← Quay lại trang sách

- 17 -

Tôi có thể tính được tương đối số lần tôi đọc đi đọc lại những gì mình viết vào ngày 15 tháng ba. Tôi chỉ cần đếm trên lịch số ngày đã trôi qua kể từ hôm đó để có số liệu ước tính, vì hiếm có ngày nào trôi qua mà tôi không đọc lại bài viết đó. Tôi nghĩ mình đã bắt đầu viết vào khoảng bốn giờ rưỡi sáng vì không ngủ được, và hình như tôi đã viết không dừng cho đến khi Rand thức dậy vài giờ sau đó. Ðó chính là hôm thứ bảy chúng tôi gặp Stephen.

Bài viết đó như một tai nạn xe ô tô với tôi vậy. Tôi bị hút vào nó, tôi không thể không dán mắt vào từng con chữ.

Khi Stephen và Bill Tanner đang trình bày phần biện luận mở đầu hôm nay, mỗi người đều có một phiên bản riêng về điều đã xảy ra, và tôi không thôi nghĩ về phiên bản của mình - những gì tôi đã viết vào ngày mười lăm. Sau ngần ấy thời gian, dường như những gì tôi viết cũng đã trở thành một phiên bản nữa. Tôi có một phiên bản, Asa có một phiên bản, và Anne có một phiên bản. Và chúng tôi hi vọng mười hai con người này sẽ quyết định về điều gì đã thực sự xảy ra, trong khi ngay cả chúng tôi còn không thống nhất được.

Có phải tôi đã từng rất thích đỡ đẻ em bé hay không? Chúa ơi, tôi biết là phải, vì tôi đã làm thế nhiều năm rồi. Nhật kí của tôi tràn ngập những cách thể hiện niềm đam mê đó; tôi có thể lướt ngón tay trên các con chữ - những con chữ của tôi. Nhưng tôi đã không đỡ một đứa bé nào trong nhiều tháng rồi, tôi đã không cảm nhận một cơn dâng trào lúc chuyển dạ của bà mẹ nào kể từ mùa xuân năm nay.

Và tôi chẳng còn nhớ nổi cảm giác đó là như thế nào nữa.

Tất cả những hân hoan mà tôi từng trải nghiệm đã biến thành nỗi đau, kiểu cảm xúc mà bạn không nhớ rõ khi nó kết thúc. Rất ít người trong số chúng ta nhớ được nỗi đau khi nó qua đi; chúng ta không thể kể lại nó khủng khiếp thế nào. Ðó là những gì mà tất cả hân hoan tôi từng có trong các ca đẻ đã trở thành: một từ mơ hồ chẳng có ý nghĩa gì lắm.

Tuần sau tôi sẽ ngồi ở bục nhân chứng và kể với mọi người tôi nghĩ điều gì đã xảy ra, và tôi có thể sẽ lấy đủ tinh thần để tỏ ra bình thản và chắc chắn về điều đó. Tôi chắc mình sẽ tự tin về điều đã xảy ra như Stephen mong muốn ở tôi, vì đó là việc tôi phải làm lúc này vì gia đình mình.

Nhưng sự thật của vấn đề là, tôi không còn biết điều gì đã thực sự xảy ra nữa.

trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth

TRONG NHỮNG TUẦN TRƯỚC khi phiên tòa của mẹ diễn ra và những tuần khi nó diễn ra, đó là tất cả những gì bố mẹ có thể làm để chăm sóc bản thân. Đứa con gái mới lớn của họ dĩ nhiên không phải là ưu tiên thấp nhất trong cuộc đời họ, nhưng, cũng thật dễ hiểu, sự chú ý của họ không tập trung vào tôi.

Trong những đêm phiên tòa diễn ra, tôi có nghĩa vụ ở nhà, ngồi trong phòng đọc thứ mà những người lớn xung quanh đã kết luận là không cần phải thảo luận trong lớp học hoặc giảng giải. Cố vấn dẫn dắt của trường đã gặp các giáo viên và mẹ tôi vào tuần trước khi phiên tòa diễn ra, và mọi người đều đồng ý tôi sẽ tiếp tục tự học môn Anh văn và lịch sử, rồi sau đó học đuổi môn toán, khoa học và Pháp văn sau khi mọi chuyện kết thúc.

Nhìn lại, tôi ngạc nhiên khi người ta lại có thể yêu cầu một việc như thế. Những người lớn đều kiệt sức sau mỗi ngày ra tòa, và tôi cũng thế: Sau khi chứng kiến mẹ của mình bị tấn công dữ dội trong sáu đến tám giờ đồng hồ, tôi chẳng còn hơi sức đâu mà học với hành.

Tương tự, bố mẹ tôi cũng quá mệt nên không thể răn đe tôi, quá bận rộn đến nỗi cả nhắc nhở tôi làm bài tập về nhà cũng không thể.

Kết quả là, tôi dành phần lớn buổi tối sau phiên biện luận mở đầu, ngày thứ tư đầu tiên của phiên tòa, ở kho thóc nhà McKenna với Rollie, Tom và Garrett Atwood. Đến mười giờ, bốn đứa chúng tôi đã phê thuốc túy lúy, đến nỗi đã chụm tay quanh lỗ mũi con Witch Grass tội nghiệp và gắng sức thổi chất ma túy chúng tôi vừa mới đưa vào phổi mình qua phổi nó.

Con ngựa ngất ngây một chút, nhưng không lảo đảo như chúng tôi. Cơn mưa ngày hôm đó đã khiến bên trong kho thóc nhớp nháp, nhưng Tom và Garrett đã có tầm nhìn xa trông rộng, được xúc tác bằng kích thích tố sinh dục nam, khi đem theo chăn và cần sa. Thế là Tom và tôi nằm ôm nhau sát rạt ở một góc kho thóc, trong khi Rollie và Garrett tìm được một góc khác. Phần lớn mây đã di chuyển về phía đông, và một mặt trăng to khổng lồ thắp sáng bầu trời xuyên qua một ít mây còn lại.

Khi tôi loạng choạng về nhà trước mười hai giờ đêm, ánh sáng duy nhất phát ra từ nhà chúng tôi đến từ phòng ngủ của bố mẹ. Tôi đoán họ thức đợi tôi về, và sẽ đi xuống đón tôi ngay khi tôi mở cửa. Thế là với kiểu suy luận tùy hứng của một đứa con gái mới lớn phê thuốc, tôi lững thững đi ra phía sau nhà và giật tung cửa sổ chắn bão ở phòng làm việc của mẹ. Cách bố tôi trét sơn matit để bịt kín những cạnh rìa kim loại vào mỗi mùa thu khiến tôi luôn nghi ngờ rằng cửa sổ chắn bão không được đóng kín, và tôi đã đúng. Rất dễ mở nó ra từ bên ngoài, và cũng dễ leo qua gờ cửa chui vào bên trong.

Cạnh cửa sổ là bàn làm việc của mẹ, và dưới ánh trăng tôi có thể thấy một quyển nhật kí của bà đang mở ra trên bàn. Có vẻ như bà đã viết nhật kí tối hôm đó.

Tôi đóng cửa lại, đẩy nó thật khẽ về phía khung cửa để ánh sáng không lọt ra ngoài khi tôi mở đèn bàn lên. Nếu không phải quá phê thuốc, thì tôi muốn tin rằng tôi sẽ tôn trọng sự riêng tư của mẹ và để yên quyển nhật kí của bà, nhưng lần này thì tôi không chắc. Và không cần biết liệu thuốc phiện có thể hoặc nên là lý do để bào chữa cho hành vi xấu, nhưng không thể chối cãi rằng chúng thường giải thích cho chuyện đó. Cúi người xuống bàn, tôi bắt đầu đọc, và khi tôi thấy những gì mẹ viết về ngày 15 tháng ba, tôi lật lại những trang từ nửa năm trước đó.

Trong suy nghĩ của bố mẹ, mãi đến hai giờ sáng tôi mới về nhà, vì đó là thời điểm tôi cuối cùng cũng ngừng đọc và quyết định đi lên lầu. Dù phòng của họ nghe có vẻ im ắng khi tôi bắt đầu bước lên cầu thang, nhưng cửa phòng đã mở ra ngay khi tôi đặt chân lên chiếu nghỉ, và tôi nhận ra cả hai đều còn thức.

Nếu lúc đó mẹ tôi không phải đang ra tòa thì tôi hẳn đã bị cấm túc cho đến hết Lễ tạ ơn. Nhưng bà đang ra tòa, và dù bố mẹ hết sức giận dữ vì tôi đã khiến họ lo lắng và hành xử thiếu trách nhiệm, song dường như họ cho rằng tôi làm vậy là do căng thẳng từ phiên tòa và những ngày dài ở tòa án. Họ dằn vặt bản thân nhiều hơn là trách móc tôi và cảm thấy chút an ủi khi biết rằng tôi không đi đâu xa khỏi nhà suốt thời gian đó ngoại trừ đến kho thóc nhà Rollie, và tôi đã ở đó với một nhóm những đứa trẻ khác.

Chúng tôi đều mệt mỏi trong bữa sáng hôm sau vì thiếu ngủ, chỉ có tôi là còn nuốt nổi chút gì, ngoài điều đó ra, ngày thứ năm đã bắt đầu giống như những ngày còn lại trong tuần: Bố mẹ tôi thảo luận những gì Stephen đã nói có thể xảy ra vào hôm đó tại tòa, còn tôi lắng nghe, hiểu, và lo lắng.

Nhân chứng đầu tiên Bill Tanner gọi lên không phải là cảnh sát hoặc bác sĩ; cũng chẳng phải là chuyên gia pháp y hoặc bà mụ.

Đó là người dự báo thời tiết. Người đầu tiên tôi thấy tuyên thệ chính là giọng nói trong chương trình “Nhìn lên trời” phát sóng hai lần mỗi ngày trên Đài phát thanh công cộng Vermont, nguồn thông tin thời tiết duy nhất lúc bấy giờ cho hầu hết chúng tôi ở Vương Quốc Đông Bắc. Người đó thấp hơn tôi tưởng tượng, nhưng cũng dễ thương hơn rất nhiều. Nghe giọng của ông ấy trong xe ô tô hoặc đôi khi trong bữa ăn sáng, tôi luôn hình dung một người đàn ông cao nghều đeo kính quê mùa, trong khi ngoài đời đó là một người khỏe mạnh, chắc nịch, có tóc xoăn vàng hoe và thị lực đúng là rất hoàn hảo.

Ông ta cung khai không quá hai mươi phút, và có lẽ đã rời phòng xử án trước chín giờ ba mươi. Tôi rất thích thú trước cách ông được một chấp hành viên tòa án dẫn vào phòng và một người khác hướng dẫn ông đọc tuyên thệ. Tanner sau đó đảm bảo mọi người trong bồi thẩm đoàn hiểu rằng người đàn ông này có thể là chuyên gia hàng đầu của Vermont về thời tiết - một nhà khí tượng học không chỉ dự báo thời tiết mà còn dạy môn khí tượng học ở một trường cao đẳng tại góc phía Bắc của bang - và ông ta đã dành trọn ngày 12 và 13 tháng ba cảnh báo các thính giả của mình về những trận mưa và không khí lạnh đang tiến đến, cùng khả năng rất cao là các tuyến đường cao tốc sẽ đóng băng.

“Ông có bao giờ đề nghị mọi người tránh đi trên đường không?” Tanner hỏi ông ta.

“Có,” ông ta đáp. “Chiều thứ tư và cả ngày thứ năm tôi đã nói bão có thể rất khủng khiếp và sẽ có rất nhiều băng tuyết. Tôi đã nói tình hình sẽ cực kì nguy hiểm.”

Rồi để khẳng định hơn nữa, Tanner mở đoạn dự báo dài hai phút của người dự báo thời tiết từ bản tin “Nhìn lên trời” giờ phát sóng buổi trưa của thứ năm ngày mười ba, và chúng tôi nghe một đoạn ghi âm của người đàn ông này nói chính xác như thế.

“Thi thể cô ấy nằm dưới một tấm vải, được kéo lên đến cổ,” Leland Rhodes, viên cảnh sát mà cho đến nay vẫn hiện lên trong đầu tôi mỗi khi tôi trông thấy một chiếc xe cảnh sát màu xanh chạy lướt qua trên đường liên bang, nói. Ông ta ngồi thẳng vai trên bục, chiếc mũ cảnh sát rộng vành đặt trên đùi. Bộ đồng phục của ông ta trông bảnh bao và được là rất thẳng thớm, đến nỗi lớp vải trông cứng đơ như bộ quần áo vẽ trên người những con búp bê nhựa. Sự mất lòng tin ở cảnh sát mà người ta thường cảm thấy ngày nay vẫn chưa xuất hiện ở góc nhỏ của chúng tôi tại Vương quốc vào năm 1981, và Rhodes là một người chân thành đầy quyền uy.

Vả lại, như Tanner đã hết sức làm rõ với bồi thẩm đoàn, Rhodes không có lý do gì để phóng đại sự thật hoặc nói dối.

“Ông biết là cô ấy đã chết?” Tanner hỏi.

“Chúng tôi biết khi nhận tin báo tổng đài rằng cô ấy đã chết trước khi chúng tôi đến.”

“Nhân viên tổng đài đã cho ông biết?”

“Đúng vậy.”

“Hãy mô tả tình trạng phòng ngủ,” Tanner nói, và bên cạnh tôi, bà ngoại khẽ rùng mình.

Tuy nhiên, trước khi Rhodes kịp mở lời, Stephen đã đứng lên phản đối: “Thưa quý tòa, loại câu hỏi này hoàn toàn không hợp lý.”

Thẩm phán Dorset lắc đầu, nói rằng ông cho phép hỏi. Với sự giúp đỡ của một câu hỏi gợi ý từ luật sư bang, Rhodes sau đó kể với bồi thẩm đoàn ông đã nhìn thấy gì khi đến nhà Bedford. Giọng nói của ông vẫn mạnh mẽ nhưng bình tĩnh, ngay cả khi ông kể lại những chi tiết đặc biệt rùng rợn, ông nói gần một giờ đồng hồ mới xong và lúc đó Stephen mới được phép đối chất.

Rhodes bắt đầu với việc ông phát hiện ra chiếc xe nhà ga của mẹ tôi bị kẹt trong vách tuyết thế nào, và ông ta cùng cộng sự đã phải đi bộ thật chậm qua sân đến cửa trước ra sao: Họ đã nghĩ cỏ làm nền thì sẽ tốt hơn là những viên đá xanh phủ băng tuyết.

Không có người ra mở cửa khi họ gõ cửa, nhưng họ đã đoán trước điều đó, và thế là họ tự ý vào nhà và gọi to lên cầu thang từ lối đi phía trước. Mẹ tôi gọi đáp trả từ phòng ngủ ở lầu hai.

Dù Rhodes để ý thấy đồng hồ của ông ta chỉ bảy giờ ba mươi tư, nhưng rèm cửa trong phòng ngủ vẫn khép, và chỉ có chiếc đèn sàn nhà trong góc phòng là đang mở. Căn phòng, theo suy nghĩ của ông, rất u uất, tối tăm và im lìm, trừ tiếng khóc như nấc cụt của Asa Bedford.

Ông nói Anne Austin đang ngồi trên một chiếc ghế dựa vào tường, vỗ về đứa bé trong tay. Ông nghĩ đứa bé đang ngủ. Asa đang ngồi trên giường cạnh vợ, cơ thể ông hơi cúi lên người cô, còn mẹ tôi đang ngồi cạnh ông, xoa vai ông trong lúc ông khóc.

Rhodes thường nói trực tiếp với bồi thẩm đoàn hoặc với Tanner. Sau khi quan sát những nhân chứng khác trong một tuần rưỡi tiếp theo đó, cả tôi cũng nhận thấy rõ rằng Rhodes - như nhiều sĩ quan cảnh sát - thường xuyên cung khai và rất thoải mái khi đứng ở bục nhân chứng.

“Hãy kể cho chúng tôi về những đồ vật ông tìm thấy trong phòng,” Tanner gợi ý, và Rhodes tuân thủ. Ông bắt đầu với những vật dụng cơ bản trong bất kì ca đẻ tại nhà nào, những loại vật dụng có thể làm trầm trọng hơn kết cục của một trải nghiệm mà mẹ tôi cho rằng vô cùng đẹp đẽ: Một hộp bông y tế mới, và một chiếc giỏ rác chứa đầy những miếng bông đã dùng. Một chiếc nhiệt kế hậu môn. Một bầu hút cao su, vẫn còn chứa một ít nước nhầy. Một ống thuốc bôi trơn đã mở. Một ly nước có ống hút. Những cái kẹp kim loại. Một cốc giấy hiệu Dixie đựng nước cam vắt. Kéo. Một đĩa đựng bánh dự định dùng để đựng nhau. Một mũi kim. Một ống Pitocin. Khăn giấy. Ba túi giấy màu nâu nhà Bedford đã dùng để tiệt trùng những tấm ga giường, chăn và khăn rồi sau đó đem vào phòng ngủ, và rồi toàn bộ những tấm ga giường, chăn và khăn đó, một số được gấp lại và còn mới, một số đỏ sậm vì máu khô.

Ông nói nhìn thấy một chiếc gối mà ông hình dung thuộc về chiếc ghế sofa dưới nhà, vì nó có màu đỏ thẫm không hợp với bất kì thứ gì trong phòng ngủ, nhưng rồi ông nhận ra chiếc gối ướt sũng máu. Một lúc sau ông nhận thấy một túi chỉ y tế rỗng trên tủ đầu giường, và máu trên tấm ga giường phủ lên người cô Bedford, một số chỗ dày đến nỗi trông giống lớp vảy hơn là vết loang.

“Ông có thấy con dao không?” Tanner hỏi.

“Không thấy ngay.”

“Tại sao không?”

“Nó đã bị đem ra khỏi phòng ngủ.”

“Ông có biết ai đem nó đi không?”

“Bà Danforth nói bà ấy đã đem nó đi.”

“Bà ấy đem nó đi đâu?”

“Chúng tôi tìm thấy nó trong nhà bếp.”

“Bà ấy có nói với ông tại sao lại đem nó đến đó không?”

“Bà ấy nói không muốn chồng của sản phụ phải tiếp tục nhìn thấy nó.”

“Tình trạng của con dao thế nào?”

“Nó sạch bong. Toàn bộ máu và mô đã không còn trên lưỡi dao, trong bồn rửa vẫn còn bọt xà phòng.”

Tanner sau đó đi về phía bàn của mình, trợ lý luật sư đưa cho lão một bìa nhựa trong suốt chứa đầy giấy viết tay. Ở chiếc bàn trước mặt tôi, Stephen với lấy một bản mà tôi cho là bản sao của tài liệu đó.

Lão đưa bìa nhựa về trước cho Rhodes rồi nói, “Để tôi cho ông thấy vật được đánh dấu nhận dạng số mười bảy của bang. Ông có nhận ra nó không?”

“Tôi nhận ra. Đó là biên bản mà Hạ sĩ Tilley và tôi ghi lại từ bà Danforth vào đêm xảy ra sự cố.”

Tanner gật đầu, và tiến đến để đưa biên bản đó vào làm vật chứng. Stephen lập tức phản đối, lập luận giống như trong một đơn thỉnh nguyện gửi vào mùa hè năm đó rằng biên bản này không thể được chấp nhận vì nó đã được lập mà không có sự hiện diện của luật sư. Nhưng ông đã bị bác vì theo quan điểm của thẩm phán, vấn đề này đã được giải quyết, và Rhodes kể lại cho tòa nghe những gì mẹ tôi đã nói với cảnh sát vào đêm đầu tiên đó.

“Anne Austin có nói gì với ông khiến ông tin rằng Sibyl chịu trách nhiệm về cái chết của cô Bedford không?” Stephen hỏi Rhodes trước giờ ăn trưa.

“Ý ông là vào buổi sáng chúng tôi đến đó à?”

“Đúng, ý tôi là buổi sáng hôm đó.”

“Không.”

“Còn Asa Bedford thì sao? Ông ấy có nói với ông là ông ấy nghĩ thân chủ của tôi đã làm điều gì đó... sai?”

“Không.”

“Liệu ông ấy có thể đã nói không? Ông ấy có dịp để nói không?”

“Tôi nghĩ là có.”

“Nhưng ông ấy đã không nói.”

“Đúng.”

“Ngay cả khi chỉ có hai người trong nhà bếp vào khoảng tám giờ mười.”

“Đúng.”

Stephen nhìn ông ta chăm chú nhưng giữ im lặng, và để cho câu trả lời của người cảnh sát lơ lửng trong phòng một lúc lâu.

Có một lần khi Leland Rhodes đang cung khai, lúc ông ta và Stephen đang tranh luận về việc liệu viên cảnh sát có xem nhà của gia đình Bedford là hiện trường án mạng khi ông ta mới đến hay không, chị của Charlotte bắt đầu khóc. Đó không phải là những giọt nước mắt lặng lẽ, đó là kiểu khóc thút thít mà nếu không ngăn chặn thì sẽ hóa thành tiếng khóc lớn.

Stephen và Tanner tiến đến ghế chủ tọa gần như đồng thời, sau đó vị thẩm phán và hai luật sư thì thầm với nhau, xoay lưng về phía chúng tôi một lúc. Khi họ nói xong và hai luật sư đã trở về bàn, thẩm phán Dorset nói với phòng xử án, đôi mắt ông quét từ bên này sang bên kia của căn phòng, rằng ông hiểu rõ các phiên tòa thường gây ra những cảm xúc mạnh, nhưng mọi người có mặt cần kiềm chế cảm xúc, và ai không làm được như thế sẽ bị yêu cầu rời khỏi phòng.

Anh rể của Charlotte đưa tay ôm vợ vào lòng, và cô từ từ bình tĩnh lại. Stephen và viên cảnh sát tiếp tục cuộc tranh luận, và dù mẹ tôi tuyệt đối tin rằng ý nghĩ một án mạng có thể đã xảy ra không hề xuất hiện trong đầu Rhodes vào buổi sáng hôm đó, nhưng viên cảnh sát cứ lặp đi lặp lại, “Một người phụ nữ đã chết, và tôi biết nhân viên pháp y sẽ là người kết luận được nguyên nhân cái chết.”

Cuối ngày hôm đó Peter Grinnel nói với tôi rằng Stephen hài lòng bao nhiêu khi chị của Charlotte cuối cùng cũng im lặng thì Bill Tanner lại vui sướng nhiều hơn bấy nhiêu: Điều cuối cùng bên công tố muốn là một vụ án xử sai vì một người nhà nào đó không thể nín khóc.

Hai tuần trước khi phiên tòa bắt đầu, tôi nghe mẹ nói chuyện điện thoại với Stephen Hastings. Lúc đó đã muộn: Những chiếc đĩa ăn tối đã nằm gọn trong máy rửa bát, bố tôi đã lên lầu đi nằm. Mẹ tôi đã đi tắm.

“Có chứ, tôi đã gặp những người đàn ông làm nghề bà mụ,” mẹ đang nói, và tôi tự hỏi bà có biết tôi đang đứng gần hay không. Bà đang mặc áo ngủ bằng vải bông, nằm cuộn mình trên đệm sofa trong phòng khách, còn tôi thì xuống nhà để lấy quyển sách lịch sử bỏ quên trên quầy bếp.

“Không, giờ thì hết rồi,” bà nói tiếp. “Tôi nghĩ bây giờ chẳng còn người nào ở Vermont hoặc New Hampshire. Số ít ỏi từng làm đều chuyển sang nghề khác.”

Tôi đã có thể lấy quyển sách và đi, nhưng tôi nghe bà cười khúc khích, và âm thanh tiếng cười đó đã trở nên quá hiếm hoi đến độ tôi không thể không nán lại nghe thêm.

“Nếu anh mà làm thì sẽ khủng khiếp lắm đây, Stephen ạ, ghê lắm luôn. Anh nhìn ngực như một cậu nhóc mới lớn ấy. Tôi ghét phải nghĩ đến cách anh xử lý một ca khám thai! Anh sẽ tha hồ mà đùa giỡn... Đúng, nhưng không phải kiểu đùa giỡn đó... Có thể ngày nào đó tôi sẽ làm thế, chắc chắn... Với sách và tranh ảnh... Chỉ với sách và tranh ảnh thôi...”

Tôi đã thấy mẹ tán tỉnh trêu đùa với những người đàn ông mà bố mẹ quen biết trong nhiều năm rồi, những người tạo nên một nửa nam giới trong số cặp vợ chồng hình thành nên nhóm bạn bè của họ, nhưng tôi chưa bao giờ tưởng tượng nổi cảnh bà tán tỉnh họ qua điện thoại. Có thể vì bố tôi không có mặt, có thể vì bà đang mặc một chiếc áo ngủ mỏng, gần như trong suốt, mà tôi cảm thấy việc này thật không phải tí nào, và tôi nhận ra mình đã bất động vì kinh ngạc.

“Đó không phải là một loại thuốc kích dục, tôi đảm bảo luôn. Tôi không nghĩ là các nam bác sĩ sản phụ khoa cảm thấy nóng nực và bực bội khi về nhà, anh thì sao?... Trời ạ, anh hư hỏng quá... Vậy thì tất cả các anh đều là lũ hư hỏng! Nhưng tôi không thật sự nghĩ thế đâu. May là những người đàn ông trở thành bà mụ hoặc bác sĩ sản phụ khoa không có đầu óc thiển cận quái đản như anh,” bà nói, và trong một khoảnh khắc giọng bà như lóe lên sự tươi tắn từng làm rạng rỡ nhiều cuộc nói chuyện của bà lúc trước.

“Anh đợi máy một chút nhé, Stephen?” bà đột ngột nói. “Connie? Phải con không, con yêu?”

Tôi đứng im bất động cho đến khi bà lại nói tiếp. Khi bà cuối cùng cũng nói, tôi quay lưng và rón rén đi thật nhanh lên cầu thang.

Có lẽ vì tôi đã mường tượng trong đầu về cách ăn mặc của hầu hết những bạn bè làm nghề bà mụ của mẹ - quần jeans và áo len, giầy bốt to và dép xăng đan, vô số những chiếc váy bohemian hẳn đã treo trong những chiếc tủ quần áo to bằng phòng ngủ - cho nên tôi đã bất ngờ trước hai người phụ nữ cung khai sau giờ nghỉ trưa: một bà mụ, tiếp theo sau là một bác sĩ sản phụ khoa từng làm bà mụ.

Bà mụ, Kimberly Martin, thậm chí trông giống hệt như bác sĩ. Bà ấy mặc một bộ complet nữ màu xanh dương, có mái tóc cắt ngắn bóng mượt rất mốt: Rất dễ hình dung cảnh bà mặc bộ quần áo phẫu thuật rộng thùng thình của bệnh viện.

Tôi cũng để ý thấy bà ấy đeo nhẫn đính hôn nhưng không có nhẫn cưới, điều đó cũng khiến tôi bất ngờ: Bà ấy có lẽ lớn hơn mẹ tôi đến mười tuổi, và hình như sắp kết hôn.

“Bà đã làm hộ sinh có chứng chỉ được bao lâu rồi?” Tanner hỏi.

“Mười bốn năm.”

“Xin bà cho biết làm hộ sinh có chứng chỉ nghĩa là gì?”

“Trước tiên, chúng tôi đều là y tá được cấp phép. Đó là điều căn bản. Chúng tôi được đào tạo y khoa chính thống. Thứ hai, chúng tôi đều đã tốt nghiệp một trong khoảng hai mươi chương trình đào tạo nâng cao trên cả nước tập trung vào chăm sóc sức khỏe phụ nữ và nghề bà mụ. Thứ ba, tất cả chúng tôi đều thi đỗ kì thi cấp chứng chỉ do trường Cao đẳng Hộ sinh Mỹ cấp. Cuối cùng - và về phương diện cá nhân, tôi tin rằng điều này rất quan trọng - tất cả chúng tôi đều đáp ứng những yêu cầu của các cơ quan y tế hoặc ủy ban nghề y tại tiểu bang mà chúng tôi hành nghề.”

“Và bà vẫn học tiếp, đúng không?”

“Vâng, đúng. Tôi có bằng thạc sĩ. Từ trường Marquette.”

“Bà có phải là thành viên của trường Cao đẳng Hộ sinh Mỹ không?”

“Vâng, đúng vậy. Năm nay tôi cũng gia nhập Phân hội Kiểm định chất lượng.”

Tanner mỉm cười như thể ngạc nhiên thú vị, và tôi tự hỏi chẳng lẽ lão không biết chi tiết này. “Có bao nhiêu hộ sinh ở nước này?” lão hỏi.

“Khoảng hai nghìn năm trăm.”

“Có phải hầu hết hộ sinh đều đỡ đẻ tại nhà không?”

“Ồ, không, phải nói ngược lại mới đúng. Phần đông chúng tôi làm việc trong bệnh viện hoặc các trung tâm bảo sanh - gần như chín mươi lăm phần trăm.”

“Còn bà thì sao?”

“Tôi đã đỡ đẻ tại nhà, nhưng không còn làm nữa từ khi còn rất trẻ. Tôi thích phòng đẻ trong bệnh viện hơn.”

“Tại sao bà nghỉ đỡ đẻ ở nhà?”

“Theo quan điểm của tôi, nó đem lại rủi ro không cần thiết.”

“Bà có kinh nghiệm xương máu nào không?”

“Tạ ơn Chúa, không.”

“Điều gì khiến bà nghĩ rằng nó nguy hiểm?”

“Giáo dục. Càng học về sản khoa, tôi càng nhận ra rằng để một phụ nữ đẻ con ở nhà tức là đặt mọi người - mẹ và trẻ - vào những mối nguy hiểm hoàn toàn không cần thiết.”

...

“Bà nói khoảng chín mươi lăm phần trăm hộ sinh làm việc trong bệnh viện và các trung tâm bảo sinh. Vậy điều đó có nghĩa là khoảng năm phần trăm không làm thế?” Stephen hỏi Kimberly Martin.

“Đúng.”

“Năm phần trăm đó: Họ có làm việc ở nhà không?”

“Có.”

“Họ có tỉ lệ trẻ sơ sinh tử vong cao hơn những người kia không?”

“Không.”

“Cũng tương tự chứ?”

“Số lượng rất nhỏ, vì thế khó mà so sánh được.”

“Ngay cả khi số lượng rất nhỏ: Cũng tương tự chứ?”

“Vâng.”

“Còn tỉ lệ sản phụ tử vong thì sao? Bà có thấy số ca sản phụ tử vong ở các bà mụ đỡ đẻ tại nhà cao hơn không?”

“Không.”

“Thực tế, có hộ sinh nào trong tổ chức của bà từng thấy bất kì người phụ nữ nào chết khi đẻ con tại nhà vào năm ngoái không?”

“Tôi không nghĩ thế. Nhưng điều đó không làm giảm...”

“Thực tế không có ai chết cả, thưa bà Martin,” Stephen nói, ngắt lời người phụ nữ trước khi bà ta có thể làm rõ câu trả lời của mình. “Bà có biết Bell Weber không?” sau đó ông hỏi.

“Tôi biết.”

“Bà có thể cho chúng tôi biết đó là ai không?”

“Đó là một nữ hộ sinh. Bà ấy qua đời vào mùa hè năm nay vì một tai nạn giao thông.”

“Bà ấy có đỡ đẻ tại nhà không?”

Martin gật đầu. “Ở Maryland.”

“Bà ấy có phải là một thành viên trong nhóm của bà không?”

“Cho đến khi bà ấy qua đời.”

“Bà ấy có nằm trong Phân hội Kiểm tra Chất lượng với bà không?”

“Có.”

“Bà ấy có nằm trong ủy ban nào khác của trường Cao đẳng Hộ sinh Mỹ không?”

“Bà ấy từng làm chủ tịch ủy ban sinh đẻ tại nhà.”

“Tổ chức của bà có một ủy ban sinh đẻ tại nhà à? Thật sao?”

Bà mụ ấy trông có vẻ khó chịu với Stephen, cau có trước cách đặt câu hỏi khiếm nhã của ông. “Rõ ràng chúng tôi chỉ có một ủy ban như thế thôi.”

“Có phải vì một số bà mụ trong nhóm của bà vẫn chọn hành nghề ở đó?”

“Đúng.”

Stephen gật đầu. “Trường Cao đẳng Hộ sinh Mỹ có chính thức phản đối sinh đẻ tại nhà không?”

“Không.”

“Cảm ơn bà.”

Tiếp theo sau Kimberly Martin là một phụ nữ khác từng đỡ đẻ tại phòng ngủ của sản phụ, và rồi sau đó hình như đã quyết định đấy không phải là một ý đặc biệt hay. Vài phút sau khi bà ta bắt đầu trả lời các câu hỏi của Bill Tanner, trông tôi có lẽ rất lo lắng hoặc hồi hộp, vì Patty Dunlevy quay sang tôi và thì thầm rằng chúng tôi cũng có chuyên gia, và những chuyên gia của chúng tôi sẽ gây ấn tượng không kém những người này.

Nhưng buổi chiều hôm đó thật khó để tôi tin rằng chúng tôi sẽ tìm được người nào thành đạt như bác sĩ Jean Gerson. Ba mươi năm trước, Jean từng là một bà mụ trẻ đỡ đẻ tại nhà; giờ đây bà là một bác sĩ sản phụ khoa liên kết với một bệnh viện giảng dạy ở Boston, một thành viên của khoa Y trường đại học Boston, và tác giả hai quyển sách về chăm sóc sức khỏe lúc mang thai.

Bà cũng đã viết rất nhiều về lịch sử sinh sản ở Mỹ. Chính bà đã nhắc chúng tôi ở phần đầu buổi cung khai rằng dù sinh đẻ là chuyện tự nhiên, nhưng nó vẫn rất nguy hiểm: “Hãy đối mặt với sự thật,” bà nói thêm, “đã có lúc phụ nữ và trẻ em liên tục mất mạng trong quá trình sinh nở.”

Bác sĩ Gerson đã xem xét tiền sử bệnh án mà Charlotte Bedford cung cấp cho mẹ tôi vào mùa hè khi Veil được thụ thai, bà đã kiểm tra những hồ sơ mà mẹ tôi lưu giữ, vẽ sơ đồ tiến triển của người phụ nữ ấy. Bà bảo với bồi thẩm đoàn rằng bất kì người nào có trách nhiệm, cả bác sĩ lẫn bà mụ, đều sẽ không để cho Charlotte Bedford đẻ tại nhà. Dựa trên ca đẻ đầu tiên của cô ấy, rõ ràng cô ấy là một ứng viên tồi cho lựa chọn đẻ tại nhà, và trong suốt thời gian mang thai, rõ ràng cô ấy quá yếu ớt để chịu được cơn đau đẻ. Cô ấy không tăng đủ cân nặng, và bị thiếu máu.

Hơn nữa, bác sĩ Gerson cực kì ăn ảnh trên tivi. Đó là một người phụ nữ đẹp quý phái, thường mỉm cười trong lúc nói, mẫu người được yêu thích ngay lập tức dù ở một khoảng cách - nghĩa bóng lẫn nghĩa đen - phân chia hai chiếc bàn của phía biện hộ và bên công tố trong phòng xử án. Nhiều năm sau, khi tôi học trường y, tôi vẫn còn nhớ khuôn mặt và giọng nói của bà, và tôi lại nhận ra mình thầm ước được học ở trường đại học Boston.

Trớ trêu thay, một phần trong lời biện hộ của mẹ tôi là việc Charlotte quả thực không phải là một ứng viên cho sinh đẻ tại nhà, nhưng không phải vì cô ấy thiếu máu: Stephen dự định làm lớn chuyện Charlotte từng được điều trị chứng cao huyết áp ở Alabama nhưng không chịu báo thông tin này cho mẹ tôi biết. Và thế là khi ông đứng lên để bắt đầu phần đối chất với bác sĩ Gerson vào cuối ngày, mặt trời đã ngả tít về phía tây đến độ căn phòng gần như chỉ được thắp sáng bằng chiếc đèn chùm to và những chiếc đèn treo tường, tất cả chúng tôi đều nghĩ hai người sẽ nói chuyện ngắn gọn, mang tính chiếu lệ mà thôi.

“Có nhiều thai phụ bị thiếu máu không?” Stephen hỏi bà ấy, và tôi rất ngạc nhiên khi giọng của ông vẫn tràn đầy năng lượng. Có lẽ vì tôi đã thức rất khuya đêm hôm trước, có lẽ do căng thẳng, nhưng tôi đã mệt kiệt sức. Tôi không thể tưởng tượng được Stephen lấy đâu ra sức lực.

“Tôi sẽ không nói nhiều người bị ‘thiếu máu,’ mà tôi sẽ nói rằng nhiều người mắc chứng thiếu máu nhẹ,” bà đáp.

“Tại sao lại như thế?”

“Khi người phụ nữ mang thai, khối lượng máu của người ấy sẽ tăng lên. Đôi khi nó tăng lên đến một nửa. Vì thế nó dẫn đến sự loãng máu tự nhiên, và thiếu máu tự nhiên.”

“Bệnh có chữa được không?”

“Có.”

“Như thế nào?”

Một đứa trẻ sơ sinh ở cuối phòng cất tiếng khóc rống lên, và tôi nghe âm thanh của chiếc dây kéo dài phía trước áo người mẹ. Tôi thấy nhiều bồi thẩm viên nhìn theo phản xạ về phía người phụ nữ, và rồi thẩm phán Dorset cũng nhìn về phía ấy. Tất cả đàn ông gần như nhìn đi chỗ khác ngay lập tức khi thấy người phụ nữ đặt núm vú trên bầu ngực căng mọng của cô ấy vào miệng đứa bé, quyết định cố tình nhìn vào Stephen hoặc vị bác sĩ.

“Viên sắt. Thường là thuốc ferrous sulfate.”

“Có tác dụng phụ gì không?”

“Đôi khi gây khó tiêu. Thường gây táo bón.”

“Bà nói đã xem xét cách Sibyl điều trị chứng thiếu máu của Charlotte Bedford, đúng không?” Stephen hỏi.

“Đúng thế.”

“Sibyl đã làm gì?”

“Bà ta cho cô ấy uống viên sắt.”

“Tình trạng cô ấy có cải thiện không?”

“Không đủ để được cho là...”

“Tình trạng của Charlotte Bedford có được cải thiện không?”

Bác sĩ Greyson nở một nụ cười rất rộng khiến tôi nghĩ rằng - và tôi phải tưởng tượng bồi thẩm đoàn cũng thế - bà sẽ không hạ mình trước thái độ bất lịch sự và cung cách tranh luận của Stephen. Nụ cười của bà nói nếu ông muốn xen vào và cắt ngang lời bà, chẳng sao hết. Với bà nó chẳng có gì khác biệt cả.

“Có,” bà đáp.

Stephen cho gọi nhân viên tòa án đang đứng cạnh chiếc xe đẩy mà Bill Tanner vừa đặt lên một chồng chứng cứ gồm hồ sơ bệnh án mà chính quyền bang vừa nộp thêm. Sau đó ông đưa cho bác sĩ hai tờ giấy kẻ ô và biểu đồ.

“Bà có nhận ra cái này không?”

“Đó là hồ sơ về người quá cố mà bà mụ của ông đã giữ.”

“Đây là những hồ sơ mà bà đã xem xét?”

“Đúng, một phần trong đó.”

“Chúng đề ngày tháng năm nào?”

Bà chỉnh nhẹ kính rồi trả lời, “Một bản đề ngày mười lăm tháng chín, 1980, một bản đề ngày mười hai tháng hai, 1981.”

“Tôi muốn tập trung vào các giá trị hematocrit,” Stephen nói, nhắc đến thuật ngữ mà giới y khoa dùng để mô tả tỉ lệ phần trăm của hồng cầu trong máu. Tất cả những người trong phòng xử án đều đã biết thuật ngữ đó trong phần đầu buổi cung khai của bác sĩ Greyson. “Giá trị hematocrit của Charlotte Bedford vào tháng chín là bao nhiêu?”

“Ba mươi mốt phần trăm.”

“Bình thường thì là bao nhiêu?”

“À, ở hầu hết phụ nữ là khoảng bốn mươi hai. Ở phụ nữ mang thai thì thấp hơn một chút.”

“Vậy trong tháng hai thì sao? Hematocrit của bệnh nhân trong tháng hai là bao nhiêu?”

“Ba mươi lăm.”

“Đó có phải là một sự cải thiện không?”

“Cải thiện nhẹ.”

“Khi một bệnh nhân của bà - một thai phụ - có giá trị hematocrit là ba mươi lăm, bà có tiên lượng một kết quả xấu không?”

“Đó là một câu hỏi kì lạ, và tôi không biết nó có liên quan hay không. Dù sao thì tôi cũng đỡ đẻ trong bệnh viện. Nếu ý ông là, việc đó có ảnh hưởng đến chuyện tôi xử trí một thai ph...”

“Tôi sẽ lặp lại câu hỏi: Bà có tiên lượng một kết quả xấu không?”

Bác sĩ Gerson im lặng một lúc. Cuối cùng bà nói rất đơn giản, “Không.”

“Cám ơn bà.”

“Không có chi.”

Stephen chắp tay sau lưng đi về phía cửa sổ. Khi đã tạo được khoảng cách giữa ông với nhân chứng, ông quay lại về phía bà ta và hỏi, “Khi nãy bà nói với chúng tôi rằng huyết áp của Charlotte Bedford cao hơn bình thường một chút. Tôi nói đúng không?”

“Đúng.”

“Nếu là bà thì bà sẽ điều trị như thế nào?”

“Tôi sẽ theo dõi thật cẩn thận. Có thể cho cô ấy nằm nghỉ trên giường. Tôi không biết liệu mình sẽ kê thuốc chống tăng huyết áp hay không. Có thể tôi sẽ làm thế.”

“Liệu bà có kiểm tra protein trong nước tiểu không?”

“Vâng, có chứ.”

“Dựa trên những hồ sơ đó, Sibyl có làm thế không?”

“Có vẻ như có.”

“Cám ơn bà. Có dấu hiệu nào trong hồ sơ bệnh án của Charlotte Bedford cho thấy cô ấy từng được chữa trị chứng cao huyết áp trước đây không?”

“Tôi không thấy.”

Stephen từ từ đi trở về phía bà ta. Tôi đã thấy ông làm điều này quá nhiều lần ngày hôm đó đến nỗi biết được rằng đó là một phần trong chiến thuật chọc tức và đe dọa: Ông đang sắp sửa xâm chiếm không gian cá nhân của vị bác sĩ giỏi, thực tế là chồm người vào trong bục nhân chứng.

“Tôi có đúng không khi nói có một ô trong mẫu đơn nói rằng ‘Tiền sử của Bệnh nhân?’” ông hỏi khi tiến lại gần.

“Vâng, có.”

“Và nó liệt kê một loạt những... bệnh tật?”

“Đúng vậy.”

“Cái gì đã được khoanh tròn trong ô đó?”

Vị bác sĩ nhìn vào mẫu đơn rồi đọc lên, “Nhiễm trùng bàng quang. Rubella.” Khi bà ngước lên, Stephen đã ở ngay bên cạnh bà, đứng ở góc chéo để bồi thẩm đoàn có thể nhìn thấy khuôn mặt của cả hai người.

“Vậy thôi ư?”

“Đúng vậy.”

“Những từ ‘huyết áp cao’ có được khoanh tròn không?”

“Không.”

Ông gật đầu và chuẩn bị cuộc tàn sát. Đương nhiên, đôi khi thợ săn cừ nhất cũng bắn hụt mục tiêu; đôi khi con sư tử bất ngờ tấn công và khiến cho ngay cả tay súng lạnh lùng nhất cũng phải bối rối. Đây chính là một khoảnh khắc như thế. Và dù Stephen sẽ yêu cầu gạch bỏ lời nhận xét của bác sĩ Gerson ra khỏi biên bản, dù thẩm phán sẽ đồng ý, thì bồi thẩm đoàn đã không bỏ sót điều xảy ra, còn tôi không nghĩ rằng họ lại có thể quên điều đó khi định đoạt số phận mẹ tôi.

“Không có dấu hiệu nào cho thấy Charlotte Bedford từng tiết lộ tiền sử bệnh cao huyết áp của mình với Sibyl, phải không, thưa bác sĩ?”

“Điểm cốt lõi, thưa ông luật sư,” người bác sĩ lên tiếng, nói nhanh nhưng bình tĩnh, giọng của bà nhẹ nhàng nhượng bộ, “chính là hồ sơ cho thấy người phụ nữ đáng thương ấy có triệu chứng của cả bệnh thiếu máu và cao huyết áp. Cả hai. Không một bác sĩ hoặc bà mụ biết suy nghĩ nào lại cho phép người phụ nữ ấy đẻ tại nhà.”

Chúng tôi mở máy sưởi khi lái xe về nhà vào tối thứ năm, tôi ngồi bó gối ở băng sau, áo khoác trùm kín người như tấm chăn. Máy sưởi trong xe mẹ vẫn có thể sưởi ấm chiếc xe, nhưng từ mùa đông trước, nó đã bắt đầu kêu lách cách, giống như một miếng giấy bị kẹt đâu đó trong lỗ thông.

Bố mẹ tôi nói chuyện với nhau rất ít, như vẫn thế suốt tuần đó. Tôi tưởng tượng họ mệt đến không nói nổi, mà nếu họ còn chút sức lực nào thì tôi cũng nghi họ chẳng biết nói gì. Thỉnh thoảng bố lại cố làm cho mẹ vui bằng cách bình phẩm về sự khéo léo của Stephen khi gây lúng túng cho một nhân chứng, hoặc dự đoán một lời cung khai bất lợi của một nhân chứng khác sẽ bị phủ nhận khi Stephen bắt đầu phần bào chữa.

Thông thường mẹ chỉ ậm ừ đồng tình và nhìn vào hàng cây trong ánh chiều chạng vạng.

Tuy nhiên, khi chúng tôi về đến nhà, đã có nhiều bình thủy tinh cắm hoa hồng đang đợi mẹ trên quầy bếp: một bó màu đỏ, một bó màu vàng, và một bó màu hồng. Bố tôi đã nhờ người giao hoa đến nhà hôm đó, và mỗi bình hoa có một tấm thiệp lớn cạnh bên do ông tự làm từ những tấm hình cũ chụp hai người, trên giấy thiết kế kiến trúc màu xanh, và những chiếc kẹp giấy tôi biết ông đã dùng trong những bài thuyết trình với các khách hàng tiềm năng. Những tấm thiệp rất đẹp, và mẹ tôi vô cùng cảm động.

Tối hôm đó khi bố mẹ đi ngang qua phòng tôi để về phòng, mẹ vẫn đang nói về những tấm thiệp và những đóa hoa, còn tôi nhận ra mình đang khoe khoang về bố trên điện thoại với Rollie, Sadie và Tom.

Sáng thứ sáu bắt đầu với lời cung khai của một người phụ nữ lúc đầu dự định nhờ mẹ tôi đỡ đẻ, nhưng cuối cùng đã đẻ mổ trong bệnh viện. Đó là một ca đẻ khó nhọc, vất vả, và cô ấy nói mẹ tôi đã bảo cô ấy rặn gần nửa ngày trời: mười giờ rưỡi đồng hồ rặn và nghỉ, rặn và nghỉ, trước khi mẹ tôi cuối cùng cũng - theo cách nói của người phụ nữ này - “cho phép” họ đến bệnh viện.

Sau đó đến lượt một người đàn ông quả quyết rằng mẹ tôi chưa bao giờ cảnh báo ông ta hoặc vợ ông ta là đẻ ở nhà thì rủi ro cao hơn đẻ trong bệnh viện. Theo ông này, vợ chồng ông ta sẽ không bao giờ đẻ con ở nhà nếu mẹ tôi thật thà hơn. Dù chính quyền bang không được phép hỏi ông ta kết quả ca đẻ như thế nào, nhưng bố mẹ và tôi phải ngồi nén giận suốt buổi cung khai của ông ta, vì biết rằng đứa trẻ đó là một trong số hiếm hoi em bé chết từ trong bụng mẹ khi mẹ tôi đỡ đẻ.

Và, khi giờ nghỉ trưa sắp đến, chính quyền bang cố nhét thêm một nhân chứng, một bác sĩ giải thích với chúng tôi thế nào là một cơn đau đẻ giai đoạn hai kéo dài, và những nguy cơ nó đem lại cho người mẹ. Bác sĩ đó là một nhà nghiên cứu làm việc ở trường Cao đẳng Sản phụ khoa Mỹ tại Washington, D.C., một tổ chức mà giờ đây tôi, trớ trêu thay, trở thành thành viên sau một thời gian trầy trật nỗ lực. Giống bác sĩ Gerson, ông ta xem việc đẻ tại nhà là một trò làm xiếc nguy hiểm: Ông ta chính là người mà trong một phút hồi tưởng hiếm hoi đã so sánh bệnh viện như ghế ngồi an toàn trong xe ô tô, rồi sau đó lẫn lộn một tai nạn giao thông với một thiết bị nhà bếp.

Nhưng rõ ràng bồi thẩm đoàn đã hiểu được quan điểm đó, và nghĩ rằng bác sĩ Geoffrey Lang là một người thông thái và có sức thuyết phục.

Trong một cuộc tranh luận dữ dội về quan điểm của mẹ tôi, ông ta đã cố gắng giải thích tại sao rặn quá lâu sẽ gây nguy hiểm cho sản phụ, đồng thời bồi thêm một lời bôi nhọ lên năng lực của mẹ tôi: “Hoàn toàn có thể hiểu tại sao một người được đào tạo hạn chế như một bà mụ lại nghĩ đến chứng phình động mạch não. Rõ ràng, đó không phải là điều đã xảy ra trong ca này, nhưng một người chỉ mới được học sơ đẳng về sản khoa thì có thể nghĩ đó là bệnh này.”

“Điều gì đã xảy ra?” Bill Tanner hỏi, và lần đầu tiên tôi nghe phát ra từ mà tôi đã thấy viết trên tường trong phòng làm việc của Stephen vào tháng trước. Thần kinh mê tẩu. Đó là một trong những từ và cụm từ viết bằng bút lông hiệu Magic Marker trên những từ giấy poster màu trắng khổ lớn mà tôi và Tom Corts đã nhìn thấy.

“Cô ấy - và đây là một thuật ngữ nói tắt mà một số bác sĩ tôi quen biết vẫn dùng khi giao tiếp - đã bị mê tẩu. Cô ấy bất tỉnh vì mê tẩu.” Sau đó, theo đúng thủ tục y khoa, ông ta bắt đầu đặt nền tảng cho lời cung khai mà chúng tôi sẽ nghe vào buổi chiều hôm đó từ chuyên gia pháp y.

“Anh dễ dãi với Farrell quá,” bố tôi nói với Stephen khi chúng tôi dùng bữa trưa trong giờ nghỉ giải lao. Farrell là ông bố đã nói rằng mẹ tôi không làm rõ những rủi ro trong việc đẻ tại nhà.

“Ông ta thật tình cũng không gây nhiều bất lợi lắm,” Stephen nói, rồi nhờ Peter Grinnell đưa một tờ khăn giấy từ hộp kim loại tựa vào tường nhà hàng.

“Ông ta nói cứ như Sibyl che giấu mọi chuyện,” bố nói tiếp.

Stephen chạm một góc khăn giấy vào lưỡi rồi chà tờ giấy ẩm lên một vết mực trên mu bàn tay. “Anh nghĩ thế ư?”

“Ừ, tôi nghĩ vậy đấy. Còn anh?”

Stephen nhìn lớp da trên tay rồi gấp tờ khăn giấy lại hai lần đến khi nó chỉ còn một phần tư. “Có vẻ như nó tồi tệ đối với anh hơn so với thực tế. Bồi thẩm đoàn không biết là vợ chồng ông ta đã có một kết cục xấu.”

Thức ăn trên đĩa của bố tôi, món phô mai nướng và xà lách trộn, trông y nguyên như lúc người phục vụ dọn bữa trưa cho chúng tôi. Bánh mì sandwich vẫn còn nguyên hai miếng hình tam giác phẳng lì, phết bơ nướng, còn khối xà lách trộn vẫn nguyên hình kem ốc quế.

“Còn lão bác sĩ đó thì sao?”

“Ông Lang à? Tôi nghĩ chúng ta đã làm khá tốt với ông này.”

Peter ra dấu cho người phục vụ đem hóa đơn đến bàn chúng tôi.

“Tôi ước gì chúng ta đã làm nhiều hơn.”

“Tôi đã đảm bảo để bồi thẩm đoàn hiểu rằng từng từ ông ta nói đều là phỏng đoán. Và tôi đảm bảo họ nhận ra ông ta chưa bao giờ nhìn thấy thi thể của người phụ nữ. Anh nói đi, anh còn muốn gì nữa?” Câu hỏi của Stephen không khó chịu, không có dấu hiệu gì của sự bực bội.

“Lão ta là tên khốn. Tôi ước gì chúng ta làm rõ được điều đó.”

Stephen gật đầu, để nỗi bức xúc của bố ập lên ông như con sóng. Khi thấy người phục vụ đặt hóa đơn lên bàn cạnh Peter, ông cho tay vào túi áo khoác complet để lấy ví.

“Vậy thì chúng ta sẽ hạ gục họ vào chiều nay,” ông nói, nghe giống như giáo viên huấn luyện môn chạy của tôi.

“Nhìn kìa,” mẹ tôi nói, giọng bà nghe uể oải một cách kì lạ trong lúc bà dán mắt ra hồ Memphremagog ngoài cửa sổ. “Có gì đó bằng phẳng đang nổi ngoài đó. Nhìn mấy con chim hải âu kìa.”

Cách bờ hồ khoảng một trăm mét, hàng chục con chim hải âu đang đứng trên mặt nước - không phải nổi hoặc ngoi ngóp như người ta thường hình dung, mà đứng trên đôi chân nhỏ bé duỗi ra trên những thanh gỗ trôi bập bềnh. Tất cả chúng tôi đều quay đầu qua, lúc đó tôi nhìn vào mắt mẹ, và có gì đó trong mắt bà cho thấy bà đã chẳng nghe thấy một lời nào mà bố và Stephen đã nói.