← Quay lại trang sách

- 18 -

Tôi nghi mình sẽ không bao giờ nói chuyện với Anne nữa, vì thế có lẽ tôi sẽ luôn thắc mắc: Cô ấy đã nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra khi nhấc điện thoại lên gọi cho B.P. Hewitt? Cô ấy có mong đợi một điều gì khác không? Hay cô ấy đã có điều mình muốn? trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth ANNE AUSTIN KHÔNG CÒN LÀM VIỆC với mẹ tôi từ lâu rồi, vì thế cô ta đã không trở thành một phần trong cuộc đời chúng tôi như những người học việc trước đó. Ví dụ như Heather Reed, tuy không đảm nhiệm vai trò của một người chị lớn, nhưng cô đã dành gần sáu năm ở gần cuộc sống chúng tôi - khám thai cho bệnh nhân trong căn phòng cạnh nhà bếp hết ngày này đến ngày khác, ăn tối ở nhà chúng tôi gần như mỗi tuần, những buổi tối trông chừng tôi khi bố mẹ phải cùng nhau đi đâu đó - và hầu như chuyện gì quan trọng tôi cũng chia sẻ với cô khi tôi còn học tiểu học. Heather dường như lúc nào cũng biết khi nào thì tôi đang cãi nhau với Rollie và Sadie, cô là một nguồn giúp đỡ đáng tin cậy với đống bài tập về nhà của tôi, và là một bờ vai vững chắc những khi có rắc rối. Nhưng tôi biết rất ít về Anne Austin khi Charlotte Bedford qua đời. Sau nhiều năm, tôi khó phân biệt được quan điểm của mình về cô ta sau cơn biến động với quan điểm của mình về cô ta trước đó, và rất khó để nhớ rằng tôi không phải lúc nào cũng căm ghét cô ta. Nhưng thực tế là, Anne chỉ là một phần trong cuộc đời chúng tôi trong mùa đông Charlotte chết; cô ta chỉ mới hỗ trợ mẹ tôi kể từ tháng mười hai năm ngoái. Cô đã ăn tối ở nhà tôi hai, ba lần, và thỉnh thoảng tôi lại thấy cô ta đến rồi đi vào những ngày mẹ tôi có bệnh nhân ghé qua khám bệnh. Tôi tin rằng cô ta để lại ấn tượng cho tôi là một người dễ thương nhưng rụt rè với mái tóc nâu cắt ngắn: mẫu phụ nữ tôi thỉnh thoảng gặp ở trường cao đẳng, sẵn sàng đổi một buổi tiệc tối thứ bảy lấy một buổi tối cắm đầu vào sách ở thư viện khoa học, nhưng vẫn không làm tốt bài thi. Sự đổi chác thường xuyên xảy ra đó xuất phát từ lý do nhút nhát hơn là động cơ ham học, và một bài thi hóa hữu cơ chỉ đơn thuần là cái cớ hợp lý để tránh tiếng nhạc ồn ào và những cậu trai hăng tiết vịt. Nhưng tôi không cho rằng khi mới gặp Anne, tôi nghĩ cô là người tự cao tự đại hoặc hợm hĩnh; tôi không cho rằng tôi nghĩ cô có ác ý với mẹ tôi. Ấn tượng đó lớn dần trong mùa hè và mùa thu, khi phiên tòa của mẹ cận kề, và tôi nghe người lớn thảo luận lần nữa về điều đã xảy ra trong đêm mười ba và sáng mười bốn. “Và đó là khi chị xé màng ối cho cô ấy,” Stephen nói với mẹ tôi trong một lần thảo luận, nhắc đến Charlotte, khi hai người ở một mình trong nhà bếp. “Đúng.” “Và Anne đã hỏi gì?” “Cô ấy chẳng hỏi gì cả.” “Nhưng cô ta đã nói gì đó...” “Cô ấy nói ‘Tôi không hiểu tại sao chị làm thế.’” “Và đó không phải là loại câu hỏi mà một người học việc có thể hỏi bà mụ của mình? Nó không phải là một... một phần của quá trình học hỏi sao?” “Không. Cô ấy cáu với tôi. Cô ấy nghĩ tôi đang can thiệp.” “Can thiệp?” “Can thiệp vào tiến trình tự nhiên.” “Đó có phải là lần đầu tiên cô ta nổi cáu với chị?” “Cô ấy không nổi cáu với tôi. Cô ấy chỉ thấy bực mình.” “Lần đầu tiên?” Mẹ tôi bật cười. “Chúa ơi, không!” “Cô ấy thường bực mình chị à?” “Anne đọc quá nhiều sách nhưng lại chứng kiến quá ít ca đẻ,” mẹ tôi nói, và dù tôi đang đứng nghe trên cầu thang ở phòng trước, tôi vẫn biết chắc bà đang trợn tròn mắt. Anne đến học việc mẹ tôi lúc cô hai mươi hai tuổi, và đến mùa đông năm đó cô vẫn chưa nhìn thấy một đứa trẻ nào nhú ra hoặc đỡ đẻ một đứa bé nào trong đời. Nhưng cô có trong đầu viễn cảnh về một ca đẻ hoàn hảo, và qua tiếp xúc ở các bữa ăn tối cùng chúng tôi, rõ ràng cô đã đọc rất nhiều về chủ đề này. Dưới sự dạy dỗ của mẹ tôi, cô ta đã học hành chăm chỉ, và mẹ tôi nghĩ cô là một người học việc tử tế, mặc cho sự khó chịu thường xuyên của Anne với điều mà cô cho là xu hướng thích can thiệp của mẹ tôi. Anne vô cùng khao khát trở thành bà mụ, và không có lý do gì để tin rằng mai này cô sẽ không thành công. Tuy nhiên, đến khi phiên tòa diễn ra, cô ta đã biến từ một bà mụ tương lai rụt rè bé bỏng thành một kẻ phản bội ngạo mạn với những tính cách gần như đóng kịch: làm ra vẻ ngoan đạo, tự cho mình là quan trọng, và - vì những lý do mà tôi không thể nghĩ ra - hả hê trước sự tan nát của gia đình tôi. Cô ta đã rời khỏi Vermont vào cuối tuần Charlotte chết, có vẻ như chỉ quay lại hai lần trước khi phiên tòa diễn ra: một lần để cung khai và một lần để thu dọn đồ đạc mà cô còn để lại trong căn phòng thuê từ một giáo sư cao đẳng ở Hardwick. Nhưng khi cô ta lần đầu tiên gọi cho B.P. Hewitt - bác sĩ dự bị của mẹ tôi - vào sáu tháng rưỡi trước, tôi không tin rằng cô ta ghét mẹ tôi. Tôi không tin cô ta ghét bà ngay cả sau khi B.P. cố gắng trấn an cô rằng điều cô chứng kiến không phải là một ca mổ lấy thai trên người sống. Khi cô ta nhấc điện thoại lên để gọi cho ông bác sĩ, tôi không muốn tin rằng cô thậm chí đã hiểu gói thuốc nổ mà cô chuẩn bị châm ngòi, chuỗi sự kiện mà cô sắp sửa tháo cũi - một tiến trình mà khi nghĩ lại mới thấy có thể không đem lại một kết cục tốt đẹp cho gia đình tôi. Nhưng như những gì tôi biết, ý định của cô thậm chí có thể đã rất tử tế, mong muốn của cô rất cao thượng: Một người phụ nữ đã chết, và phải làm điều gì đó. Tuy nhiên áp lực hẳn đã ngày càng lớn với Anne Austin vào buổi sáng hôm đó, và tôi sẽ không ngạc nhiên nếu đến tận ngày nay cô ta vẫn không thể lý giải tại sao mình làm thế. Có lẽ cô nghĩ rằng B.P. sẽ nói với mẹ tôi về cuộc gọi đầu tiên của cô ta, và điều đó sẽ chấm dứt quá trình học việc của cô. Nói gì thì nói, làm sao mẹ tôi có thể tin Anne lần nữa sau khi cô ta gọi điện cho bác sĩ dự bị của bà sau lưng bà chứ? Và thế là cô ta phải thuyết phục bản thân mình rằng cô đã đúng, mẹ tôi đã sai. Cô ta gọi cho Asa Bedford, hỏi xem ông ta đã nhìn thấy gì. Rồi sau đó, khi đã đề cập nỗi sợ của cô với chồng của người quá cố, nỗi sợ của cô được củng cố bằng những kí ức khủng khiếp của ông - những tia máu bắn lên từ người phụ nữ nằm trên giường - cô phải gọi cho luật sư bang. Cô phải làm thế. Có lẽ cô sợ rằng nếu cô không gọi thì vị mục sư sẽ gọi, và rồi chính cô sẽ bị truy tố tội đồng phạm. Dù gì thì cô ta cũng là người học việc của bà mụ này mà. Cô ta còn đi cùng Asa để lấy con dao nữa. Không, tôi thực tình không tin rằng Anne Austin ghét mẹ tôi khi bắt đầu các cuộc điện thoại vào buổi sáng tháng ba cay đắng đó. Nhưng tôi thực tình tin rằng cô bắt đầu ghét mẹ tôi khi mùa hè trôi qua; tôi thực tình tin rằng cô đã học cách ghét mẹ tôi. Cô ta phải làm thế; sức khỏe tinh thần của cô đòi hỏi điều đó. Cô ta còn cách nào khác để bào chữa cho nỗi đau mà cô ta gây ra cho mẹ tôi và cho gia đình tôi? Cô ta còn cách nào khác để sống thật với bản thân mình? Đến khi phiên tòa bắt đầu, tôi đã khá chắc chắn rằng trong suy nghĩ của Anne, mẹ tôi là một bà mụ cẩu thả và nguy hiểm, đáng nhận lấy sự trừng phạt trước mắt. Tôi có thể nhận thấy điều đó khi cô ta vừa đến tòa vào chiều thứ sáu, chỉ ngay sau khi tất cả chúng tôi đứng dậy để chào bồi thẩm đoàn và thẩm phán rồi an tọa. Cô ta tiến về bục nhân chứng, cẩn thận nhìn thẳng về phía trước, nhưng tôi vẫn thấy được sự căm ghét cô ta dành cho chúng tôi rực lên trong đôi mắt đen tròn của cô, và cách cô ta chĩa cằm về phía chúng tôi. Cô ta và mẹ tôi chưa nói chuyện với nhau kể từ khi họ rời bệnh viện ở Newport vào buổi sáng thứ sáu trong tháng ba; họ đã không nói một lời nào với nhau. Tôi quan sát mẹ nhìn Anne khi cô ta được một nhân viên tòa án hướng dẫn đi băng qua trước phòng xử án và đọc lời tuyên thệ, và có vẻ như mẹ tôi đang lần đầu tiên nhìn thấy một người chị em sinh đôi mà bà không biết là có tồn tại, hay một con thú lạ và đáng sợ trong sở thú - loại sinh vật có thể khiến người ta bỏ chạy hoặc co rúm người lại nếu không có những song chắn bằng thép. Mẹ tôi chậm rãi xoay ghế để có thể nhìn trực diện Anne, và đó là một trong số hiếm hoi lần trong phiên tòa tôi thực sự thấy bà thì thầm với Peter và Stephen khi cơn choáng váng vì nhìn thấy Anne cuối cùng cũng đi qua. Mẹ tôi trông có vẻ lúng túng hơn là giận dữ. Thỉnh thoảng bà khẽ lắc đầu, một cử chỉ nhỏ như để hỏi Anne: Tại sao cô làm chuyện này với tôi? Giọng nói của Anne mang một chút âm giọng Boston mà tôi không còn nhớ kể từ mùa đông, và nó khiến cô ta có vẻ mạnh mẽ hơn, uy quyền hơn. Cô ta nhỏ bé và trông có vẻ mệt mỏi, nhưng cô gái này - chỉ lớn hơn tôi tám tuổi - ngồi thẳng lưng và nói năng mạch lạc, kể với bồi thẩm đoàn bằng giọng chừng mực về những điều khủng khiếp mà cô đã chứng kiến, và mẹ tôi đã dùng một con dao bếp để mổ phanh bụng của một người sống ở Lawson như thế nào. Chính trong buổi cung khai của Anne, bồi thẩm đoàn bắt đầu cảm thấy khó chịu, và bắt đầu liếc mắt nhìn mẹ tôi. Dù Anne cung khai vào buổi chiều khi phiên tòa đã diễn ra được năm ngày, tức là vào thứ sáu đầu tiên của phiên tòa, và dù bồi thẩm đoàn biết rõ tổng quát điều gì đã xảy ra trong phòng ngủ nhà Bedford, nhưng họ vẫn chưa nghe lời kể từ một nhân chứng. Và khi Anne trả lời hết câu hỏi này đến câu hỏi khác của Bill Tanner, tôi nghĩ Charlotte Bedford lần đầu tiên trở nên có thật trong đầu một số bồi thẩm viên. Không cần nghi ngờ gì nữa, đó là kế hoạch của Tanner. Tất cả những cá nhân mà chính quyền bang đặt ở bục đến nay chỉ đơn thuần là màn khởi động cho ba người cuối cùng, một bộ ba nhân chứng nặng kí, về mặt lý thuyết có thể niêm phong số phận của mẹ tôi. Anne Austin và chuyên gia pháp y vào chiều thứ sáu. Mục sư Asa Bedford vào sáng thứ hai. Ngay cả khi mới mười bốn tuổi, tôi đã hiểu ngay logic của trình tự này: Nhân chứng đầu tiên, người đã gây ra phần kiện tụng của thiên tiểu thuyết này, kể lại cơn ác mộng mà cô đã chứng kiến. Nhân chứng thứ hai, một chuyên gia có uy tín cao, giải thích nguyên nhân chính xác dẫn đến tử vong. Và nhân chứng thứ ba, người đã mất mát nhiều nhất, có vai trò như chiếc mỏ neo giữa mớ hỗn loạn. Điều tôi không nhận ra cho đến cuối ngày thứ sáu hôm đó (và có thể không nhận ra nhiều năm sau đó nếu Patty Dunlevy không giải thích với tôi) chính là sự tinh tế trong thứ tự của Tanner. Nhân chứng cuối cùng bồi thẩm đoàn sẽ nghe trước cuối tuần - hai ngày dài họ sẽ dùng để nghiền ngẫm lại tất cả những gì đã thấy và nghe trong tuần đầu tiên - sẽ là chuyên gia pháp y trình bày phiên bản của chính quyền về nguyên nhân cái chết. Sau đó, nếu chính quyền có lo sợ rằng vụ kiện của họ đã mất động lực trong những ngày cuối tuần, thì họ biết rằng vào sáng thứ hai, họ còn người đàn ông góa vợ, một mục sư đau buồn nhưng lưu loát, một người rất chi quen thuộc với việc nói chuyện trước công chúng. Đến khi Stephen có cơ hội đối chất Anne, hầu hết bồi thẩm viên đã có trong đầu hình ảnh về Sibyl Danforth như một bà mụ cẩu thả đáng báo động, một người đàn bà vì bất cẩn mà cuối cùng đã tước đi mạng sống của một người mẹ. Không những thế, khi họ hình dung về mẹ tôi vào buổi sáng Charlotte Bedford qua đời, hẳn họ đã hình dung bà như một người điên: một bà mụ trở nên kích động và bấn loạn tinh thần, một người đàn bà mất trí tạm thời và đột nhiên có khả năng mổ phanh thây một phụ nữ còn sống trong những giai đoạn chuyển dạ cuối cùng. (Liệu mọi việc có kết thúc khác đi nếu mẹ tôi dùng sự mất trí làm lời bào chữa không? Chúng có thể khác với tôi, nhưng về lâu dài, kết quả sẽ không khác là bao đối với mẹ tôi. Và dù khi ấy tôi chưa biết rằng Stephen đã từng đề cập đến ý tưởng dùng sự mất trí tạm thời làm lời bào chữa, nhưng lúc đó mẹ tôi vẫn tin bà sẽ lại được hành nghề khi phiên tòa kết thúc, và lập tức bác cuộc thảo luận đó. Bà nói với Stephen rằng không một ai muốn một bà mụ dễ phát điên khi gặp sức ép.) Giống như mẹ tôi, Anne ra tòa trong trang phục kín đáo, không có gì nổi bật: áo sơ mi kiểu màu trắng, áo khoác mỏng, váy màu xám. Không sơ mi chuyên dụng của bà mụ tương lai; không váy rộng thùng thình với túi to. Trông cô ta như một giao dịch viên ngân hàng trẻ tuổi đến từ Burlington. Trong suốt buổi cung khai, cô ta tránh nhìn mẹ tôi, và tôi để ý thấy khi Stephen đứng dậy để bắt đầu phần đối chất, ông vẫn đứng tại bàn để Anne ít nhất cũng phải nhìn về hướng mẹ tôi. “Trước khi đỡ đẻ Veil Bedford, cô chỉ mới chứng kiến chín ca đẻ, đúng không?” ông hỏi. “Đúng.” “Và không có ca nào rơi vào tình huống khẩn cấp, đúng không?” “Đúng vậy.” “Ca của Veil Bedford là ca đầu tiên, đúng không?” “Đúng.” “Trước ngày mười bốn tháng ba, cô có bao giờ gặp phải một tình huống khẩn cấp không?” “Như là gì?” Stephen đi ra phía sau ghế của mẹ tôi để Anne nhìn bà. Thoạt đầu cô ta quay về phía hồ nước và nhìn những đám mây trắng bồng bềnh trôi về Canada. “Một tai nạn giao thông chẳng hạn. Cô có bao giờ có mặt trong một tai nạn giao thông mà có người bị thương nặng chưa? Hoặc là chứng kiến một vụ?” “Chưa.” “Tai nạn máy bay?” “Dĩ nhiên là chưa.” Stephen nhún vai. “Tai nạn tàu hỏa? Một người bị đau tim? Em bé rơi vào hồ nước?” “Không, tôi chưa thấy những chuyện như thế.” “Chưa bao giờ?” “Chưa bao giờ.” “Và cô chưa bao giờ có mặt cùng một nhân viên cấp cứu y tế hoặc tình nguyện viên đội cứu hộ trong một tình huống nguy cấp sinh tử, đúng không?” “Chưa.” “Charlotte Bedford là người đầu tiên, đúng không?” “Đúng vậy.” “Và cô chưa bao giờ chứng kiến một ca phẫu thuật nào cả, đúng không?” “Phẫu thuật như trong bệnh viện à?” “Đúng. Như trong bệnh viện ấy.” “Chưa.” “Cô có được đào tạo y khoa chính thống không?” “Ý ông là giống như ở trường cao đẳng ấy hả?” “Vâng. Chính xác là thế.” “Chưa, nhưng tôi đang dự định...” “Cám ơn, cô Austin. Cô chưa bao giờ tham gia một khóa huấn luyện sơ cấp cứu có cấp chứng chỉ, đúng không?” “Đúng.” “Và cô không biết hô hấp nhân tạo, đúng không?” “Tôi biết một chút. Vài ngày sau khi Charlotte chết, tôi đã định bắt đầu...” “Cô có được đào tạo và cấp chứng chỉ một cách chính thức để thực hiện hô hấp nhân tạo không?” “Không.” Stephen giơ một cánh tay lên và tôi đã thoáng nghĩ ông sẽ đặt nhẹ bàn tay lên vai mẹ tôi, nhưng ông không làm vậy. Thay vào đó ông chỉ đưa tay vào trong áo khoác để lấy ra một cây bút. “Charlotte Bedford có phải là người chết đầu tiên cô nhìn thấy không?” ông hỏi, và lần đầu tiên trong buổi chiều hôm đó ông lên giọng một bậc và tỏ vẻ sẵn sàng cho một trong những cuộc đối đầu mà ông có vẻ thích thú. “Đúng.” “Khi cô nhìn thấy máu từ nỗ lực của bà Sibyl để cứu đứa bé, đó có phải là lần đầu tiên cô nhìn thấy một cơ thể bị mổ ra không?” “Tôi đã nhìn thấy tranh ảnh trong sách giáo khoa.” “Làm ơn đi, cô Austin, tôi đâu có hỏi cô nhìn thấy cơ thể người trong sách hay chưa. Đó có phải là lần đầu tiên cô nhìn thấy một cơ thể bị mổ ra không?” “Tôi đoán là vậy.” “Đúng hay không?” “Đúng.” “Cám ơn cô.” Stephen cầm cây bút lên và bắt đầu gõ nhẹ nó lên bàn một lúc, có lẽ để làm cho Anne nhìn về phía ông. “Vậy trước buổi sáng sớm ngày mười bốn tháng ba, cô chưa bao giờ nhìn thấy lượng máu có thể hoặc không thể chảy ra trong tình huống như thế. Đúng không?” “Đúng.” “Cô chưa bao giờ nhìn thấy máu bắn ra từ một người sống hoặc một người chết?” “Chưa.” “Trong trường hợp đó, cô dựa vào đâu mà đi đến kết luận bừa bãi rằng máu cô nhìn thấy vào lúc đó là từ một người sống?” “Là do cách nó bắn ra.” Ông lắc đầu. “Tôi không hỏi cô rằng cô nghĩ mình đã thấy cái gì. Tôi đang hỏi cô rằng cô dựa vào đâu để đi đến kết luận rằng dựa trên việc chảy máu, Charlotte Bedford vẫn còn sống?” “Ông không nhìn thấy đó thôi. Nếu ông có ở...” “Thưa quý tòa, xin hãy hướng dẫn nhân chứng trả lời câu hỏi,” Stephen đột ngột nói. Thẩm phán Dorset chỉ nhìn xuống Anne và nói, “Cô Austin, cô hãy trả lời câu hỏi.” “Nhưng nếu bất kì ai trong số...” “Cô Austin,” thẩm phán nói tiếp, và xem ra ông cũng cảm thấy khó chịu không kém Stephen, “hãy trả lời các câu hỏi. Ông Hastings, xin vui lòng tiếp tục.” “Phần nào trong kiến thức đào tạo của cô khiến cô nghĩ rằng máu cô nhìn thấy là từ một người sống?” Stephen hỏi, và ông tiếp tục chậm rãi gõ đầu bút xuống mặt bàn. Cô ta khoanh tay trước ngực. “Tôi không nhớ.” “Đó có phải vì cô không có - tuyệt đối không có kiến thức đào tạo y tế?” “Có lẽ vậy.” “Tôi có đúng không khi nói rằng mọi phỏng đoán của cô về máu đều hoàn toàn không dựa trên kinh nghiệm nào - không hề có kinh nghiệm từ bản thân, hoặc chứng kiến, hoặc nghe kể lại?” Cuối cùng cô ta cũng nhìn về phía Stephen và khi nhìn thấy mẹ tôi, cô ta nhắm tịt mắt để không khóc, nhưng nước mắt đã trào lên. Cô hít vào một ít, nhưng câu trả lời của cô vẫn kèm tiếng sụt sịt. Như thể Stephen chưa hỏi cô câu nào, như thể ông thậm chí không hiện diện, cô bất thình lình khóc nức nở khi nhìn thấy mẹ tôi, “Chúa ơi, Sibyl, tôi xin lỗi, tôi xin lỗi, nhưng tôi phải làm thế, tôi phải gọi điện thoại! Chị đã giết cô ấy...” Stephen cố cắt ngang lời cô ta. Ông yêu cầu câu nói đó bị gạch khỏi biên bản, và thẩm phán Dorset nện búa xuống bàn ông mạnh hơn gấp nghìn lần so với cách Stephen gõ bút lên bàn trước đó, nhưng trước khi suy sụp và khiến tòa phải nghỉ giải lao, Anne cố gắng khóc lóc lần nữa, “Tôi xin lỗi, Sibyl, tôi thật sự xin lỗi! Tôi biết chị không cố ý, nhưng cả hai ta đều biết chị đã giết cô ấy!” Mẹ nhấp một ngụm nước từ chiếc cốc giấy trong một phòng họp nhỏ không có cửa sổ trong giờ giải lao, còn bố thì nắm tay bà. Trông bà có vẻ nhợt nhạt hơn so với trước khi cơn bộc phát của Anne xảy ra, thỉnh thoảng bà ấn rìa cốc vào môi dưới. “Cô ta đúng là một mụ phù thủy nhỏ, phải không nào?” Peter lầm bầm, tôi nghĩ ông độc thoại hơn là đối thoại. “Không,” mẹ đáp, “thực sự là không.” “Như thế thì rộng lượng quá đấy, Sibyl ạ. Ở đây toàn là người nhà và bạn bè; chị đâu cần làm ra vẻ cao thượng,” Stephen nói với bà, trông ông có vẻ bực bội không kém gì lúc thẩm phán yêu cầu giải lao mười lăm phút trước. “Tôi đâu có. Anne chỉ... cô ấy còn trẻ, và đã lún quá sâu vào chuyện này.” “Chà, nếu vậy thì,” Stephen nói, “cô ta sắp chìm rồi. Sẽ nhanh chóng êm ái thôi, nhưng chúng ta sắp nhận chìm cô ta lần thứ ba.” “Cô Austin, cô sẽ chỉ tập trung vào câu hỏi mà ông Hastings đưa ra, còn ông Hastings, ông sẽ cho phép cô ấy trả lời đầy đủ từng câu. Như thế có rõ chưa ạ?” Thẩm phán Dorset hỏi khi chúng tôi trở lại. Stephen gật đầu, di chuyển ra ngoài từ phía sau bàn của mình và bắt đầu đi đi lại lại trong phòng như đã làm với hầu hết các nhân chứng khác. Ông yêu cầu báo cáo viên tòa án đọc lại câu hỏi cuối cùng mà ông đã hỏi, câu hỏi về kinh nghiệm bản thân, hoặc chứng kiến, hoặc nghe kể lại. “Đúng vậy,” Anne đáp. Mắt cô ta đỏ hoe vì khóc, và lời lẽ cô ta đã không còn sự đĩnh đạc vốn có. “Ấy vậy mà khi Sibyl rạch vết đầu tiên, cô đã kết luận rằng Charlotte Bedford còn sống.” “Khi tôi nhìn thấy máu, đúng.” “Cơ thể có biểu hiện bất kì dấu hiệu nào khác của sự sống vào lúc vết rạch được thực hiện không - hoặc là sau đó, nếu có?” “Ví dụ như là gì?” Stephen nhún vai. “Người phụ nữ đó có khóc lớn vì đau không?” “Không, cô ấy bất tỉnh rồi.” “Cơ thể cô ấy có... rung lên không?” “Tôi không thấy nó rung lên.” “Cô không thấy nó rung lên?” “Không.” “Nó không hề nhúc nhích, có đúng không?” “Tôi không thấy nó nhúc nhích.” “Vậy có phải dấu hiệu duy nhất mà cô có thể chứng tỏ người phụ nữ còn sống là máu không?” “Đúng.” “Nhưng chừng ấy cũng đủ để khiến cô hoảng sợ rồi?” “Đúng vậy.” “Vậy cô đã làm gì khi cô hoảng sợ? Cô có cố gắng ngăn cản Sibyl không?” “Không.” “Cô có nói với bà ấy, ‘Đừng làm vậy, Sibyl, cô ấy còn sống’ không?” “Không.” “Cô có cố gắng đoạt lấy con dao từ tay Sibyl và...” “Phản đối. Câu hỏi mang tính quấy rầy nhân chứng,” Tanner nói. “Phản đối vô hiệu.” “Cô có cố gắng đoạt lấy con dao từ tay Sibyl không?” “Không.” Stephen gật đầu, đi hết chiều dài bồi thẩm đài. “Vậy là dù sau đó cô nghĩ rằng Charlotte Bedford còn sống trước khi bị rạch, nhưng cô lại chẳng hề làm gì để cố gắng cứu mạng người phụ nữ ấy. Cô có ít nhất cũng chia sẻ nỗi sợ của mình với người cha khi hai người còn ở trong phòng không?” “Không, lúc đó thì không.” “Cô đã cung khai khi nãy rằng cô ngạc nhiên khi Sibyl không kiểm tra nhịp tim thai nhi. Cô có đề xuất với bà mụ này rằng bà ta nên làm thế không?” “Không.” “Vậy tôi có đúng không khi nói rằng dù sau khi sự việc xảy ra, cô nói rằng Charlotte Bedford đã chết sau khi bị rạch, nhưng cô vẫn không hề làm gì vào lúc đó để cố gắng ngăn chặn ca phẫu thuật?” “Tôi chỉ không biết phải...” “Cô Austin...” “Tôi chỉ không...” “Thưa quý tòa...” Thẩm phán Dorset gõ búa trên chiếc bàn gỗ sậm màu trước mặt và rồi làm tôi ngạc nhiên - có lẽ là làm tất cả chúng tôi ngạc nhiên - khi ném cho cô gái trẻ chiếc phao cứu hộ, nhờ đó giúp cô tránh bị dồn vào chân tường lần cuối. “Luật sư,” ông nhắc Stephen, “tôi đã yêu cầu anh cho phép nhân chứng có thời gian trả lời đầy đủ mỗi câu hỏi. Hãy nói đi, cô Austin.” Cô ta hít một hơi sâu và lấy khăn giấy chậm mắt. Cuối cùng, bằng giọng khẽ run rẩy, cô nói, “Lúc đó tôi chỉ không đủ tự tin để ngăn chị ta lại, tôi chỉ không đủ hiểu biết. Như ông nói, tôi chưa bao giờ trải qua một việc như thế trước đây. Nhưng tôi đã nhìn thấy máu bơm ra hết lần này đến lần khác và tôi biết có gì đó không ổn, và chỉ vài giờ sau đó tôi đã quyết định rằng tôi có... có trách nhiệm đạo đức phải nói với ai đó về những gì tôi đã thấy. Tôi không muốn đâu, tôi thực sự không muốn. Nhưng tôi phải làm thế. Vấn đề là ở đó: Tôi phải làm thế.” Có lẽ vì cuộc gọi mà tôi đã nghe trộm vào một đêm giữa mẹ tôi và Stephen - một cuộc nói chuyện mà tôi cảm thấy có quá nhiều lời nói bóng gió chớt nhả - mà tôi đã quyết định ở nhà khi ông ta ghé qua nhà chúng tôi vào một buổi chiều trong tuần lễ trước khi phiên tòa bắt đầu. Tôi lượn lờ trong nhà bếp, giả vờ làm bài tập trong khi họ gặp nhau trong phòng làm việc của bà. Khi ông ta đi rồi, lúc mẹ tiễn ông ra xe, tôi đến một cửa sổ đang mở để nhìn họ qua lớp kính. Họ tưởng tôi đang ở trong nhà bếp. Tuy nhiên, thay vì đi về phía chiếc xe, họ lại đi lững thững vào vườn hoa của mẹ, dừng lại đâu đó giữa những cây hướng dương - vào ngày hôm đó của tháng chín, chúng cao hơn họ rất nhiều, nhưng đã sắp chết - ở một điểm mà tôi không thấy được. Vì thế tôi quay trở lại nhà bếp rồi sau đó đi ra vườn sau nhà thông qua cửa kính trượt. Dựa lưng vào bức tường bên hông nhà, tôi vẫn không nhìn thấy họ, nhưng tôi nghe được loáng thoáng cuộc nói chuyện của họ. Tôi không biết Stephen có thực sự định hôn mẹ tôi trước khi tôi đi ra hay không: Trong suy nghĩ của tôi, tôi có thể nhìn thấy ông nắm tay bà giống như cách ông đã từng nắm một lần ở cạnh chiếc xe của ông, và đặt môi lên môi bà. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy ông làm điều đó. Dù sao đi nữa, tôi vẫn luôn hiểu tại sao luật sư tin vào suy luận logic, ý nghĩ rằng người ta không cần nghe hoặc thấy trời mưa vào buổi tối để biết vào sáng hôm sau rằng trời đã mưa nếu xe cộ, mặt đất và cây cối đều ướt. Vì thế tôi tin rằng Stephen có thể đã tìm cách hôn mẹ tôi bởi tôi nghe mẹ nói với ông, “Không, không phải chỉ vì địa điểm. Là vì mọi thứ. Nếu tôi phát ra những tín hiệu đó với anh thì tôi xin lỗi. Tôi thật sự, thật tình xin lỗi.” Trước khi tôi trở thành bác sĩ, tôi không thể tưởng tượng tại sao lại có người muốn làm chuyên gia pháp y. Tôi nghĩ rằng bất kì ai sẵn sàng dành ngần ấy thời gian cạnh các xác chết hẳn phải cực kì đam mê về cái chết hoặc ít ra cũng chưa bao giờ từ bỏ sở thích của một đứa bé trai chín tuổi dành cho ma cà rồng, xác ướp và kẻ đào mả. Chỉ đến khi tôi học trường y, niềm đam mê đối với công việc ấy mới trở nên rõ ràng với tôi, và lý do vì sao quá nhiều người tuyệt đối bình thường - ít nhất là ở bề ngoài - lại chọn nó làm sự nghiệp. Nó giống như làm thám tử tư vậy. Và khi bạn đã vượt qua được xác chết đầu tiên thì mô người không còn khiến bạn sợ hãi nữa, còn nội tạng xương xẩu thì trở thành chuyện thường ngày ở huyện. Tuy nhiên, vào năm mười bốn tuổi, tôi tưởng tượng một chuyên gia pháp y phải là người cực kì bệnh hoạn. Vì thế tôi hoàn toàn bất ngờ khi chuyên gia pháp y của bang Vermont được chấp hành viên tòa án đưa vào giữa hai hàng ghế chật kín người trong phòng xử án vào chiều thứ sáu, và dẫn đến bục nhân chứng. Terry Tierney trông như bất kì ông bố nào mà tôi biết ở Reddington, làm huấn luyện viên cho đội bóng chày Little League vào mùa xuân và đội bóng bầu dục Pop Warner vào mùa thu: nhiệt tình nhưng nhẫn nại trong công việc, và có ngoại hình đặc biệt nổi trội. Ông ta lớn hơn bố mẹ tôi một chục tuổi, có hàm râu màu đen đang bạc và đeo kính rất giống Stephen. Ông ta mỉm cười khi Bill Tanner cất tiếng chào, và - với sự gợi ý của Tanner - trình bày với bồi thẩm đoàn bảng liệt kê dài dằng dặc những bằng cấp và thành tựu của mình. Hai người ấy thân thiết đến độ tôi đã đôi lần chờ nghe họ bắt đầu thảo luận về chuyến đi săn hưu vào cuối mùa thu năm đó. Tuy vậy, khi cuối cùng họ cũng nói đến cảnh tượng chờ đón Tierney khi ông ta bước vào phòng ngủ của nhà Bedford hồi tháng ba, mọi thứ thay đổi, và Tierney trở nên nghiêm túc. Ông mô tả cách mẹ tôi khâu vết mổ ngoài do bà rạch ra rồi sau đó kéo áo ngủ của Charlotte xuống che người lại. “Bà Danforth có nói với ông rằng Charlotte Bedford đã chết không?” Bill Tanner hỏi. “Bà ấy nói người phụ nữ đó bị đột quỵ.” “Ông nghĩ sao?” “Tôi nghĩ chuyện đó là có thể. Trong sinh đẻ tại nhà thì chuyện gì cũng có thể xảy ra.” “Phản đối!” Stephen nói, đứng phắt dậy từ ghế ngồi, và thẩm phán đồng ý. “Ông tiến hành giải phẫu tử thi lúc nào?” Tanner tiếp tục, tựa như không hề có sự gián đoạn. “Cuối buổi sáng hôm đó.” “Ông có tìm thấy dấu hiệu gì cho thấy người phụ nữ ấy bị đột quỵ không?” “Không.” “Nếu Charlotte Bedford bị đột quỵ, thì ông có thể kết luận được điều đó từ một ca giải phẫu tử thi không?” “Chắc chắn là được.” “Tại sao?” Bác sĩ Tierney thở dài và suy nghĩ một chút. Ngẫm lại, tôi tin rằng ông ta chỉ dừng lại để nghĩ cách trả lời sao cho có thể diễn tả những chi tiết giải phẫu người chết mà không làm bồi thẩm đoàn cảm thấy ghê rợn. Nhưng vào lúc đó, tôi nghĩ ông do dự vì cảm thấy buồn. “Khi tôi kiểm tra não, tôi sẽ tìm thấy những thay đổi quan trọng. Tôi sẽ thấy tình trạng xuất huyết. Mô sẽ bị mềm; nó sẽ trở nên xốp.” “Và ông không thấy bất kì dấu hiệu nào vừa kể - không xuất huyết, không mềm đi - khi ông kiểm tra não của Charlotte Bedford?” “Không, tôi không thấy gì cả.” Tanner quay trở lại bàn của mình, trợ lý luật sư đưa cho lão một bản mà tôi nghĩ là những ghi chú của lão. “Ông có kiểm tra vùng bụng của Charlotte Bedford không?” “Có.” “Bắt đầu với vết mổ?” “Đúng vậy.” “Kể cả các cơ quan sinh sản của cô ấy?” “Dĩ nhiên.” “Ông nói bà Danforth đã khâu chỗ da mà bà ta mổ Charlotte lại. Bà ta có khâu các cơ quan nội tạng không?” “Không.” “Bà ta không khâu tử cung lại?” “Không.” “Tại sao không?” “Phản đối,” Stephen nói. “Câu hỏi mang tính suy đoán.” “Phản đối được chấp nhận.” “Vậy là ông thấy tử cung không được khâu lại,” Tanner tiếp tục. “Đúng, nó không được khâu lại.” “Ông có biết đứa bé nằm ở đâu trong đường sinh khi bà Danforth kéo nó ra từ người mẹ không?” “Không.” “Ông có biết liệu đứa bé đã di chuyển xuống trong suốt thời gian bà Danforth bắt Charlotte rặn hay không?” “Phản đối, không ai bắt ai làm gì cả.” “Phản đối được chấp nhận.” Tanner cười lấy lòng với bồi thẩm đoàn, một nụ cười có vẻ ranh mãnh hơn là cầu tài. “Ông có biết liệu đứa bé đã di chuyển xuống trong suốt thời gian Charlotte rặn hay không?” “Không, tôi không biết.” “Ông có biết liệu đã xảy ra hiện tượng nhau bong non hay không?” “Vâng, chắc chắn rồi. Có những vùng xuất huyết.” “Đó có phải là nguyên nhân cái chết?” “Không. Như thường gặp ở tình trạng này, nó đã đông lại. Bắt đầu tự lành lại.” “Đó có phải là một yếu tố trong cái chết của Charlotte Bedford không?” “Nó sẽ là một yếu tố gián tiếp.” Tanner liếc nhìn ghi chép của mình và trở nên im lặng. Cuối cùng: “Nghĩa là sao?” “Người phụ nữ đã mất một lượng máu trong quá trình đó. Căn cứ trên việc mổ lấy thai được thực hiện vài giờ sau đó, không thể đo được là bao nhiêu. Nhưng đó có thể là một lượng đáng kể.” “Tức là?” “Cơ thể cô ấy yếu hơn. Cô ấy không còn khỏe như trước.” “Tại sao điều đó quan trọng?” “Như bà mẹ nào cũng biết, sinh đẻ là một quá trình rất vất vả. Cực kì vất vả. Người phụ nữ cần tất cả sức lực có thể huy động được, đặc biệt là nếu có gì... có gì đó bất thường xảy ra.” “Có điều gì bất thường xảy ra trong ca này không?” “Tôi cho rằng ý ông là ngoài chuyện người phụ nữ đáng thương ấy thiệt mạng.” “Đúng.” “Vậy thì có, rõ ràng có chuyện bất thường xảy ra.” “Dựa trên cuộc giải phẫu tử thi mà ông tiến hành, và toàn bộ công việc trong phòng thí nghiệm sau đó, ông nghĩ chuyện đó là chuyện gì?” Như thể đang kể lại một sự kiện bình thường như một chuyến lái xe về nhà trên đường trơn trượt trong cơn bão tuyết - nguy hiểm, có thể, nhưng là một nỗ lực mà mọi người trong phòng xử án đó đều đã chịu đựng và có thể thảo luận thoải mái tại bàn ăn tối - ông ta đáp, “À, dù không có bằng chứng y học nào cho thấy có đột quỵ, nhưng có nhân chứng nhìn thấy triệu chứng mà ai không phải là bác sĩ sẽ lầm tưởng đó là đột quỵ. Người phụ nữ co giật hoặc rung lên, rồi sau đó bất tỉnh. Người bố nhìn thấy, cô gái trẻ - người học việc - nhìn thấy, và dĩ nhiên bà Danforth nhìn thấy. Nhưng tôi không cho rằng chứng phình mạch là nguyên nhân gây co giật.” “Ông có ý kiến gì về nguyên nhân của nó không?” “Có.” “Xin ông cho biết đó là gì?” “Nói theo cách của bác sĩ Lang, tôi nghĩ người phụ nữ ấy bị ‘mê tẩu’.” “Xin ông nói rõ hơn?” “Ở đây, ngay chỗ phía sau đầu của chúng ta,” Tierney nói, chỉ vào một điểm trên đầu ông ta, “có một cặp dây thần kinh sọ cấu tạo bằng những sợi vận động và sợi cảm giác. Đó là những dây thần kinh mê tẩu. Chúng điều khiển một loạt cơ quan và cơ bắp - chẳng hạn như thanh quản và nhiều cơ quan nội tạng vùng ngực và vùng bụng.” “Điều đó theo cách nói của người bình thường có ý nghĩa gì?” Tierney nở một nụ cười dè dặt với bồi thẩm đoàn. “Chúng giúp não và tim trao đổi thông tin. Chúng giúp não truyền thông tin đến tim nên đập nhanh hay chậm. Giống như mọi cơ quan khác trong cơ thể, não cần oxy. Và oxy được máu đưa đến não - máu dĩ nhiên được bơm bằng tim. Nếu não không nhận đủ oxy - nếu nó gặp chứng mà chúng tôi gọi là sự giảm oxy huyết - thì nó không hoạt động bình thường được. Hoặc ngừng hẳn. Rõ ràng, có rất nhiều thứ có thể khiến não bị thiếu oxy, trong đó có cả thủ thuật y tế được lên kế hoạch trước như gây mê tổng quát chẳng hạn. Nhưng một nguyên nhân khác có thể là sinh đẻ, và cách rặn của sản phụ. Bạn hít vào rất sâu, cố gắng rất nhiều, và rồi thở ra lập tức. Và bạn làm việc này trong nhiều giờ. Đột nhiên, khi bạn còn chưa nhận ra, thì não của bạn đã bị thiếu oxy.” “Điều này có nguy hiểm không?” “Chắc chắn là có. Nếu bạn căng thẳng quá và trở nên thiếu oxy não, thì tim có thể đập chậm lại hoặc thậm chí ngừng đập. Nó là một dạng phản xạ do dây thần kinh mê tẩu điều khiển. Tim bạn ngừng đập và bạn bất tỉnh. Như một số bác sĩ nói, bạn bất tỉnh vì mê tẩu.” “Có thể chết không?” “Ồ, có, sự thực là người ta có thể chết. Nhưng phụ nữ đang đẻ thì hầu như không bao giờ chết, vì một y tá trong phòng đẻ hoặc một bác sĩ sản phụ khoa biết chính xác các triệu chứng ban đầu là gì, chính xác những dấu hiệu đầu tiên là gì. Và nó rất dễ chữa trị: Chỉ cần để sản phụ nghỉ ngơi một chút hoặc - trong trường hợp nghiêm trọng hơn - hỗ trợ khí oxy.” “Điều gì khiến ông nghĩ Charlotte bị mê tẩu?” “Thứ nhất, cô ấy có những triệu chứng của người bị thiếu oxy não: Cô ấy bị động kinh, bất tỉnh, và tim ngừng đập. Các nhân chứng có thể nhìn thấy những điều đó. Rồi sau đó, khi chúng tôi tìm kiếm những chấn thương ở tế bào não trong hồi cá ngựa, chúng tôi thấy bằng chứng quan trọng của hiện tượng thiếu oxy não.” “Nó trông như thế nào?” “Nhân của tế bào bị thoái hóa - bị teo lại và thâm đen, trông rất xấu xí. Trong khi đó tế bào chất của thân tế bào thì chuyển màu đỏ sậm, trông như thủy tinh.” “Vậy ý ông là Charlotte Bedford bị bắt... ông đang nói rằng Charlotte Bedford rặn quá lâu đến nỗi bị thiếu oxy não. Cô ấy bị mê tẩu.” “Đúng.” “Theo quan điểm của ông, đó có phải là nguyên nhân tử vong không?” “Chà, đó là vấn đề. Tôi không nghĩ như vậy.” “Tại sao không?” “Điều này sẽ nghe có vẻ trớ trêu, xét lý do tất cả chúng ta có mặt ở đây, nhưng tôi tin bà Danforth đã cứu cô ấy sau khi cô ấy bị mê tẩu. Tôi tin rằng việc hô hấp nhân tạo do bà Danforth thực hiện - toàn bộ những lần đó - thực ra đã giúp người phụ nữ sống lại.” Ý kiến của bác sĩ Tierney không làm gia đình tôi ngạc nhiên, và mẹ tôi hầu như không cử động khi ông ta nói. Nhưng đó là một tiết lộ bất ngờ với hầu hết những người khác, và một bà mẹ ngồi ở dãy ghế phía sau hẳn đã giật mình rất mạnh hoặc kêu lên thảng thốt đến nỗi làm đứa con nhỏ của bà tỉnh dậy. Tất cả chúng tôi đều nghe tiếng khóc, sau đó là tiếng sột soạt mà tất cả chúng tôi đều đã quá quen thuộc, khi người mẹ men theo lối đi hẹp giữa các hàng ghế và sau đó đi ra khỏi phòng xử án. “Điều gì khiến ông nghĩ như vậy?” Tanner hỏi khi căn phòng đã trật tự trở lại. “Lượng máu trong khoang bụng. Ý tôi là, có gần bảy trăm năm mươi mililít máu trong đó.” “Gần một lít à?” “Chừng đấy. Cộng thêm máu ở bên ngoài vết thương: Xung quanh vết rạch. Trên giường. Và, dĩ nhiên, trên chiếc gối bà Danforth dùng để thấm máu để có thể thấy đường làm việc mà bà ấy đang làm. Tôi đoán là tìm tử cung. Theo ý kiến của tôi, sẽ không có nhiều máu đến như thế trong bụng của người quá cố và chung quanh giường nếu người phụ nữ ấy đã chết khi bà Danforth cố gắng thực hiện mổ lấy thai.” “Vì vậy ông tin rằng Charlotte Bedford còn sống khi bà Danforth tiến hành mổ đẻ?” “Đúng vậy.” “Trong trường hợp đó thì nguyên nhân tử vong là gì? Charlotte Bedford đã chết như thế nào?” Bác sĩ Tierney thở dài và sau đó nhìn thẳng vào bồi thẩm đoàn. “Như tôi đã đánh máy trên tờ giấy chứng tử - bản cuối cùng - cô ấy chết vì choáng xuất huyết do ca mổ đẻ. Theo quan điểm của tôi, chính ca mổ đẻ của bà Danforth đã giết chết cô ấy.”