- 19 -
Tôi không phải mất ngủ vì lo lắng, nó không giống như thế. Ðôi khi tôi còn chẳng nhớ mình đã lắng nghe hơi thở của Rand trong nhiều giờ liền, cảm nhận thân nhiệt của anh dưới lớp chăn. Nhưng vào buổi sáng, trông tôi thường giống như mất ngủ. Tôi cáu bẳn, mệt mỏi, và đi vào những căn phòng trống để khóc. Stephen nói chị gái của Charlotte không ghét tôi. Nhưng anh không phải là phụ nữ, anh chưa từng biết đến sinh đẻ. Anh chưa từng nhìn thấy sự sống dâng trào trong căn phòng vào thời khắc sinh đẻ. Về điều này anh đã sai. trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
TÔI MUỐN STEPHEN XÉ XÁC TIERNEY. Tôi biết chuyên gia pháp y là một nhân chứng bất lợi; tôi hiểu lời cung khai của ông ta có sức mạnh thế nào: Ông ta nói năng có vẻ thông minh và uy quyền; ông ta trông hoàn toàn có lý. Trông ông ta thật tử tế trên bục nhân chứng. Nhưng tôi cũng hiểu rằng nếu thiệt hại mà Tierney gây ra có thể khắc phục được, thì phần lớn công việc khắc phục sẽ phải đợi đến tuần sau, khi Stephen đưa những “chuyên gia” của chúng tôi ra bục nhân chứng. Tôi hi vọng khi đó, mọi người trong phòng xử án sẽ nhận thấy rằng bác sĩ Tierney chỉ là một chuyên gia pháp y của Vermont mà thôi. Ông ta chẳng phải đến từ Boston hay New York hay Washington, D.C. gì cả. Quan điểm của Tierney chỉ là một trong nhiều quan điểm, và nó chắc chắn là đã sai lầm: Cuối cùng bồi thẩm đoàn sẽ bị thuyết phục rằng Charlotte Bedford chắc chắn đã chết trước khi mẹ tôi quyết định cứu cậu bé Veil. Đương nhiên, Stephen sẽ không lấy lòng một bồi thẩm đoàn ở hạt Orleans bằng cách làm Tierney bẽ mặt chỉ vì ông ta đến từ Vermont. Vì thế phần lớn chiến thuật của ông trong cuộc đối chất chuyên gia pháp y vào cuối buổi chiều thứ sáu chỉ đơn giản là đặt nền tảng cho các chuyên viên thẩm nghiệm y lý tư pháp của ông, và để đề xuất rằng sẽ còn có nhiều ý kiến bất đồng. “Ông nói rằng bà Bedford có khoảng bảy trăm năm mươi mililít máu trong bụng. Tôi nói có đúng không?” có lúc ông hỏi. “Vâng, khoảng chừng đấy.” “Nếu ai đó gặp ông và nói rằng một phụ nữ đã chết vì một ca mổ đẻ được tiến hành trong... trong những tình huống này, liệu ông có nghĩ rằng sẽ có nhiều máu hơn không?” Tanner đứng dậy để phản đối, nói rằng thật lố bịch khi yêu cầu một chuyên gia pháp y phỏng đoán về một tình huống giả định khi mà có một ca mổ đẻ thật để thảo luận, nhưng thẩm phán cho phép Stephen tiếp tục. “Bảy trăm năm mươi mililít là một lượng máu rất nhiều rồi,” Tierney nói. “Nhưng... nhưng... nếu ai đó nói với ông rằng một phụ nữ chết vì mổ lấy thai... liệu ông có nghĩ là máu sẽ nhiều hơn như thế không?” Tierney suy nghĩ một lúc lâu. Cuối cùng: “Tôi có thể nghĩ như thế.” “Cám ơn ông. Nếu ông muốn bằng chứng tuyệt đối... không thể chối cãi... không thể phủ nhận rằng một ca mổ đẻ chính là nguyên nhân tử vong, thì ông muốn tìm thấy bao nhiêu mililít máu trong khoang bụng?” Tierney khẽ gật đầu trong lúc suy nghĩ tìm câu trả lời. “Có lẽ là một nghìn,” ông nói. “Trong khoang bụng của Charlotte Bedford có chừng ấy máu không?” “Không.” “Cám ơn ông,” Stephen nói, và bắt đầu đi lại bàn của mình. “Không còn câu hỏi nữa.” Trong một khoảnh khắc tôi đã nghĩ rằng câu nói đó sẽ đánh dấu sự kết thúc của ngày hôm đó - và do đó kết thúc cả một tuần - và tôi trở nên phấn khích. Đây có vẻ như là một lưu ý tuyệt vời để gửi các bồi thẩm viên đem về nhà vào dịp cuối tuần. Nhưng trước khi Stephen kịp ngồi xuống, Tanner đã đứng dậy để tiến hành phần hỏi bổ sung. “Hai câu hỏi nhanh, thưa bác sĩ Tierney, nếu tôi được phép,” lão ta bắt đầu. “Căn cứ trên mọi thứ mà ông đã biết từ cuộc giải phẫu tử thi, và căn cứ trên lượng máu khổng lồ tìm thấy ngoài khoang bụng - chẳng hạn như máu mà bà Danforth đã thấm bằng gối - liệu bảy trăm năm mươi mililít có đủ để thuyết phục ông rằng ca mổ đẻ chính là nguyên nhân tử vong không?” “Có, gần như chắc chắn.” “Căn cứ trên toàn bộ kinh nghiệm của ông, và toàn bộ thời gian ông dành cho ca này, ông có tin rằng nguyên nhân tử vong chính là ca mổ đẻ do bị cáo thực hiện không?” “Vâng, tôi tin là thế.” “Cám ơn ông,” Tanner nói, và thẩm phán Dorset ngước nhìn chiếc đồng hồ ở bức tường phía xa. Lúc đó đã quá năm giờ, và tuần đầu tiên trong phiên tòa xử mẹ tôi sắp kết thúc bằng một hồi búa. Trước khi tất cả chúng tôi rời khỏi phòng xử án và đường ai nấy đi vào tối thứ sáu, Stephen cố gắng trấn an bố mẹ tôi rằng đây là điểm đáy trong phiên tòa đối với chúng tôi - cả về nghĩa đen, tức là viễn cảnh được tuyên trắng án của mẹ tôi, lẫn về mặt cảm xúc. Dù sao đi nữa, chính quyền bang đã trình bày hầu như toàn bộ vụ án - nhân chứng duy nhất còn lại chính là ông góa - trong khi chúng tôi thậm chí còn chưa bắt đầu phần bào chữa của mình. Stephen cảnh báo chúng tôi rằng trong hai ngày cuối tuần, chúng tôi có thể bận tâm đến những gì bồi thẩm đoàn đang nghĩ, và có thể trở nên hoảng hốt. “Hãy nhớ, chặng đường trước mặt còn rất dài,” ông nói, và mặc dù tôi rất muốn tin ông, nhưng sự trấn an của ông lại mâu thuẫn với một quan điểm khác mà tôi đã nghe ông nói ít nhất năm, sáu lần: Phần biện hộ của chúng tôi sẽ mất ít thời gian hơn rất nhiều so với phần của bên công tố. Tất cả những gì chúng tôi cần làm là nuôi dưỡng sự nghi ngờ hợp lý, và dù - như cách nói ẩn dụ của ông - ông muốn chúng tôi đảm bảo rằng gốc rễ của sự nghi ngờ đó khỏe mạnh và vững chắc, nhưng ông cũng nói rằng sự nghi ngờ trong trường hợp này là một bụi rậm nhỏ xù xì thô ráp. Điều cuối cùng ông nói trước khi leo lên xe là ông sẽ gặp lại chúng tôi vào Chủ nhật, khi ông cùng Peter đến để giúp mẹ tập dượt lời khai và chuẩn bị cho phần đối chất. Khi chúng tôi lái xe về Reddington, mẹ hỏi tôi cảm thấy thế nào, và tôi nói dối với bà rằng tôi vẫn ổn. Thật ra, tôi đang cố ngăn nước mắt trào ra. Nhưng bố mẹ tin vào câu trả lời của tôi, và đó là tất cả những gì chúng tôi nói với nhau trên đường về nhà. Nỗi lo sợ kết hợp với sự mệt mỏi khiến họ chẳng còn tâm trí nào để nhận xét về lời cung khai mà chúng tôi đã nghe hôm đó hoặc nhận ra sự run rẩy đã len lỏi vào giọng nói của tôi. Khi gần về đến nhà, chúng tôi thấy một hàng xe nối đuôi nhau ở phần đường lái xe vào nhà chúng tôi. Miếng dán ở phía sau chiếc xe cuối cùng, một chiếc xe tải nhỏ cũ kĩ, cho thấy ai đã đổ bộ đến nhà chúng tôi: CÁC BÀ MỤ LÀM THẾ KHẮP NƠI! Những bà mụ Vermont, một số có lẽ rời khỏi tòa trước khi bác sĩ Tierney kết thúc phần diễn giải của ông ta về nguyên nhân cái chết, đã đem theo bữa tối đến cho chúng tôi. Cheryl và Molly, Donelle và Megan, và Tracy - những cái tên luôn gợi lên trong tôi hình ảnh những người phụ nữ dạt dào tình cảm, gặp là ôm, và có thể yêu thương không cần thắc mắc hoặc điều kiện hoặc hạn chế - đã đến để cổ vũ mẹ tôi. Dàn âm thanh nhà chúng tôi đang rộn rã giai điệu của một băng nhạc dance có bài của ABBA tiếp sau Shirelles, và Joni Mitchell hát sau Janis Joplin. Bàn ăn được trải khăn màu xanh da trời, trên bàn bày nến, thịt hầm, và những giỏ bánh mì mới nướng. Ngay cả Cheryl Visco, người mà sự có mặt thường xuyên ở nhà chúng tôi suốt mùa hè đã khiến bố và tôi trở nên khó chịu, cũng là một hình ảnh khích lệ. Bà vẫn đẹp và mạnh mẽ như mọi khi, dù suốt tuần qua phải ngồi ủ rũ trong phòng xử án: Mái tóc bạc dày của bà lại sáng bóng như kim loại mới, nhưng trông vẫn mềm mượt như lụa cashmere, còn đôi mắt bà mở to vui vẻ khi trông thấy chúng tôi. Bà vòng tay ôm tôi trước, sau đó mới chào mẹ tôi, như thể đang thực hiện một lựa chọn thứ tự tình cảm theo bản năng. “Cháu gầy quá, cả ngôi sao trên đường chạy cũng không gầy như cháu,” bà thì thầm vào tai tôi. “Bác cũng thế mà ạ,” tôi đáp. Khi những bà mụ khác thấy chúng tôi về đến, cùng với bạn, chồng và một số người với con cái, họ bắt đầu vỗ tay chào mẹ tôi. Cheryl choàng tay qua vai mẹ rồi dẫn bà vào phòng ăn trong khi bố và tôi đi theo phía sau. Đột nhiên có một người đã dừng vỗ tay để đưa mẹ tôi một ly rượu vang và bố tôi một ly rượu scotch, và một người khác đưa tôi một ly nước ngọt mát lạnh. Tôi ngước lên để cám ơn người đã đưa ly nước cho tôi, và nhận ra đó chính là Tom Corts. “Em muốn uống bia thay nước ngọt không? Sẽ chẳng ai quan tâm đâu,” anh nói, vỗ vai tôi một cách vừa dễ thương vừa kì lạ. “Sao anh biết chuyện này?” “Bác Cheryl bạn của mẹ em gọi điện thoại đến gặp mẹ anh,” anh trả lời, chỉ tay về phía bà mụ luống tuổi. Tôi nhìn bà âu yếm ôm mẹ tôi bằng cả hai tay, và nhìn nụ cười mà bà đã làm hiện ra trên khuôn mặt mẹ tôi - một nụ cười rạng rỡ mà chúng tôi hiếm khi thấy trên mặt mẹ gần đây - và những giọt nước mắt mà tôi kiềm nén từ khi rời tòa án bắt đầu chảy xuống hai gò má tôi. Tiếng khóc của tôi lúc đó hoàn toàn lặng lẽ, và trong sự hỗn loạn và hân hoan tràn ngập căn phòng, không ai ngoài Tom nhận ra tôi đang khóc. “Này, em về nhà rồi mà,” anh lo lắng nói, không biết tại sao tôi lại khóc và anh nên làm gì mới phải. “Mọi việc sẽ ổn thôi.” Tôi lắc đầu, biết chắc rằng mọi việc sẽ không còn được bình thường như trước nữa. Rồi sau đó tôi nắm tay anh dẫn lên phòng tôi, ở đó tôi khóc trong vòng tay anh cho đến khi bạn bè của mẹ về hết, và dưới nhà tôi trở nên tĩnh lặng. Tôi đã không gặp Mục sư Asa Bedford kể từ trước khi con trai ông chào đời và vợ ông qua đời. Có nhiều lời đồn đại ở miền Bắc của hạt trong mùa hè và đầu mùa thu rằng ông đã ghé thăm Lawson vì lý do này hay lý do khác, và mỗi khi ai đó nhìn thấy một người bố đầu hói tóc màu đỏ với một đứa trẻ sơ sinh và một cậu con trai, người ta lại thoáng nghĩ rằng người đàn ông tội nghiệp này đã quay lại bang. Nhưng ngoài lần ông cung khai vào mùa hè năm đó, tôi nghĩ ông chưa bao giờ thực sự trở lại: Gia đình ông và gia đình Charlotte đều ở Alabama, và một ông bố gà trống nuôi con như thế có thể tận dụng mọi sự giúp đỡ mà ông có được. Khi tôi thấy ông vào sáng thứ hai, trông ông như người từ cõi chết. Dù tôi chưa bao giờ nghĩ ông là người đẹp trai, nhưng ông luôn đối xử tốt với Foogie và Charlotte - cũng như rất quan tâm đến Rollie và tôi - nên ở ông vẫn có nét hấp dẫn nào đó. Ông không toát lên vẻ nghiêm nghị thường thấy ở những vị mục sư khác mà tôi đã gặp trong đời, ngược lại ông có một sự nhạy cảm sâu sắc: tôi không biết đó có phải vì niềm tin vào ngày tận thế của ông hay vì dù cho thế đi nữa, ông vẫn là một người rất dễ thương. Tuy nhiên, Mục sư Asa Bedford sắp ra cung khai lại trông rất mệt mỏi, phờ phạc và rầu rĩ không chịu nổi. Có những quầng thâm đen dưới mắt ông, và nếp nhăn đã hình thành trên mặt ông. Có những dải tóc bạc giữa vầng tóc đỏ hào quang mọc viền quanh đầu ông như móng ngựa, làn da xanh xao của ông nhuốm màu xám xịt. Ông đã già đi, và già đi một cách tồi tệ. Vào lúc đó tôi không biết tên Asa trong tiếng Hebrew có nghĩa là bác sĩ, và tôi đã rất mừng. Đã có một danh sách dài dằng dặc những bác sĩ xếp hàng để chống lại mẹ tôi, cho nên tôi sẽ xem ý nghĩ Asa cũng là một bác sĩ như một điềm cực kì xấu. Trong phần đầu buổi cung khai, Tanner gợi ra những chi tiết có chọn lọc về cuộc sống của vị mục sư từ ngày vợ qua đời: Những công việc mỗi ngày - những khó khăn - của cảnh gà trống nuôi con. Sự khó ngủ của ông. Việc ông vẫn chưa sẵn sàng về mặt tâm lý để trở lại bục giảng kinh. Ông nói bằng giọng nhỏ nhẹ, ngập ngừng, không hề lộ chút oán hận nào dành cho mẹ tôi, nhưng Mục sư Asa cũng là con người như tất cả chúng ta, trong lòng ông hẳn phải chất chứa một nỗi oán giận rất lớn. Sau đó, như đã làm với Anne Austin, Tanner yêu cầu người cha kể lại từng bước những gì ông đã chứng kiến vào buổi tối và buổi sáng khi con trai ông chào đời, nhấn ở những điểm quan trọng mà ông ta muốn bồi thẩm đoàn sẽ ghi nhớ và đem theo về nhà. “Vậy là ông yêu cầu bà Danforth cố lần nữa?” Tanner hỏi. “Tôi chỉ không thể tin là Charlotte đã thực sự... qua đời. Tôi không thể nào tin được. Cho nên đúng vậy, tôi đã yêu cầu bà ấy thử lần nữa để làm Charlotte sống lại. Tôi nghĩ tôi đã nói một câu như ‘Chị có thể hô hấp nhân tạo thêm không?’” Tanner khẽ gật đầu. Khi buổi sáng chuyển thành buổi trưa và họ đã nói đến đoạn Charlotte tử vong, Tanner bắt đầu nói rất nhỏ nhẹ, như thể muốn cho bồi thẩm đoàn hiểu rằng không chỉ là một người bảo vệ chu đáo và nhiệt thành của Dân chúng, lão còn là một người đàn ông dịu dàng, hiểu rõ đây là một buổi cung khai rất đau lòng đối với Asa Bedford. “Bà Danforth nói gì với ông?” lão hỏi. “Bà ấy nói cô ấy - Charlotte - đã ra đi. Bà ấy nói cô ấy sẽ không trở lại.” Mục sư Bedford chưa bao giờ vỡ tiếng vì xúc động, nhưng có những khoảnh khắc nghe như ông vẫn còn bị sốc. “Lúc đó ông có tin bà ta không?” “Có, thưa ông, tôi đã tin. Nhưng lúc đó tôi giống như bị đấm mạnh vào bụng và thốc hết hơi sức trong người ra ngoài. Hết sạch sành sanh. Tôi thở không nổi, rồi tôi... tôi nhớ mình đã trượt xuống sàn và quỳ trên đầu gối. Tôi đặt đầu mình lên ngực Charlotte, và tôi chỉ còn biết nhìn trân trối vào khuôn mặt cô ấy. Tôi chỉ nhìn mà thôi. Tôi nói với cô ấy tôi yêu cô ấy đến nhường nào. Rất nhiều. Rất, rất nhiều. Và tôi nói tôi vô cùng muốn cô ấy quay trở lại.” “Ông ngồi như thế với vợ có lâu không?” “Ồ, không. Không lâu lắm. Không lâu chút nào. Bà Danforth nói gì đó giống như ‘Hãy di chuyển nào!’ Lúc đầu tôi không hiểu bà ấy định nói gì. Tôi không biết bà ấy muốn làm gì. Bà ấy nghe có vẻ kích động, và...” “Phản đối.” “Phản đối được chấp nhận.” “Mục sư Bedford,” Tanner nói, “bà Danforth đã làm gì tiếp theo? Bà ta đã nói gì?” “À, bà ấy lau nước mắt và... và vung tay. Bà ấy cứ nói, ‘Chúng ta không còn thời gian nữa, chúng ta không còn thời gian nữa!’” “Ông đã nói gì?” “Tôi hỏi bà ấy như thế nghĩa là sao.” “Và bà ta nói sao?” “Bà ấy nói... bà ấy nói đứa bé chỉ còn vài phút, và chúng tôi đã dùng chúng... dùng chúng... dùng phần lớn thời gian đó... cho Charlotte.” “Lúc đó ông có biết bà Danforth định làm gì không?” “Không. Tôi hoàn toàn không ngờ tới. Tôi nghĩ tôi còn hỏi bà ấy, ‘Chị định làm gì?’” “Bà ta có nói không?” “Cũng có. Bà ấy nói sẽ cứu đứa bé. Tôi nghĩ câu chính xác là ‘Cứu con của ông.’ Nhưng Charlotte của tôi chỉ vừa mới chết, và ý nghĩ cứu đứa bé và... mổ phanh bụng Charlotte ra vẫn không... kết nối được với nhau trong đầu tôi. Khi cuối cùng tôi cũng liên kết được chúng vài giây sau đó - khi tôi hiểu ra tại sao bà ấy cần con dao - tôi đã hỏi bà ấy lần nữa là Charlotte đã chắc chắn... chết chưa.” Với giọng miền Nam, ông kéo dài chữ chết thành hai âm tiết, và tôi tự hỏi có bao nhiêu bồi thẩm viên đang lần đầu nghe thấy giọng người miền Nam. Còn tôi thì lần đầu tiên nghe giọng miền Nam chính là ở nhà của gia đình Bedford. “Và bà Danforth nói gì với ông?” “Bà ấy nói ‘Dĩ nhiên rồi.’” “Tức là ‘Dĩ nhiên cô ấy chết rồi.’” “Đúng vậy.” “Bà ta có hỏi xem ông có muốn bà ta cố gắng cứu đứa bé không?” “Không, thưa ông.” “Bà ta có xin phép ông để tiến hành mổ lấy thai cho vợ ông không?” “Không, thưa ông, bà ấy không hỏi.” “Trước khi bà ta bắt đầu ca mổ, ông có thấy và Danforth kiểm tra xem Charlotte còn mạch không?” “Không.” “Ông có thấy bà ta kiểm tra xem còn... nhịp tim không?” “Không.” “Ông có thấy bà ta làm bất cứ điều gì để khẳng định rằng Charlotte thật sự đã... qua đời không?” “Không.” Tanner liếc nhìn mẹ tôi một cái, lắc đầu vẻ không tin nổi. Bà tránh cái nhìn của lão và hướng về hồ nước, còn mẹ của bà - bà ngoại của tôi - nhìn lại luật sư bang. Bà tôi đã nổi giận vào tuần đó, điên tiết với bất kì ai vu khống con gái bà. “Còn đứa bé thì sao?” Tanner sau đó hỏi vị mục sư. “Bà ta có kiểm tra xem còn nhịp tim thai nhi không?” “Ý ông là dùng...” “Ống nghe tim thai.” “Không, thưa ông, tôi không thấy bà ấy làm thế.” “Vậy: Ông không hề thấy bà ta bận tâm kiểm tra để khẳng định...” “Phản đối.” “Phản đối được chấp nhận.” “Ông không hề thấy bà ta kiểm tra để khẳng định rằng Charlotte đã chết hoặc đứa bé còn sống trước khi bắt tay vào mổ đẻ.” “Không.” “Bà ta cứ thế mà làm.” “Đúng.” “Ông làm gì suốt cuộc phẫu thuật?” “Tôi vẫn nghĩ Charlotte đang... đã... tôi vẫn nghĩ Charlotte đã chết, nên tôi đi đến bên cửa sổ.” Ông ra dấu về phía giá vẽ nằm giữa ghế ngồi của ông và cuối bồi thẩm đài, trên đó đặt một bức tranh vẽ theo mô tả phòng ngủ của nhà Bedford. “Ông có nhìn không?” “Tôi có nhìn một ít.” “Ông có thấy vết rạch đầu tiên không?” “Có, thưa ông.” “Ông nhớ gì về nó - vết rạch đầu tiên?” “Tôi nhớ máu phụt ra,” Bedford nói, lần đầu tiên ông nói lớn tiếng trong suốt buổi cung khai. “Tôi nhớ đã nhìn thấy Charlotte của tôi chảy máu.” Đến ngày thứ hai của tuần thứ hai của phiên tòa, tôi đã quen với việc nhìn thấy gia đình Charlotte trong phòng xử. Tôi không sẵn sàng để vẫy tay chào và nói bằng giọng thông cảm miền Nam, “Chào, mọi người khỏe hông?” nhưng tôi đã không còn tránh né ánh mắt họ. Và khi tôi liếc về phía đó lúc người anh rể kể phiên bản của ông về điều đã xảy ra, tôi có thể nhìn thấy trong mắt họ sự thật rằng chúng tôi - Sibyl Danforth và gia đình mình - sẽ thua. Dĩ nhiên có đôi lúc trong phần đối chất của Stephen, tinh thần tôi đã được vực dậy: đó là khi, ví dụ như, Stephen liệt kê chi li toàn bộ lý do tại sao Asa Bedford không thể nhìn thấy máu bắn ra hoặc Charlotte của ông ta “chảy máu”. Nhưng khi Stephen nói xong, tôi vẫn biết rằng chúng tôi đã toi đời. Mục sư Asa, dù sao đi nữa, vẫn là một mục sư. Lời khai của chuyên gia pháp y vào ngày thứ sáu đã áp đảo như thế, nhưng ngay cả uy tín của một chuyên gia pháp y cũng lu mờ trước uy tín của một mục sư. Cuộc đối chất diễn ra gần hết buổi chiều, và khi nó kết thúc, Tanner đã hỏi bổ sung một chút. Mục sư Bedford kể lại mình đã thấy gì, trước sau như một quả quyết về sự tồn tại và sức mạnh của một tia máu nhỏ. Và rồi nó kết thúc, và chính quyền bang nghỉ ngơi.