charlotte Bedford. “Và xin hãy hiểu cho, chúng tôi sẽ không nói với quý vị rằng cái chết ấy không phải là một thảm kịch. Nó đúng là thảm kịch, Chúa ơi, đúng là như vậy.” Stephen nói, lướt bàn tay trên lớp gỗ sơn bóng ở mép chiếc bàn dành cho báo cáo viên tòa án. Hầu hết gỗ trong phòng xử án đều láng bóng đến độ sáng choang, nhất là những cây cột màu hổ phách sậm viền quanh những cánh cửa như những cột Doric[24]. “Và không ai buồn vì điều đó hơn Sibyl Danforth. Gia đình của Charlotte Bedford có đau đớn vì sự mất mát này không? Có. Bất kì gia đình nào cũng sẽ đau đớn. Nhưng Sibyl Danforth cũng đau đớn không kém. Nói gì đi nữa, Sibyl Danforth đã chứng kiến cái chết của cô ấy. Bà đã ở đó, bà đã có mặt trong phòng. Bà đã chứng kiến người phụ nữ ấy chết. “Nhưng Sibyl Danforth không giết cô ấy, và đó là toàn bộ nội dung vụ án này,” ông nói, rồi dừng lại. Ông đứng im, tuyệt đối bất động trước bồi thẩm đài suốt một lúc lâu, trong bộ complet xám nhỉnh- hơn-một-bậc, không hề nhúc nhích. Ông đứng thẳng lưng, hai tay áp vào hai bên người, và lần đầu tiên trong ngày hôm đó tôi nhớ lại rằng Stephen là một cựu binh chiến tranh. Rồi ông đột ngột dang hai tay ra, và bằng một cử chỉ dứt khoát đặt chúng mạnh xuống thanh chắn trước mặt, sát một bồi thẩm viên đến độ người thanh niên đó giật bắn mình khi hai tay ông chạm xuống. “Vì Chúa, Sibyl Danforth không giết ai cả,” Stephen nói, “bà ấy đã cứu mạng một người. Sibyl Danforth không cướp đi mạng sống của một người phụ nữ trẻ vào sáng hôm đó ở Lawson, bà ấy đã cứu mạng một bé trai. Đó là chuyện đã xảy ra, đó là sự thật: Bà ấy đã cứu một đứa bé từ người mẹ đã chết của nó. “Chính quyền bang dĩ nhiên đang nói ngược lại, quả quyết rằng Charlotte Bedford vẫn còn sống khi Sibyl Danforth tiến hành cứu người. Lời buộc tội này đến từ đâu? Từ quan điểm của một cô gái hai mươi hai tuổi hoảng sợ, kiệt sức, và ngây thơ: một cô gái chưa chứng kiến hơn hai mươi ca đẻ trong đời, nhưng đã trải qua bi kịch của thời tuổi trẻ. Chính quyền bang sẽ yêu cầu quý vị tin lời nói của cô học việc hai mươi hai tuổi này thay vì tin lời của bị cáo, một bà mụ giàu kinh nghiệm từng đỡ đẻ an toàn cho hơn năm trăm đứa trẻ. Một người phụ nữ biết về hô hấp nhân tạo và xử lý y tế khẩn cấp có lẽ tốt hơn hầu hết các hỗ trợ viên y tế. “Đừng phạm sai lầm: Sibyl Danforth biết về sinh đẻ, nhưng bà cũng biết về cái chết. Bà đã được đào tạo quá tốt nên không thể nhầm lẫn giữa một người sống và một người chết. Charlotte Fugett Bedford đã chết khi Sibyl Danforth cứu mạng đứa bé trong tử cung của cô ấy.” Ông quay sang mẹ tôi và chỉ về phía bà: “Người phụ nữ này không phải là một tội phạm, bà ấy là một anh hùng! Hành động của bà ấy không phải là bất cẩn gây tội ác, mà là hành động dũng cảm! Bà ấy là người dũng cảm!” Mưa đã ngớt từ trước giờ ăn trưa, nhưng bầu trời vẫn không có dấu hiệu sáng sủa hơn. Stephen đi về phía cửa sổ, nhìn thoáng ra những đám mây, rồi lại nhìn chăm chú vào bồi thẩm đoàn từ đầu kia của phòng xử án. “Sinh đẻ là có rủi ro, và sinh đẻ tại nhà là có rủi ro,” ông nói, giọng nói đều đều, có phần buồn bã. “Quý vị biết điều đó, và Charlotte Bedford cũng thế. Cả cô ấy và chồng đều biết những rủi ro chực chờ. Chính quyền bang quả quyết rằng bà Danforth đã không chia sẻ thông tin về rủi ro với họ. Chúng tôi sẽ cho quý vị thấy chính quyền bang đã sai. “Chính quyền bang nói việc bà Danforth làm là hành nghề y không giấy phép. Chúng tôi sẽ cho quý vị thấy bà ấy chỉ làm điều mà bất kì con người tử tế và can đảm nào - có thể là bất kì ai trong số quý vị - sẽ làm, khi đứng trước cùng một sự lựa chọn kinh khủng: Hai cái chết. Hay một. “Cuối cùng, chính quyền bang sẽ nói với quý vị rằng Charlotte lẽ ra đã không chết nếu sinh con trong bệnh viện. Chúng ta không bao giờ biết được điều đó. Nhưng nó không quan trọng. Nó không quan trọng bởi vì Charlotte Bedford đã quyết định đẻ con tại nhà và thông báo quyết định đó. Và quý vị sẽ thấy rằng khi tình hình chuyển dạ của Charlotte Bedford không tiến triển theo cách mà thân chủ tôi mong muốn, thì thân chủ tôi thực ra đã làm tất cả trong khả năng để đưa người phụ nữ ấy đến bệnh viện. Tất cả. Thật không may, băng đá và gió mưa đã ngăn cản bà ấy. “Cái chết của Charlotte Bedford là một thảm kịch. Chúng ta biết điều đó. Chính quyền bang biết điều đó. Nhưng căn cứ trên khát khao của Charlotte và Asa Bedford được đẻ con tại nhà, một quyền được chính quyền bang Vermont bảo vệ, thì đó là điều không thể tránh khỏi - như quý vị sẽ thấy. “Lý do duy nhất thân chủ của tôi phải ra tòa là vì chúng ta có những bác sĩ ở bang này mong muốn nhìn thấy lựa chọn sinh đẻ tại nhà bị xóa sổ; họ muốn toàn bộ tư tưởng này biến mất. Họ muốn mọi đứa trẻ trong bang này chào đời ở bệnh viện. Ý nghĩ một bà mụ có thể làm điều họ đang làm - và lại làm tốt hơn - khiến vài người trong số họ phát điên, và thế là họ hành hạ thân chủ của tôi. Một bà mụ xuất sắc. Và tôi đã suy nghĩ thận trọng khi dùng từ hành hạ: Họ không chỉ khởi tố Sybil Danforrth, họ đang hành hạ bà ấy. Bà ấy và... lòng tốt của bà ấy. “Điều các bác sĩ giờ đây đang làm với Sibyl Danforth chính là điều mà đàn ông đã làm với các bà mụ trong nhiều thế kỉ, kể từ những ngày khi Anne Hutchinson bị trục xuất khỏi Massachusetts. Họ đang tìm cách tống khứ Sibyl Danforth. Và họ đang làm điều đó bằng cách cáo buộc bà những tội ác mà bà không phạm phải.” Ông gật đầu với thẩm phán rồi thì thầm một tiếng cám ơn khẽ đến bồi thẩm đoàn. Sau đó ông ngồi xuống cạnh mẹ tôi và chống tay lên cằm. Vào lúc đó tôi nghĩ đó là một bài tranh luận hùng hồn và ấn tượng, và dù vẫn còn gần hai tuần lấy lời khai trước mắt, nhưng tôi chắc chắn đã quyết tâm xóa toàn bộ cáo buộc đối với mẹ tôi nếu tôi ngồi trong bồi thẩm đài. Nhưng có gì đó gặm nhấm tôi khi Stephen ngồi xuống, và chỉ đến khi gia đình tôi lái xe về nhà còn tôi ngồi một mình nghĩ ngợi ở băng ghế sau trong xe, tôi mới nhận ra nó là gì: Dù Stephen đã nói bằng nhiều cách trôi chảy khác nhau rằng mẹ tôi không giết Charlotte Bedford, ông chưa bao giờ nói chính xác tại sao người phụ nữ xấu số ấy thiệt mạng.