← Quay lại trang sách

- 20 -

Luật sư có lời lẽ lạnh lùng như bác sĩ vậy. Nhưng bản thân những thuật ngữ luật pháp vốn không lạnh giá, mà chính là cách chúng được sử dụng. Ðó là cách những người đó nói khi họ ở trong phòng xử, cách họ dùng cả những từ và những cái tên thông thường. Ðặc biệt là những cái tên. Mỗi khi Stephen nói về tôi, anh gọi tôi là “Sibyl.” Mỗi khi anh nói về Charlotte, cô là “bà Bedford” hoặc “Charlotte Bedford.” Hoặc đơn giản là “người vợ.” Trong khi đó, Tanner thì làm điều hoàn toàn ngược lại: khi ông ta mở miệng, tôi luôn luôn là “bà Danforth” hoặc “bà mụ.” Chưa bao giờ, không bao giờ là “Sibyl.” Còn Charlotte, dĩ nhiên, luôn là...“Charlotte.” Stephen chưa đề cập điều này, nhưng đó là chiến thuật mà cả hai người đang sử dụng. Mỗi luật sư đang dùng Charlotte và tôi để chống lại nhau, cố gắng làm một trong hai chúng tôi trở nên thân thiện và dễ mến, còn người kia thì bàng quan, trịnh trọng và xa cách. Vấn đề là, tôi nghĩ trước đây cả hai chúng tôi đều thân thiện. Nếu Charlotte không có nhiều bạn, thì đấy không phải vì cô ấy xa cách. Theo lịch tôi sẽ cung khai thứ tư. Không phải vào thứ tư. Thứ tư. Có vẻ như sự khác nhau nằm ở chỗ thời lượng. Giữa những câu hỏi mà tôi sẽ phải trả lời với hai luật sư, tôi có cảm giác tôi sẽ phải làm “Sibyl” rồi sau đó làm “bà Danforth” trong một khoảng thời gian dài, rất dài. trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth STEPHEN CHƯA BAO GIỜ nghi ngờ chuyện mẹ tôi sẽ là một nhân chứng hấp dẫn và quyến rũ. Nhưng ông không muốn bà làm nhân chứng cuối cùng; ông không kết thúc với bà như cách Tanner đã chọn để kết thúc với Asa Bedford. Ông muốn bà bị kẹp ở giữa, giữa các nhân viên đội công trình giao thông với các nhân chứng đại diện ra tòa vào ngày thứ ba, còn các chuyên gia y khoa và pháp lý - các chuyên gia y khoa và pháp lý của chúng tôi, những người hoặc trong thâm tâm tin rằng mẹ tôi đã làm đúng, hoặc ít nhất cũng sẵn sàng nói như thế để được một khoản tiền hợp lý - thì xếp hàng chờ vào thứ năm. Stephen nói ông muốn mẹ tôi chiếm lĩnh phần biện hộ ở giữa để bà trở thành một “sự hiện diện tiếp cận được, một người phụ nữ có tiếng nói” đối với các bồi thẩm viên suốt thời gian đó - đặc biệt là kết luận quan trọng khi các chuyên gia của chúng tôi trình bày phần cung khai của họ. Theo quan điểm của ông, cuối cùng vấn đề này vẫn sẽ là cuộc chiến giữa các chuyên gia, vì thế ông muốn kết thúc với những người có rất nhiều bằng cấp và trang phục tử tế. Ông hi vọng hoàn tất phần biện hộ của mình trong ba ngày, nhưng nói rằng nếu nó kéo dài bốn ngày thì đó cũng không phải là tận cùng thế giới. Mục tiêu chính của ông khi nhìn vào lịch là kết thúc trước cuối tuần, để bồi thẩm đoàn không phải về nhà với nỗi sợ rằng phiên tòa sẽ kéo dài lê thê mãi mãi. Tôi không biết chính xác thẩm phán Dorset chờ đợi gì ở những bà mụ bằng hữu và khách hàng của mẹ tôi khi Stephen chuẩn bị trình bày phần ra tòa của phía chúng tôi, nhưng vào sáng thứ ba, trước khi bồi thẩm đoàn được đưa vào phòng xử án, ông yêu cầu tất cả các bà mẹ có con cần được cho bú phải đưa con ra khỏi phòng khi chúng đói. Stephen phản đối, lập luận rằng thay đổi luật giữa chừng như thế sẽ gửi đến bồi thẩm đoàn một tín hiệu gây ấn tượng xấu về nghề bà mụ, chuyện đẻ tại nhà, và - dĩ nhiên - mẹ tôi. Ông cũng ngụ ý rằng thẩm phán có nguy cơ sẽ xử sai. Thẩm phán Dorset mỉm cười: “Trừ khi có một bà mẹ hoặc trẻ sơ sinh nào có mặt ở đây muốn làm lớn chuyện này, nếu không, tôi nghĩ bồi thẩm đoàn sẽ chẳng hề bận tâm.” Và thế là chúng tôi bắt đầu. Graham Tuttle, tài xế lái xe máy xúc ở Lawson, nói với mọi người rằng đường sá hôm 14 tháng ba bị phong tỏa hết cả. Lois Gaylord từ công ty điện thoại xác nhận khoảng thời gian điện thoại bị hỏng. Chuyên gia tái tạo hiện trường tai nạn của chúng tôi khẳng định với bồi thẩm đoàn rằng mẹ tôi thực tình đã bầm dập trên băng đá trên đường chạy xe vào nhà Bedford, và một bác sĩ dùng những tấm ảnh để giải thích các vết cắt và vết bầm mà mẹ tôi hứng chịu trên bề mặt trơn trượt. Đến giờ ăn trưa, Stephen đã làm xong những gì có thể để truyền đi thông điệp rằng mẹ tôi đã bị kẹt lại với gia đình Bedford, và tuyệt nhiên không còn một cách nào khác để họ đi đến bệnh viện. Dĩ nhiên, điều Stephen không thể làm với nhóm nhân chứng này chính là phản bác lại luận điểm của Tanner rằng ngay từ đầu bà lẽ ra không nên để bị kẹt lại với gia đình Bedford - rằng một bà mụ có tay nghề và đáng tin cậy phải kiểm tra thời tiết và nắm được thông tin về cơn bão sắp đến, rồi sau đó lựa chọn chuyển Charlotte Bedford đến bệnh viện vào lúc cơn chuyển dạ của cô bắt đầu. Về lý thuyết, trách nhiệm đó sẽ rơi vào các nhân chứng đại diện dự định ra tòa chiều hôm đó: Họ sẽ bác bỏ mọi đề xuất nói rằng mẹ tôi không đủ tay nghề và không đáng tin cậy. Và hầu hết họ đều làm rất tốt, đặc biệt là B.P. Hewitt, bác sĩ dự bị của mẹ tôi. Hewett chịu đựng một cuộc đối chất có thể khiến phần lớn người khác đầu hàng. “Nếu Sibyl tin rằng người phụ nữ ấy đã chết, thì tôi tin cô ấy đã chết,” có lúc ông nói với Tanner. “Ông có mặt tại buổi khám nghiệm tử thi không?” “Không.” “Ông có kiểm tra bệnh án của Charlotte sau khi cô ấy chết không?” “Không.” “Ông có bao giờ khám cho cô ấy trong thời gian cô ấy mang thai không?” “Không.” “Vậy thì ông quả thật không biết mình đang nói gì, phải không?” “Phản đối!” “Chấp nhận.” “Vậy thì ông quả thật không... hiểu cặn kẽ về ca này. Đúng không?” “Ồ, tôi nghĩ là tôi hiểu. Tôi nghĩ tôi biết một ca đẻ tiến triển thế nào và...” “Ca đẻ này. Không phải bất kì ca đẻ nào. Ca đẻ này.” “Tôi hiểu câu hỏi của ông. Ông hỏi tôi có hiểu cặn kẽ về ca này không. Chà, tôi hiểu chứ. Và tôi không tin đó là lỗi của Sibyl.” “Thưa quý tòa, xin ông vui lòng hướng dẫn cho nhân chứng trả lời câu hỏi của tôi.” “Theo quan điểm của tôi, ông ấy đã trả lời rồi.” Tanner bị bối rối một lúc, nhưng khoảnh khắc đó rất ngắn ngủi. Lão chăm chú nhìn các ghi chép của mình, hít thở, rồi nhanh chóng lấy lại phong độ. “Được rồi,”cuối cùng lão tiếp tục. “Ông chưa bao giờ gặp Charlotte. Ông chưa bao giờ thấy thi thể cô ấy sau khi chết. Ông chưa bao giờ đọc bệnh án của cô ấy. Tại sao ông cảm thấy ông hiểu cái chết của cô ấy quá rõ?” B.P. ngạc nhiên lắc đầu. “Thôi nào. Tôi là bác sĩ dự bị của Sibyl. Tôi nghĩ không có cuộc nói chuyện nào của tôi với các bác sĩ sản phụ khoa trong sáu tháng qua mà không nhắc đến ca này.” “Nhưng ông không biết gì một cách trực tiếp cả, đúng không?” “Tôi đã biết Sibyl gần một thập niên rồi. Và tôi biết bà ấy đã nói gì với tôi về sự cố này. Nếu Sibyl nói với tôi người phụ nữ ấy đã chết khi cô ấy tiến hành mổ lấy thai, thì theo tôi vụ án này đã khép lại.” Sẽ không chính xác khi viết thế này, vào đêm trước khi mẹ tôi ra cung khai, bà sợ mình sẽ bị kết án. Từ sợ cho thấy viễn cảnh đó khiến bà hoảng sợ, và tôi nghĩ đến tối thứ ba, nỗi sợ đó - và những quyển nhật kí của bà cho thấy đã có những lúc trước đó bà thật sự rất sợ - đã bị thay thế bằng sự chết lặng và choáng váng. Đúng hơn là, vào đêm trước khi mẹ tôi ra bục nhân chứng, bà chỉ đơn giản nghĩ rằng mình sẽ bị kết án. Bố tôi thì ngược lại, rất hoảng sợ. Sau một bữa tối với các món đông lạnh mà chẳng ai ăn hoặc nói năng gì, tôi đi lên lầu để tìm những quyển sách mình phải đọc trong chương trình học. Tuy nhiên tôi không kì vọng mình sẽ đạt được gì, và đến chín giờ tôi đã ôm điện thoại nói chuyện với Rollie hoặc Tom, kể với họ tôi nghĩ chuyện gì đã xảy ra ngày hôm đó trong tòa án, và tôi nghĩ điều đó có nghĩa gì. Tôi đang ngồi trên giường vào khoảng tám giờ rưỡi khi bố gõ cửa phòng tôi (một cú gõ lúc nào cũng to hơn cách gõ của mẹ), và tôi nói ông cứ vào đi. “Mẹ con mới đi ngủ,” ông nói, đặt tách cà phê lên bàn tôi. “Mẹ muốn ngủ ngon để chuẩn bị tinh thần cho ngày mai.” “Mẹ mệt không?” tôi hỏi. Trong vài tuần vừa qua, tôi nhận thấy bố đã chuyển từ rượu scotch sau bữa ăn tối sang cà phê, và tôi rất mừng. “Chắc là mệt. Bố thì mệt lử đây.” Ông xoay chiếc ghế ở bàn học của tôi để nó quay về phía giường, rồi ngồi phịch xuống yên ghế gỗ, cứ như nó là một tấm đệm phồng nhỏ. “Còn con thì sao? Có mệt không?” “Có ạ.” “Con đã biểu hiện rất tốt trong chuyện này, con biết không.” Tôi trợn tròn mắt, cố giảm nhẹ lời khen. “Biểu hiện tốt à? Sến quá, bố ạ. Rất là sến.” “Bố già rồi.” “Vâng, đúng đấy. Bố mẹ đẻ ra con khi bố mẹ được khoảng bảy tuổi. Nếu con mà có bầu bằng tuổi mẹ lúc ấy thì hai người sẽ giết con mất.” Ông gật đầu. “Có thể lắm.” Ông với tay lấy tách cà phê rồi uống thật lâu đến nỗi làm tôi ngạc nhiên. “Dù sao thì, bố chỉ muốn con biết rằng bố mẹ rất tự hào về con. Bố mẹ rất tự hào khi có con bên cạnh qua toàn bộ... việc này.” “Bố nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra?” “Ngày mai à? Hay là khi mọi việc kết thúc?” “Khi mọi việc kết thúc.” Ông thở dài. “À, chúng ta sẽ chỉ trở lại sống cuộc đời bình thường, nhàm chán đến khó tin. Và chúng ta sẽ yêu thích nó.” “Vậy bố nghĩ họ sẽ tuyên mẹ vô tội?” “Ừ, đúng vậy. Nếu không, chúng ta sẽ kháng cáo.” “Bố và chú Stephen nói về chuyện đó chưa?” “Cũng có nói rồi, con ạ.” Ông rời phòng tôi vài phút sau đó. Khi ông đi rồi, tôi cố để không diễn giải buổi nói chuyện của ông thành một cái gì khác ngoài việc ông muốn khen ngợi cô con gái mình, nhưng tôi không làm được. Trước khi nghĩ về những gì tôi sẽ nói với Tom, tôi nhận ra mình đang mô tả cuộc nói chuyện ngắn với bố như một bằng chứng nữa cho thấy mẹ tôi sẽ bị kết án, kể với bạn trai tôi rằng ý nghĩ một cuộc sống gia đình bình thường và nhàm chán đến khó tin trong những năm tới đã trở thành câu chuyện cổ tích trong suy nghĩ của bố. “Ngày mai anh đi cùng em đến tòa nhé?” Tom nói. “Anh không nên nghỉ học. Vả lại có thể anh cũng không được ngồi cạnh em,” tôi nói. Nhưng tôi thích ý nghĩ Tom sẽ có mặt trong phòng xử án, biết rằng tôi có thể xoay lại và nhìn thấy anh ở đó - một chàng trai mười sáu tuổi mặc áo cổ lọ màu đen, ngồi ở hàng ghế phía sau với những đứa trẻ bé xíu và các bà mụ xung quanh - và tôi hi vọng anh sẽ mặc kệ lời tôi nói và nghỉ học. Mọi việc đã trở nên tệ hại đối với tôi, không chỉ vì tôi là một đứa con gái mười bốn tuổi có phán đoán của trẻ con và hormone của người lớn. Đến ngày hôm nay, tôi tin việc mình đã làm ở phiên tòa là chính xác, và những hành động của tôi ngày hôm sau là lý giải được - nếu không muốn nói là hoàn toàn có thể biện minh được. Tối hôm đó khi cuối cùng cũng chìm vào giấc ngủ, tôi nghe bố mẹ tôi yêu nhau trong phòng họ, và ngay cả khi điều đó dường như cho thấy một dấu hiệu rằng đoạn kết đã cận kề, tôi vẫn lấy gối úp lên đầu để không nghe tiếng động từ giường họ ở đằng xa và để gối thấm được nước mắt tôi. Ngay khi lớp bông trắng đã ướt và tôi cảm thấy má mình nhòe nhoẹt nước, tôi chợt nhớ lại mẹ tôi đã dùng một chiếc gối để thấm máu trong người Charlotte Bedford. Và khi đó những giọt nước mắt của tôi trở thành tiếng khóc nức nở. Mẹ tôi mặc chiếc váy màu xanh lá cây mà bà đã mặc vào ngày phiên tòa khai mạc, và kẹp tóc bằng chiếc kẹp màu xanh da trời. Bà mặc áo trắng, nhưng vì áo có cổ tròn và nhiều đường chỉ trang trí nên trông không hề nhà quê. Khi mẹ đứng trên bục, lập tức bà trông giống như một giáo sư và một bà mẹ - một người mẹ hiện đại, còn quá trẻ để có một đứa con gái tuổi vị thành niên. Hơn nữa, vì bục nhân chứng có xu hướng khuếch đại cả điểm mạnh và điểm yếu về mặt thẩm mỹ của người đứng đó, nên sự mệt mỏi của mẹ đem lại cho bà một dáng vẻ như nữ anh hùng: Sự kết hợp của chiều cao tăng thêm và thanh chắn ngang eo khiến bà trông giống như một tình nguyện viên Chữ thập đỏ mà tôi xem thấy gần đây trên bản tin truyền hình, đã thức suốt đêm để đưa cà phê và chăn màn đến những nạn nhân bão ở nhánh Mississippi. Đối với các bồi thẩm viên, dĩ nhiên trông mẹ tôi chỉ đơn giản là giống kẻ có tội. Trông bà có thể chỉ như một người đàn bà mỏi mệt không thể chợp mắt vì tay đã vấy máu. Nhưng ít nhất trong hai giờ đầu buổi cung khai của mình, bà đã nói rất tốt. Bà nói năng mạch lạc khi Stephen yêu cầu giải thích lý do trở thành bà mụ, và tại sao giúp phụ nữ đẻ con tại nhà tại quan trọng với bà đến thế. Bà nói chuyện như người có lý nhất thế giới khi Stephen hỏi bà về vai trò của bệnh viện trong việc hành nghề của bà. “Nếu tôi thấy một mối nguy hiểm, tôi sẽ không bao giờ để niềm khát khao đẻ con tại nhà của một bà mẹ - dù cho đó là một niềm khát khao cháy bỏng - che lấp lý trí tôi. Nếu có bất kì dấu hiệu nào cho thấy có hiện tượng suy thai, tôi sẽ luôn chuyển bệnh nhân đến bệnh viện.” “Còn người mẹ thì sao?” “Tương tự như vậy. Nếu có vấn đề phát sinh, chúng tôi sẽ đến bệnh viện. Nhiều người nghĩ các bà mụ chống đối bệnh viện hoặc chống đối bác sĩ. Chúng tôi không chống đối. Tôi không chống đối. Tôi có mối quan hệ rất tốt với B.P. - bác sĩ Hewitt. Tôi làm việc mình làm - tôi giúp phụ nữ đẻ con tại nhà - vì tôi biết tôi có thể dựa vào bệnh viện và bác sĩ nếu một tình huống y tế khẩn cấp phát sinh.” Cũng có lý như khi tranh luận về bệnh viện, mẹ đã tỏ ra cực kì tự tin và kiên định khi kể phiên bản của bà về điều xảy ra vào sáng 14 tháng ba. “Bà có kiểm tra lần cuối xem người phụ nữ còn mạch không?” Stephen hỏi. “Có.” “Bà có nghe thấy mạch không?” “Không.” “Bà có kiểm tra lần cuối xem cô ấy còn nhịp tim không?” “Vâng, chắc chắn là có.” “Và bà có nghe được nhịp tim không?” “Không, tôi không nghe thấy.” “Bà đã làm mọi việc có thể để đảm bảo rằng người phụ nữ đã chết?” “Ồ, vâng.” “Còn đứa bé thì sao? Bà có kiểm tra xem nó còn sống không?” “Có, tôi có kiểm tra. Tôi nghe nhịp tim bằng ống nghe tim thai. Và tôi đã nghe được nhịp tim thai,” bà trả lời, nhìn trực diện Stephen trong lúc nói. Bà không hề để ánh mắt của mình lang thang sang bố và tôi, hoặc về hướng khác của căn phòng, nơi bà có thể chạm mắt với gia đình Charlotte. “Tôi đã làm mọi việc có thể trước khi bắt đầu và cố gắng đảm bảo rằng Char - người mẹ - đã chết, nhưng đứa bé vẫn còn sống,” bà trả lời. “Người bố và người học việc ở đâu khi bà kiểm tra? Họ có ở cùng bà không?” “Không, họ không có mặt trong phòng. Tôi nghĩ họ vẫn còn ở trong nhà bếp.” “Để lấy dao ư?” “Đúng vậy.” “Vậy là họ không hề thấy bà kiểm tra người mẹ hoặc đứa bé?” “Không.” “Nhưng bà đã kiểm tra?” “Vâng. Chắc chắn là như vậy.” Tom Corts đến tòa vào giữa buổi sáng, khiến tôi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. Trừ khoảng không gian nhỏ cạnh gia đình Fugett, trong phòng chẳng còn chiếc ghế trống nào, nên anh phải đứng cạnh một nhân viên tòa án gần cửa ra vào, tựa lưng vào tường. Khoảng gần mười một giờ, các câu trả lời của mẹ tôi bắt đầu thiếu chính xác và có phần lộn xộn. Bà đã đứng trên bục gần hai giờ, trả lời các câu hỏi của Stephen từ những câu chung chung như những từ bà thường dùng để mô tả rủi ro với các bậc cha mẹ trong buổi gặp ở thai kì đầu tiên, đến chi tiết như tại sao bà lại cắt lớp màng ngăn nước ối của Charlotte Bedford. “Tôi không hỏi Asa bằng nhiều lời, ‘Tôi có được phép cứu đứa bé không?’ và có lẽ tôi nên hỏi, nhưng vào lúc đó tôi chỉ tập trung vào đứa bé - đứa bé và người mẹ - và cuộc nói chuyện đó dường như không cần thiết,” bà nói, có vẻ lúng túng một chút khi chất adrenalin giúp bà vượt qua phần lớn buổi sáng bắt đầu suy giảm. “Tôi có đúng không khi nói rằng cuộc nói chuyện là không cần thiết vì theo quan điểm của bà, Asa đã hiểu chính xác bà đang định làm gì, và do đó đã đồng ý?” Stephen hỏi, cố gắng cứu nguy cho mẹ. “Phản đối. Câu hỏi dẫn dắt nhân chứng, thưa quý tòa.” “Chấp nhận.” “Bà có tin rằng Asa đã đồng ý không?” “Có,” mẹ tôi nói. Và rồi, một lúc sau đó, khi Stephen hỏi, “Người cha có cố gắng ngăn cản bà không?” bà đã tình nguyện đưa ra một câu trả lời mà tôi biết không có trong kịch bản: “Asa là một người chồng, cũng như là một người cha, và không một người chồng nào trong tình huống đó lại có thể đưa ra bất kì quyết định nào.” “Nhưng theo phán đoán của bà ông ấy đã thực hiện một... quyết định có ý thức là không ngăn cản bà, đúng không?” “Đúng.” Trước khi ngày bắt đầu, tôi đã lo lắng về phiên đối chất, chứ không hề lo gì về buổi cung khai trực tiếp của mẹ. Giờ thì tôi rất lo: tôi tin mẹ không muốn bị kết án, nhưng khi buổi sáng sắp kết thúc, một số câu trả lời của bà suýt khiến cho bà nghe như chẳng còn bận tâm gì nữa. Thật không may, Stephen không dám kết thúc buổi cung khai của bà vào lúc đó, vì như thế thì cuộc đối chất sẽ bắt đầu trước giờ nghỉ trưa. Tôi nghĩ Stephen cho rằng quan trọng nhất là phải giữ bà trên bục cho đến khi kết thúc buổi trưa để buổi đối chất chỉ có thể diễn ra sau giờ nghỉ và ông có thể dùng thời gian giải lao để củng cố tinh thần bà, giúp bà tập trung trở lại. Ngay trước mười một giờ ba mươi, trong khi vẫn đang cung khai trực tiếp, mẹ tôi vụt miệng nói ra một câu trong phần trả lời của bà mà không ai ngờ đến, cả bản thân Stephen cũng không ngờ đến. Nếu đó không phải là điều bất lợi nhất bà có thể thốt ra theo quan điểm của chúng tôi, thì cũng là điều bất ngờ nhất. Nó làm thay đổi mọi thứ, và mọi người trong phòng xử án đều biết nó đã thay đổi mọi thứ kể từ giờ phút bà thốt ra nó: HASTINGS: Và người bố vẫn còn đứng bên cửa sổ? DANFORTH: Vâng, ông ấy đang ngồi trên một chiếc ghế ở đó, ôm đưa bé trên tay. Ông đang nhìn xuống nó, còn Anne thì ở ngay cạnh bên ông - quỳ gối trên sàn nhà. Từ chỗ họ đứng, họ có thể nhìn thấy một thi thể trên giường, nhưng tôi biết họ không thể thấy vết... vết rạch, và tôi rất mừng. Tôi nghĩ họ sẽ cảm thấy rất đau đớn nếu phải nhìn thấy nó. Tôi không nhớ có thật mình đã tắt chiếc đèn cạnh giường hay không khi tôi làm xong, nhưng tôi đã xem lại nhật kí của mình hôm trước và thấy là tôi đã tắt. Stephen lập tức cố gắng làm rõ lời bà, hỏi, “Ý bà là sổ sách ghi chép y khoa của bà, đúng không?” nhưng lúc đó đã quá muộn. “Không,” mẹ tôi từ tốn trả lời, giọng của bà đuối đi vì sốc. Bà biết ngay lập tức mình đã làm gì, và bà biết điều gì sẽ xảy ra. “Sổ sách cá nhân của tôi. Nhật kí của tôi.” Không hề có tiếng xao động hoặc lầm rầm trong phòng xử, vì tất cả chúng tôi đều quá sửng sốt không nói nên lời. Tất cả, trừ Bill Tanner. Với giọng hăm hở, lão hỏi thẩm phán liệu có thể tiếp cận ghế chủ tọa không, rồi sau đó lão và trợ lý của mình, cùng Stephen và Peter, tất cả tề tựu quanh thẩm phán Dorset. Ở hàng ghế của tôi, bố, bà ngoại, Patty, và hai luật sư tập sự im lặng nhìn thẳng về trước, cố gắng kìm nén cảm xúc trong lòng. Nhưng tôi biết họ đang cảm thấy gì. Mọi người trong phòng đều biết mình đang cảm thấy gì, vì mọi người trong phòng điều biết điều đó có nghĩa là sao. Ngay cả khi, giống như tôi, họ không biết chính xác luật lệ thế nào hoặc chính xác chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo, nhưng tất cả họ đều biết mẹ tôi vừa tuyên bố với bên công tố rằng có những quyển nhật kí mà họ chưa hề thấy và chúng có thể chứa đựng mối liên hệ trực tiếp - và bất lợi - đến án của bà.

Luật quy định thế này: Trong quá trình điều tra ở bang Vermont, Stephen Hastings không có nghĩa vụ thông báo cho Bill Tanner về sự tồn tại của những quyển sổ ghi chép cá nhân của mẹ tôi, hoặc phải nộp chúng cho cơ quan công tố. Sự thật là thế này: Mẹ tôi đã kể với Stephen ngay sau khi họ gặp rằng bà có những quyển sổ đó, và ông đã đọc một số quyển - ít nhất là một số quyển, có thể viết trong nhiều năm trời. Khi ông thấy rằng một số bài viết vào giữa tháng ba có thể bị diễn giải theo hướng trở thành vật chứng buộc tội, ông đã bảo bà dừng viết cái về bản chất là nhật kí cá nhân, và không bao giờ nói về quyển nhật kí lần nữa cho đến sau phiên tòa. Bà nói bà sẽ làm theo cả hai yêu cầu đó, rồi sau đó phớt lờ cả hai - một chuyện là cố ý, còn một chuyện là vô tình. Mẹ tôi chỉ đơn giản là không thể không viết nhật kí. Bà đã viết nhật kí suốt cuộc đời trưởng thành của mình, và có vẻ không thực tế chút nào khi kì vọng bà dừng ghi chép lại những hành động và tình cảm của mình giữa cơn căng thẳng thần kinh tồi tệ nhất mà bà từng trải qua. Và thế là chính quyền bang đã nhìn thấy hồ sơ bệnh án và bảng biểu của các bệnh nhân do mẹ tôi lưu giữ - các mẫu khám thai, tiểu sử bệnh nhân, kết quả kiểm tra sản khoa - nhưng chưa thấy thứ mà bà gọi là các quyển sổ ghi chép. Bốn luật sư và báo cáo viên tòa án chụm lại quanh thẩm phán Dorset để tiến hành cuộc họp tại chỗ kéo dài mười tám phút. Đồng hồ trong phòng chỉ mười một giờ hai mươi chín phút khi Bill Tanner đứng lên và bốn mươi bảy phút khi bốn người đàn ông trở về bàn mình, còn báo cáo viên tòa án ngồi lại vào bàn của cô ta. Khi thẩm phán nhận ra rằng cuộc thảo luận sẽ kéo dài hơn dự kiến, ông yêu cầu dẫn bồi thẩm đoàn ra khỏi phòng trong thời gian tranh luận. Nhưng không ai nghĩ đến việc cho mẹ tôi cơ hội trở về chỗ ngồi của bà, vì thế bà buộc phải ngồi một mình trong bục nhân chứng suốt thời gian đó, tựa như bà bị cho đội mũ tai lừa và bảo đứng ở góc lớp học. Bà chỉ nhìn vào phòng xử hoặc nhìn lên chiếc đèn chùm, không biểu lộ cảm xúc gì, tay chống cằm, nhưng bà có liếc nhìn một lần về gia đình chúng tôi và lóe một nụ cười.Đau ơi là đau ấy nhỉ? nụ cười le lói đó ngầm nói, và trong đầu tôi, tôi nghe giọng bà nói chính xác những từ đó với tôi, gợi nhớ về nhiều năm trước, khi tôi đang đứng trên băng ghế của chiếc bàn ngoài trời đặt ở sân sau nhà chúng tôi và trượt ngã, đập cùi chỏ lên mặt bàn. “Đau ơi là đau ấy nhỉ?” bà đã xuýt xoa, dùng hai ngón tay xoa lên làn da chuyển thành màu tím bầm không lâu sau đó của tôi. Khi Stephen trở lại bàn, ông trông có vẻ cau có. Khoảng cách từ ghế chủ tọa đến bàn ông rất ngắn, nhưng ngay cả trong những bước ít ỏi đó, rõ ràng ông đã đánh mất trong thoáng chốc phong độ nhỉnh hơn một bậc của mình. Thẩm phán viết lại một ghi chú trước khi thông báo đến chúng tôi quyết định của ông, rồi sau đó nói kết hợp bằng cả thuật ngữ pháp lý cho các luật sư và thuật ngữ thông thường cho chúng tôi. Có vẻ như trong cuộc họp, Tanner đã đòi mẹ tôi trình các quyển nhật kí để chính quyền bang có thể xem xét trong đó có gì. Stephen đã lập luận rằng chúng chẳng liên quan gì đến sự kiện này, và không có chi tiết y học nào trong đó đáng để bận tâm. Nhưng Tanner vẫn quả quyết rằng dù sao đi nữa, chính mẹ tôi là người đề cập đến chúng, và bà đã đề cập đến chúng để củng cố lời khai của mình. Vì thế thẩm phán Dorset quyết định rằng ông muốn có trong tay toàn bộ những quyển nhật kí từ tháng ba trở về sau vào lúc kết thúc giờ nghỉ trưa. Phiên tòa sẽ tiếp tục sau khi ông đã đích thân kiểm tra chúng dưới sự giám sát của máy quay - trong phòng làm việc của ông. “Tôi sẽ kết luận chuyện gì có liên quan, nếu có,” ông kết luận. Sau đó ông bảo với chúng tôi rằng bồi thẩm đoàn sẽ được đưa vào phòng xử trở lại và mẹ tôi phải hoàn tất phần cung khai trực tiếp; khi bà nói xong, chúng tôi sẽ nghỉ cho đến khi ông xem xong các quyển nhật kí. “Thưa quý tòa, xin chờ một chút,” Stephen nói, và thẩm phán gật đầu. Stephen sau đó ra hiệu cho Patty cùng Peter Grinnel đến bàn ông. Ba người thì thầm với nhau một lúc, sau đó Stephen đề nghị được tiếp cận mẹ tôi. Thẩm phán một lần nữa gật đầu, và Stephen đi nhanh về phía mẹ tôi rồi hỏi bà một câu mà chúng tôi không nghe thấy. Nhưng tất cả chúng tôi đều nghe được câu trả lời, và tôi bắt đầu nhận ra điều gì sắp xảy đến sau đó. “Chúng ở ngay sau bàn làm việc của tôi,” mẹ tôi nói. “Chúng ở trên một cái kệ sách, ngăn dưới cùng.” Tôi có biết chính xác vào lúc đó chuyện mình sắp làm không? Tôi không tin là thế; ý nghĩ ấy chỉ mới bắt đầu hình thành thôi. Nhưng chỉ với một ý thức mơ hồ, tôi vẫn biết bước đầu tiên phải là gì. Bố tôi, bà tôi, và tôi bị ngăn cách khỏi bàn bị cáo bởi một sợi dây thừng nhung màu đen - loại rào chắn thường ngăn các phòng ngủ trong những tòa nhà di tích lịch sử. Lần đầu tiên và duy nhất trong suốt phiên tòa, tôi đã nhổm khỏi ghế, chồm về trước, gần như ngồi xổm, và vỗ vào sau vai Peter Grinnel. Khi ông ta quay sang, tôi thì thầm, “Chú ơi, nếu chú cần giúp gì, thì cháu sẽ đi với chú. Cháu biết chúng để ở đâu.” Stephen vẫn phải kết thúc phần hướng dẫn cung khai cho mẹ tôi, vì thế Peter ngồi lại cùng ông trong phòng xử án. Patty Dunlevy được cử đến Reddington để lấy các quyển nhật kí. Tôi đi cùng cô điều tra viên, cảm thấy ngạc nhiên khi mình đang ngồi ở ghế trước trong chiếc xe nhỏ bé sành điệu của cô. Tôi tự nhủ mình chưa phạm phải điều gì, mình chưa phải là một tội phạm; tôi vẫn, trong mắt mọi người xung quanh, chỉ đang về nhà mình với Patty Dunlevy để chỉ cho cô ấy chỗ mẹ tôi cất những quyển sổ, để chúng tôi có thể đem chúng về tòa án như thẩm phán đã yêu cầu. Nhưng tôi đang ở đấy, cố gắng phớt lờ tiếng tim đập thình thịch trong đầu, chỉ tập trung vào những gì tôi đã đọc được vào khuya thứ tư đó. Tôi cố gắng nhớ lại ngày tháng nào có thể buộc tội nhất, bài viết nào có nguy cơ - như các luật sư và thẩm phán đã nói một cách hoa mỹ - có liên quan nhất. Đến thời điểm đó, cây cối hai bên đường đã rụng hết lá, một dấu hiệu nhỏ cho thấy thế giới đã biến đổi ra sao trong suốt thời gian chúng tôi quay cuồng trong phòng xử án. Tôi nghĩ đến sự giam giữ tệ hại hơn rất nhiều đang chờ đón mẹ tôi. “Cháu cảm thấy thế nào?” Patty hỏi, giọng nói vang lên thiên hướng làm mẹ mà tôi chưa hề nghĩ là có ở cô. “Ổn ạ,” tôi đáp, tập dượt trong đầu mình sẽ nói gì khi chúng tôi về đến nhà: Cô đợi ở đây nhé, cháu sẽ chạy vào nhà lấy chúng ra. “Chuyện mới xảy ra vẫn thường xuyên xảy ra. Cố gắng đừng lo lắng nhé. Một phiên tòa như thế này lúc nào cũng có một ít xáo trộn,” cô nói tiếp. “Vâng ạ.” Như tôi nhớ, có thể có ba quyển sổ đóng khoen rời khiến thẩm phán Dorset bận tâm: Những bài viết vào tháng ba ở cuối một quyển sổ; đầu tháng tư đến tháng tám ở quyển thứ hai; và tháng tám đến tháng chín ở đầu quyển thứ ba. Đó là những quyển sổ tôi cần đem đến tòa. “Cuối cùng, đây sẽ chỉ là một... một chú thích nhỏ trong toàn bộ chuyện này,” cô nói. Tôi gật đầu. Cô đợi ở đây nhé, cháu sẽ đi tìm chúng. Cô đừng lo, cháu có thể đem chúng ra. Cô hỏi, “Cháu đói không?” “Không ạ.” Tôi nhẩm tính mình có ít nhất năm phút trước khi Patty bắt đầu thắc mắc tôi đang làm gì. Tôi không biết cô có phải loại người sẽ đi theo tôi vào nhà để giúp nếu tôi không nhanh chóng quay trở lại. “Cô thì đói. Thật là khó tin nhỉ?” May sao, khi mẹ tôi bắt đầu viết nhật kí nhiều năm trước, bà đã chọn những quyển sổ đóng bằng ba vòng khoen và giấy rời. Ngoài ra, từ khi nào không rõ, bà đã hình thành thói quen sang trang mới mỗi khi viết một bài mới. “Cháu nghĩ cháu chẳng nuốt nổi cái gì cả,” tôi nói với cô. Chắc chắn tôi sẽ tháo bài viết ngày 15 tháng ba ra, vì tôi biết có một bài khác vào ngày mười sáu cũng nói về cái chết của Charlotte Bedford. Tôi phải kiểm tra lại cho chắc, nhưng tôi nghĩ có thể mẹ tôi đã viết về chuyện Mục sư Asa ôm đứa bé ở đâu và Anne ngồi ở đâu vào ngày mười sáu. Và có mấy bài tiếp theo sau đó vào mùa hè, những bài cuối tháng bảy và tháng tám, kể cả tháng chín, khi sự nghi ngờ trong bà đã trở nên rõ ràng đến mức chúng không còn là nghi ngờ nữa: Bà gần như đã chắc chắn rằng mình đã giết Charlotte Bedford. Những bài viết đó cũng phải tháo ra luôn. “Chà, sau khi đưa mấy quyển sổ cho thẩm phán Dorset, cô sẽ phải lỉnh ra ngoài kiếm gì để ăn mới được.” Tôi gật đầu. “Cháu có biết mẹ cháu viết gì trong nhật kí không?” “Mẹ chưa bao giờ cho cháu xem cả,” tôi trả lời. Tôi nghĩ lúc đầu Patty định nổ máy xe trong lúc tôi chạy vào nhà, nhưng rồi tôi nghe cô tắt máy trong lúc tôi lóng ngóng tra chìa khóa vào ổ khóa cửa trước. Tôi cần đi vệ sinh, nhưng tôi không dám làm mất thời gian lúc đó. Tôi đi thẳng đến phòng làm việc của mẹ và tìm thấy ba quyển nhật kí mà thẩm phán yêu cầu, rồi mở chúng ra, đặt thành một hàng trên bàn làm việc của bà. Tôi sẽ xem theo thứ tự từ tháng ba trở đi. Tôi đã thoáng nghĩ đến việc lấy khăn giấy Kleenex quấn đầu ngón tay trước khi lật các trang, nhưng rồi tôi nhớ ra các trang giấy đã dính đầy dấu vân tay của tôi từ tuần trước đó rồi. Thế là tôi quyết định sẽ chỉ dùng đến khăn giấy khi tôi đè mạnh tay xuống những miếng kim loại ở trên và dưới của gáy quyển sổ để lấy ra những trang quan trọng. Tom có đề nghị đi cùng chúng tôi, nhưng tôi mừng mình đã từ chối. Tôi cảm thấy quá hổ thẹn về điều mình đang làm rồi; tôi không muốn làm cho ai dính líu thêm vào vụ này nữa. Tôi run lẩy bẩy trong lúc ra tay, giống như một điềm báo cho cơn run lập cập mà tôi đã trải qua khi chúng tôi chờ đợi phán quyết. Tôi không rõ mình đang phạm điều luật gì, nhưng tôi biết việc mình đang làm là phạm pháp. Và tôi biết việc mình đang làm là sai. Khi quay trở lại xe của Patty, tôi vẫn đang run như cầy sấy. Tôi ném ba quyển sổ xuống sàn xe phía dưới hộc đựng găng tay và lấy chân đẩy chúng qua một bên khi leo lên xe. Năm tờ giấy rời, gấp lại bằng cỡ quyển sách bìa mềm, đang được nhét sát vào bụng tôi, giấu dưới lớp áo kiểu, áo len và áo khoác ngoài. “Tất cả sổ sách đây à?” Patty hỏi, liếc xuống các quyển sổ trên tấm thảm sàn xe. “Tất cả đấy ạ,” tôi nói, lần đầu tiên trong ít nhất ba lần tôi còn nhớ mình đã nói ra câu nói dối đó. Lúc chúng tôi quay lại, mẹ đã hoàn thành phần cung khai và phiên tòa đã nghỉ giải lao. Trước khi đem những quyển sổ vào phòng, thẩm phán nói với chúng tôi rằng đến một giờ rưỡi hoặc hai giờ, ông sẽ cho biết liệu chúng tôi có thể kết thúc và về nhà hay là phiên tòa sẽ được nối lại vào xế chiều. Nếu chúng tôi được phép về nhà thì có nghĩa là ông có thể sẽ chấp nhận một số hoặc toàn bộ những quyển sổ, và Stephen và Bill Tanner sẽ được cho một ngày để xem xét các bài viết; nếu chúng tôi được yêu cầu ở lại thì có nghĩa là thẩm phán đã quyết định trong các quyển sổ chẳng có gì liên quan và chính quyền bang sẽ không được phép xem chúng. Stephen đã chuẩn bị tinh thần để thua: ông đã chuẩn bị tinh thần để thua riêng trong chuyện các quyển sổ, và tôi nghĩ ông đã chuẩn bị tinh thần để thua vụ kiện này. Ông biết mẹ tôi đã viết gì trong tháng ba và - có lẽ - đầu tháng tư: Có lẽ ông đã biết rằng nó chỉ ngày một xấu đi mà thôi. Và tôi nghĩ mẹ tôi cũng đã sẵn sàng thua kiện. Lúc đó tôi không tin bà đã lỡ lời trên bục nhân chứng với hi vọng nó sẽ đảm bảo một lời kết án - kể cả đến hôm nay, tôi cũng không nghĩ bà làm thế theo tiềm thức - nhưng tôi nghĩ bà đã trở nên cam chịu trước sự chắc chắn của nó. Với tội lỗi trong đầu, bà hẳn đã xem những quyển nhật kí của mình như tất cả bằng chứng mà chính quyền cần để thuyết phục bồi thẩm đoàn bà đã giết một người phụ nữ trong lúc sinh con. Sự khác nhau trong thái độ của mẹ tôi và Stephen, nếu có đi nữa, chính là Stephen vẫn còn một chút phản kháng trong người. Ông đã sẵn sàng để chống lại quyết định cho phép đưa bất kì phần nào của các quyển nhật kí làm vật chứng, và ông cũng đã thay đổi chiến thuật cho các nhân chứng chuyên gia: Sibyl Danforth nghĩ rằng Charlotte Bedford đã chết hay còn sống không quan trọng, vì bà chỉ đơn giản là một bà mụ mà thôi. Các chuyên gia sản khoa và chuyên viên thẩm nghiệm y lý tư pháp của chúng tôi đều tin rằng, dựa trên số năm kinh nghiệm nghề y của họ, người phụ nữ đó đã chết trước khi mẹ tôi tiến hành vết rạch đầu tiên. Vấn đề cơ bản ông phải vượt qua chính là lời khai của mẹ tôi. Ông đã cẩn thận gợi lên từ bà ý nghĩ rằng bà đã làm mọi việc có thể để xem liệu Charlotte Bedford đã chết hay chưa, mà không để cho bà nói thẳng ra rằng bà tin chắc một trăm phần trăm người phụ nữ ấy đã chết. Với tôi, phần biên bản lời khai đó đã trở thành một nghiên cứu điển hình trong ngành đạo đức luật: HASTINGS: Bà có kiểm tra lần cuối xem người phụ nữ còn mạch không? DANFORTH: Có. HASTINGS: Bà có nghe thấy mạch không? DANFORTH: Không. HASTINGS: Bà có kiểm tra lần cuối xem cô ấy còn nhịp tim không? DANFORTH: Vâng, chắc chắn là có. HASTINGS: Và bà có nghe được nhịp tim không? DANFORTH: Không, tôi không nghe thấy. HASTINGS: Bà đã làm mọi việc có thể để đảm bảo rằng người phụ nữ đã chết? DANFORTH: Ồ, vâng. Mẹ tôi đã không nói dối, nhưng nếu các quyển nhật kí được chấp nhận thì bồi thẩm đoàn sẽ nghĩ rằng bà đã nói dối, và ngay cả chuyên gia của Stephen Hastings cũng không thể cứu vãn uy tín cho bà. Vì vậy, buổi ăn trưa của chúng tôi cực kì tĩnh lặng, ngay cả Patty Dunlevy cũng ỉu xìu trong lúc chúng tôi chờ đợi phán quyết của thẩm phán Dorset. Thỉnh thoảng bố hoặc Stephen lại tìm cách vực dậy tinh thần mẹ như họ đã làm trong những ngày trước khi phiên tòa khai mạc, và một, hai lần Peter Grinnel đã cố làm cho Tom tham gia trò chuyện - người mà, dù bận lo nghĩ bao nhiêu thứ trong đầu, mẹ vẫn nhớ mời ăn trưa cùng chúng tôi - bằng cách hỏi anh về chuyện học hành. Nhưng phần lớn thời gian, mọi người đều ngồi lặng lẽ quanh chiếc bàn gỗ của nhà hàng. Trong khi nỗi lo sợ của những người lớn xung quanh tôi bắt đầu và kết thúc với việc liệu thẩm phán Dorset có cho phép nhận các quyển sổ làm vật chứng hay không, thì tôi còn có thêm một nỗi lo nữa khi chúng tôi đi lên cầu thang đến phòng xử ở tầng ba để nghe phán quyết của thẩm phán. Tôi sợ ông đã phát hiện ra có nhiều trang bị mất, và bằng giọng vô cùng tức giận và phẫn nộ, ông sẽ hỏi Stephen hoặc tôi rằng chúng tôi đã làm gì với chúng. Trong suốt bữa ăn trưa và lúc đi bộ về tòa án, tôi đã chắc mẩm rằng mọi người xung quanh đều nghe tiếng giấy sột soạt dưới lớp áo tôi mỗi khi tôi cử động, và tôi đã tin chắc rằng khi thẩm phán vừa nhìn thấy tôi, ông sẽ biết ngay tôi là đứa chịu trách nhiệm. Khi tôi vào phòng vệ sinh ở nhà hàng, tôi đã nghĩ đến chuyện xé các tờ giấy thành mảnh vụn rồi cho vào bồn cầu và giật nước, nhưng tôi sợ: Nếu thẩm phán phát hiện ra chúng đã biến mất và nhất định yêu cầu phải có chúng, thì sự tồn tại kéo dài của chúng có thể là hi vọng duy nhất của tôi để được khoan hồng. Nhưng khi chúng tôi đi gần phòng vệ sinh nữ ở tòa án, ý nghĩ tiêu hủy chúng lại nảy ra trong đầu tôi, và tôi nói với bố mẹ rằng mình cần đi vệ sinh, sẽ gặp lại mọi người trong phòng xử án sau một phút nữa. Tom hỏi tôi có ổn không, tôi đáp tôi vẫn khỏe. Tuy nhiên, trong nhà vệ sinh của tòa, tôi lại không thể xử lý những trang nhật kí đó, dù lần này không hẳn là nỗi sợ vị thẩm phán ngăn cản tôi. Tôi nghĩ đến một lúc nào đó, mẹ sẽ lấy những quyển nhật kí ấy lại: dù khó có khả năng tôi sẽ ấn mở gáy rồi đặt chúng vào các quyển nhật kí trước khi bà nhận ra chúng đã biến mất, nhưng ít ra tôi vẫn có thể trả chúng lại cho bà. Một ngày nào đó, tôi hình dung bà sẽ tha thứ cho tôi vì đã đọc chúng - nhất là, tôi lý lẽ, nếu nhờ một phép màu nào đó mà bà được tuyên trắng án. Nhưng tôi đã đọc lại các trang một lần nữa trong nhà vệ sinh, và khi đó tôi trấn an mình rằng tôi đang thực hiện một quyết định đúng đắn: Tôi phải làm tất cả để bảo vệ mẹ mình và giữ gìn gia đình chúng tôi. Vả lại, lời kết án dành cho mẹ tôi cũng không thể đem Charlotte Bedford trở lại. Nó chỉ hủy hoại thêm một người phụ nữ nữa mà thôi. Bồi thẩm đoàn không có mặt khi thẩm phán Dorset công bố phán quyết, nhưng hầu hết những người tham dự phiên tòa đều đã có mặt. Tất nhiên, không ai trong chúng tôi có thể nhìn thấy nét mặt của Stephen hoặc mẹ tôi khi thẩm phán tuyên bố, nhưng tôi cho rằng nếu những người dự khán có hình dung gì đi nữa, thì họ cũng chỉ hình dung được sự nhẹ nhõm: Thẩm phán quyết định rằng không có gì trong các quyển nhật kí liên quan đến lời khai của mẹ tôi nói riêng, hoặc đến vụ án nói chung. Các quyển sổ chỉ là ghi chép cá nhân về cuộc sống của bà song có rất ít liên hệ đến các vấn đề cần xem xét, do đó không cần chia sẻ chúng với chính quyền bang. Liệu thẩm phán Dorset - người có thể nhìn trực diện Stephen và mẹ tôi - có nhìn thấy rằng ngoài sự nhẹ nhõm còn có thêm sự ngạc nhiên nữa? Ông là một người thông minh, vì thế tôi chắc chắn rằng ông đã nhận ra. Tôi chắc chắn ông đã nhìn thấy sự bất ngờ trong ánh mắt họ: Mẹ tôi biết chính xác mình đã viết gì vào những thời điểm khác nhau trong bảy tháng qua, và họ đều biết bà đã viết gì vào ngày 15 tháng ba. Mẹ tôi và Stephen hẳn đã nghĩ rằng họ được ban tặng - không thể lý giải được, không có lý do nào - một món quà bất ngờ từ thẩm phán, một món quà trở nên có thật khi một nhân viên tòa án đem ba quyển sổ màu xanh đến bàn bị cáo và đưa chúng cho mẹ tôi. Một lát sau, bồi thẩm đoàn được đưa vào phòng xử, mẹ tôi trở lại bục, và Bill Tanner bắt đầu phần đối chất.