← Quay lại trang sách

- 21 -

Tôi không thể đảo ngược những gì đã làm, hoặc những gì tôi hẳn đã làm. Tôi nghĩ chẳng còn có gì để tôi sửa chữa. trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth

PHẦN ĐỐI CHẤT CỦA TANNER thường rất ác liệt và đôi khi đê tiện. Lão cáu tiết khi các quyển sổ không được chia sẻ với chính quyền bang, và cơn thịnh nộ của lão rất mãnh liệt. Tuy nhiên mẹ tôi vẫn chịu đựng và thậm chí ngắt lời Tanner một vài lần. Một lần bà nhắc lão nhớ rằng xét về tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh, số liệu của bà tốt không kém số liệu các bác sĩ sản khoa khác; một lúc sau bà lưu ý rằng những đứa trẻ do bà đỡ đẻ ít có nguy cơ bị nhẹ cân. Thậm chí bà còn kể lại được bà đã nỗ lực hết sức thế nào để cứu Charlotte, và chỉ tiến hành mổ lấy thai vì dường như không còn lựa chọn nào khác. “Lúc đó tôi đã làm ít nhất tám hoặc chín lần,” bà nói với Tanner, nhắc đến số lần hô hấp nhân tạo bà đã thực hiện trên người Charlotte, “và tôi vẫn không nghe được nhịp tim của cô ấy - nhưng tôi nghe được nhịp tim của thai nhi. Tôi phải làm gì bây giờ, để cho cả hai người chết à?” Tôi sẽ không nói mọi lời khai của bà đều hùng hồn, nhưng đã có một số phần nói chuyện đầy khí thế, và bà đã lấy lại được sự rõ ràng từng thể hiện vào đầu buổi sáng hôm đó. Và Tanner không hề hỏi câu hỏi mà tôi lo sợ - và có thể là câu hỏi mà mẹ tôi và Stephen sợ nhất: Liệu bà có tuyệt đối không hề nghi ngờ rằng Charlotte Bedford đã chết khi bà tiến hành mổ lấy thai không? Nhưng Tanner không biết mẹ tôi viết gì trong nhật kí, vì thế lão cho rằng không hề có mối nghi ngờ nào. Hỏi bà câu ấy trước mặt bồi thẩm đoàn sẽ chỉ gây tổn hại cho vụ kiện của chính quyền bang, vì như thế là cho bà thêm một cơ hội nữa để nói rằng Charlotte đã chết khi bà chọn cách cứu mạng đứa bé. Dù có vài điểm lóe sáng trong buổi chiều hôm đó, cuộc đối chất của mẹ tôi và phần còn lại của phiên tòa vẫn có vẻ như đều đều, không có cao trào đối với tôi. Tối thứ tư, tôi đem những quyển nhật kí của mẹ từ xe vào nhà cho bà và đề nghị được cất chúng lại kệ sách. “Con thật là đáng yêu,” bà nói. “Cám ơn con.” Tôi vuốt phẳng hết cỡ những trang mà tôi đã tháo ra trước khi gắn chúng vào các quyển sổ, nhưng nhìn là biết đã có người từng gỡ chúng ra. Dường như mẹ không viết gì thêm vào nhật kí tối hôm đó, và bà đã quá mệt nên thậm chí chẳng xem lại chúng trước khi đi ngủ. Ngày hôm sau, thứ năm, các bác sĩ sản khoa và chuyên viên thẩm nghiệm y lý tư pháp của chúng tôi đều nói bằng cách này hoặc cách khác rằng theo quan điểm của họ, mẹ tôi đã không giết Charlotte Bedford. Nhưng Bill Tanner vẫn đảm bảo làm cho mỗi nhân chứng thừa nhận rằng đã nhận một khoản tiền để ra tòa làm chứng, và rằng những quan điểm đó không phải dựa trên việc tiến hành - hoặc thậm chí là chứng kiến - cuộc giải phẫu tử thi. Tuy nhiên, họ đều là những nhân vật gây ấn tượng, đặc biệt là một người lớn tuổi đến từ Texas từng tiến hành giải phẫu tử thi bốn lần cho những người phụ nữ thiệt mạng trong các ca mổ đẻ không thành, một số ca thực hiện tại các bệnh viện nghèo xác xơ ở biên giới Mexico. Trong suốt thời gian làm việc và trong các cuộc giải phẫu tử thi đau lòng đó, ông chưa bao giờ thấy ít hơn một nghìn một trăm mililít máu trong khoang bụng - nhiều hơn số lượng mà bác sĩ Tierney của Vermont tìm thấy trong người Charlotte Bedford. Và rồi vào thứ sáu, các luật sư trình bày phần biện luận kết thúc, dù họ nói rất lưu loát, rõ ràng cả người đi câu cá bằng côn trùng lẫn cựu binh Việt Nam đều đã đuối sức. Tôi cứ nghĩ phần biện luận sẽ kéo dài cả ngày - hoặc ít nhất cũng phải cả buổi sáng - và tôi đã sai. Phần biện luận kết thúc lúc mười một giờ kém mười lăm, và bồi thẩm đoàn nhận được chỉ thị của thẩm phán lúc mười một giờ rưỡi. Họ bắt đầu phần nghị án trước giờ nghỉ trưa. Chúng tôi nghĩ phần nghị án sẽ kéo dài, vì thế chúng tôi về nhà. Stephen mời chúng tôi đi ăn trưa, nhưng mẹ tôi nói bà không đói. Và thế là chúng tôi - gia đình Danforth và các luật sư - rời tòa án, nghĩ rằng sẽ chia tay nhau ở bãi đỗ xe phía bên kia đường. Ngay trước khi chúng tôi leo lên chiếc xe nhà ga, lúc Patty đang kể với bà ngoại và tôi chuyện gì đó về những năm tham gia đội tuyển chạy ngắn của trường phổ thông khi cô ở khoảng tuổi tôi, tôi nghe bố hỏi Stephen nếu phần nghị án kéo dài đến cuối tuần thì sao. “Toàn bộ chuyện này có nhiều điều khó lý giải lắm.” ông nói với bố mẹ tôi. “Thông thường, một cuộc nghị án kéo dài thì không tốt cho bị cáo. Nếu bồi thẩm đoàn cho người ta về nhà một thời gian dài, thì điều đó có nghĩa là họ muốn chắc chắn không còn nghi ngờ gì về tội lỗi của người đó. Và điều đó có thể tốn thời gian. Nhưng tôi cũng đã chứng kiến nhiều vụ, kể cả các vụ giết người cấp độ một, mọi việc được tiến hành rất nhanh chóng, bồi thẩm đoàn quay lại với một lời kết án chỉ sau hai hoặc ba giờ.” “Còn vụ này?” bố tôi hỏi. “Tôi chẳng biết nữa. Nhưng có rất nhiều cái gọi là lời khai của chuyên gia mà họ phải cân nhắc kĩ lưỡng, và với tôi điều đó có nghĩa là họ sẽ cần thời gian.” “Cần đến cuối tuần?” “Có thể. Nhưng giờ thì chúng ta chỉ biết rằng đúng lúc về đến nhà, mọi người sẽ nhận được điện thoại của tôi nói mọi người quay lại và đến tòa ngay.” “Anh có quay về Burlington không?” “Không.” “Anh ở lại Newport à?” “Đúng vậy.” “Vậy theo ý anh, có khả năng họ sẽ thống nhất một phán quyết vào chiều nay.” Ông nhún vai. “Tôi ghét phải về đến Burlington và họ ra phán quyết vào khoảng bốn giờ. Như thế thật không công bằng với anh chị.” “Với chúng tôi?” “Thẩm phán Dorset sẽ không cho phép họ đọc phán quyết nếu tôi không có mặt. Và anh chị cũng không muốn nó được đọc khi không có tôi. Nếu tôi không thể quay lại đây trước năm giờ - muộn nhất là năm giờ mười lăm - thì ông ấy sẽ phải đợi đến sáng thứ hai mới cho phép tuyên bố phán quyết. Và như thế thì thật không công bằng với chị, Sibyl ạ. Với tất cả mọi người.” “Ừ, tôi nghĩ thế thật không công bằng,” bố tôi đồng tình. “Không, không hề.” “Nhưng chuyện ‘khó lý giải’ đó,” bố tôi nói. “Còn nhiều không?” Stephen mỉm cười. “À, một số luật sư nghĩ rằng có thể biết bồi thẩm đoàn đã ra phán quyết gì vào giây phút họ quay lại phòng xử án sau khi nghị án. Nếu họ nhìn bị cáo, thì anh ta sẽ được tuyên trắng án. Nếu họ không nhìn anh ta - nếu họ không sẵn sàng hoặc không thể nhìn anh ta - anh ta sẽ bị kết án.” “Theo kinh nghiệm của anh?” “Theo kinh nghiệm của tôi ư? Đừng tin làm gì, chỉ là chuyện đồn thổi thôi.” Đó là ngày duy nhất trong suốt phiên tòa mà chúng tôi chở bà ngoại đến tòa, vì thế trước khi rời khỏi Newport, chúng tôi đã thảo luận ngắn xem nên đến nhà bà hay là về nhà chúng tôi để đợi. Mẹ tôi thì muốn về nhà, thế là chúng tôi quyết định đi Reddington. “Anh muốn đi cùng chúng tôi không, Stephen?” mẹ hỏi. “Mọi người muốn đi cùng chúng tôi không? Sẽ chỉ có bánh mì sandwich thôi, nhưng...” Stephen suy nghĩ một lúc, nhìn các cộng sự của mình - Patty, Peter và hai luật sư tập sự - rồi sau đó nhìn bố tôi. Tôi biết chắc bố không vui trước chuyện luật sư của mẹ và đoàn tùy tùng của ông ta đổ bộ lên nhà chúng tôi một lần nữa, nhưng lời mời đến từ vợ ông, vì thế ông chỉ mỉm cười với Stephen. “Được thôi,” Stephen nói, “như thế cũng được.” Liệu tôi có suy sụp tinh thần như tôi đã suy sụp nếu phán quyết được đưa ra trong tuần sau đó, liệu tiếng gào thét của tôi có to như thế nếu bồi thẩm đoàn nghị án qua cuối tuần? Liệu chờ đợi trong cuối tuần - và do đó phải chịu đựng điều khó lý giải là một cuộc nghị án dài đồng nghĩa với việc kết tội - có gây ra kiểu bùng nổ cảm xúc tương tự như vậy hay không? Có thể có, nhưng chúng tôi sẽ không tài nào biết được, vì chúng tôi nhận cuộc gọi lúc ba giờ ba mươi báo tin chúng tôi phải quay lại tòa án. Với sự hiện diện của mẹ tôi, không ai dám nói ra phán đoán của mình rằng một cuộc nghị án kéo dài bốn giờ thực sự có ý nghĩa gì, nhưng tôi biết lần đầu tiên trong hơn một tuần qua, tôi đã cảm thấy rằng có khả năng mẹ sẽ được minh oan. Tôi đoán Patty Dunlevy cũng cảm thấy tương tự, và có vẻ như Stephen đã lấy lại được phong độ. Nhưng không ai nói những điều như thế với mẹ tôi. Trong một cuộc trò chuyện lạ lùng nhất mà tôi nghe thấy trong toàn bộ thời gian trước khi phiên tòa diễn ra và hai tuần nó diễn ra, bà ngoại đã hỏi mẹ khi chúng tôi lái xe quay lại tòa án, “Con có bao giờ nghĩ đến việc lắp thêm một cái cửa sổ ở phòng khám bệnh của con không? Mẹ nghĩ thêm ánh sáng sẽ làm cho căn phòng tươi tắn hơn.” “Con chưa nghĩ đến,” mẹ tôi đáp, có vẻ như đang nghĩ ngợi về một tương lai phần nào khác với tưởng tượng của chúng tôi. “Nhưng có thể một ngày nào đó khi các tấm áp phích thai phụ đó được tháo ra, con sẽ dán một ít giấy dán tường có hoa. Giấy dán tường với hoa diên vĩ chẳng hạn. Rất nhiều rất nhiều hoa diên vĩ xanh.” Nghĩ lại, tôi cho rằng chính tốc độ của cuộc nghị án đã dẫn đến tiếng khóc của tôi trong phòng xử. Đến lúc chúng tôi quay lại Newton và đi lên cầu thang trong tòa án, đến lúc thẩm phán nói với những người dự khán rằng ông sẽ không chấp nhận “bất kì sự kịch tính, sự náo loạn, hoặc phản ứng thái quá nào đối với phán quyết” khi nó được đọc, đến lúc ông yêu cầu một trong các chấp hành viên tòa án dẫn bồi thẩm đoàn trở lại khu ghế ngồi dài của họ còn chúng tôi đứng dậy từ hàng ghế của mình, tôi đã kết luận rằng mẹ tôi sẽ được tuyên vô tội đối với tội danh quan trọng nhất: bất cẩn gây chết người. Tôi nghĩ mình không thực sự bận tâm nếu bà bị tuyên có tội với tội nhẹ còn lại, đó là hành nghề y không giấy phép. Tuy nhiên khi bồi thẩm đoàn được đưa vào, điều đó đã thay đổi. Nó thay đổi hoàn toàn. Không ai trong số mười hai bồi thẩm viên nhìn mẹ tôi cả. Họ nhìn thẳng về trước lúc bước vào, họ nhìn xuống giày mình khi ngồi xuống. Họ nhìn đồng hồ trên tường, họ nhìn ra hồ. “Mời ngồi,” thẩm phán nói với chúng tôi khi bồi thẩm đoàn đã quay lại. “Xin chào mọi người,” ông nói với bồi thẩm đoàn, rồi sau đó quay lại một chấp hành viên tòa án. “Thưa cô Rivers, cô có giữ phong bì dán kín có các mẫu phán quyết bên trong không?” “Có, thưa quý tòa.” “Cô vui lòng trao chiếc phong bì đó lại cho chủ tịch bồi thẩm đoàn được không?” Mẹ tôi ngồi bất động giữa Stephen và Peter, hai tay bà đan chặt vào nhau, đặt trên chiếc bàn trước mặt. Bên cạnh, tôi thấy hai tay bà ngoại đang run. “Ông chủ tịch bồi thẩm đoàn, xin vui lòng xem lại phong bì với các mẫu đơn bên trong.” Ông chủ tịch có một bàn tay lành lặn, bàn tay kia chỉ có một ngón cái. Nhưng sau nhiều năm, có vẻ như ông đã trở nên khéo léo với sáu ngón tay của mình: Với bàn tay dị dạng, ông dùng ngón cái và bàn tay để cầm phong bì, với bàn tay kia ông lật qua các tờ giấy. “Đó có phải là những tờ đơn mà quý vị đã kí không? Chúng có theo thứ tự không?” Thẩm phán Dorset hỏi. Ông chủ tịch nhìn thẩm phán rồi gật đầu. Và vẫn không một bồi thẩm viên nào nhìn mẹ tôi lấy một lần. Một lần ngắn ngủi cũng không. Họ thậm chí không nhìn cả bố tôi hoặc tôi. Làm ơn, tôi thầm cầu nguyện, làm ơn, hãy nhìn tôi, hãy nhìn mẹ tôi. Hãy nhìn chúng tôi, nhìn đây, nhìn đây, nhìn đây.Nhưng chẳng ai nhìn. Rồi một người, người đàn bà lớn tuổi họ Lipponcott, nhìn về phía Bill Tanner, và tôi biết mọi chuyện đã kết thúc, chúng tôi đã thua. Mẹ tôi sẽ bị tuyên có tội, mẹ tôi sẽ vào tù. Hành động ăn cắp những trang nhật kí của mẹ tôi chỉ đơn thuần là một cử chỉ vô nghĩa nữa trong một bi kịch vô nghĩa. Charlotte Bedford đã chết, và cuộc đời mẹ tôi như thế là hết. Bà sẽ đi tù, bà sẽ không bao giờ đỡ đẻ nữa. Và đó là khi tôi bắt đầu khóc. Không hẳn chỉ vì sức ép khiến tôi gào lên và khóc lóc, không hẳn là sự chờ đợi hay sự căng thẳng hay sự lo âu. Mà chính là ý nghĩ rằng chuyến đi tàu lượn cuối cùng đã kết thúc, và nó đã về đích với một đoàn tàu rất dài - một số chở theo gia đình Bedford và một số chở theo gia đình Danforth - nện lên những trụ đỡ thẳng đứng được dựng lên để đưa chúng tôi lên tít trên cao, qua khỏi những nỗi sợ dốc đứng trên mặt đất. Tôi đã không có mặt khi phán quyết được tuyên bố, tôi ở cạnh bà ngoại, Cheryl Visco và Patty Dunlevy trong một phòng họp nhỏ cách xa cuối hành lang. Tôi nghe kể rằng khi thẩm phán yêu cầu mẹ tôi đứng lên và đối mặt với bồi thẩm đoàn, Stephen đã đỡ bà dậy. Một số người có mặt kể với tôi rằng ông đã nắm cùi chỏ tay bà khi phán quyết được tuyên bố, nhưng những người khác thì không chắc lắm. Với bố tôi ở ngay sau lưng ông, tôi không tin Stephen lại làm một việc như thế. Nhưng tôi đã sai về quá nhiều chuyện; có lẽ ông đã làm thế. Nếu mẹ tôi tin điều khó lý giải về các bồi thẩm viên mà Stephen kể trước đó trong bãi xe, nếu bà nhận thấy không ai trong số họ nhìn bà, thì bà hẳn phải hết sức bất ngờ trước phán quyết. Tôi nghe kể bà đã khẽ gật đầu và thở dài, và sự nhẹ nhõm của gia đình tôi đã được bố tôi thể hiện một cách rõ rệt hơn rất nhiều: Ông lẩm bẩm một tiếng “Cám ơn” to đến nỗi những người ở hàng ghế thật xa phía sau vẫn nghe thấy, và ông ngước nhìn lên trần nhà với lòng biết ơn và sự nhẹ nhõm. Một giây dài sau đó, khi mọi người trong phòng xử án đã tiếp nhận phán quyết, có một sự phản ứng đồng thời mà thẩm phán đã quyết định không cản trở: Chị gái, mẹ của Charlotte và các bà mụ bắt đầu khóc. Các bà mụ khóc vì sung sướng, còn gia đình Fugett nức nở vì người em gái, con gái và người bạn quá cố của họ. Một số nhân chứng bị tách ra khỏi phòng xử án trong phần lớn thời gian phiên tòa diễn ra, những người như Mục sư Asa Bedford, Anne Austin và B.P. Hewitt, đều có mặt khi phán quyết được công bố, nhưng không ai thể hiện phản ứng nhiều. Cả Mục sư Asa cũng không. Ông ôm mẹ của Charlotte và vỗ về bà, nhưng khuôn mặt ông vẫn bình thản. Sau đó Bill Tanner cố gắng nói thêm rằng dù mẹ tôi được tuyên trắng án với tội danh bất cẩn gây chết người, bồi thẩm đoàn vẫn gửi đi một thông điệp quan trọng đến các bà mụ về chuyện sinh đẻ tại nhà: Họ đã tuyên bà có tội với tội danh hành nghề y không giấy phép, ông nói đó là một tín hiệu cho thấy các bồi thẩm viên Vermont không hề thích thú với ý nghĩ đẻ con tại nhà. Tuy nhiên, tối hôm đó, các bà mụ lẫn bố tôi đều chẳng hề bận tâm việc mẹ tôi bị tuyên có tội với tội nhẹ kia. Một mức phạt hai trăm đô la tuyệt đối chẳng là gì so với một lời kết tội ngộ sát, và một lần nữa những người lớn lại bật băng nhạc tiệc tùng tại nhà chúng tôi, trong khi tôi nằm cuộn mình trên ghế sofa giữa sự huyên náo của họ và nhấm nháp trà thảo dược cho đến gần giữa đêm. Kể cả bảy năm sau phiên tòa, nhiều bà mụ bằng hữu của mẹ vẫn sợ rằng quyết định đi học trường y của tôi sẽ khiến nhiều người cho là một sự lên án đối với sinh đẻ tại nhà. Nhưng sự thật không phải thế. Tôi trở thành bác sĩ sản phụ khoa ít nhất một phần bởi vì quyền chọn đẻ con tại nhà của một phụ nữ là quan trọng đối với tôi, và tôi muốn đảm bảo rằng luôn luôn có bác sĩ túc trực để ủng hộ quyết định đó. Tôi biết còn những lý do khác nữa, nhưng các lý do đó khó nói ra hơn: Chúng bắt đầu, ở một chừng mực nào đó, với ham muốn được ở gần em bé mãnh liệt đến độ có lẽ đã trở thành di truyền, nhưng chúng còn sâu sắc hơn thế. Một nhu cầu được biết toàn diện chính xác khi nào thì một người còn sống và khi nào thì một người đã chết. Sự chuộc tội. Một sự căm ghét cùng cực với chuyện mổ lấy thai, kết hợp với một nghề nghiệp đòi hỏi tôi phải tiến hành thủ thuật đó thường xuyên. Sự bù đắp. Sự bồi thường. Sự công bằng. Một số đồng nghiệp của mẹ biết tôi sẽ viết quyển sách này, và giờ đây họ lo sợ rằng lời kể của tôi sẽ bị nghề nghiệp của tôi ảnh hưởng. Trong mắt họ, tôi không phải là người nên kể câu chuyện của mẹ tôi, và họ muốn tôi để nó yên. Nếu họ biết điều tôi biết, nếu họ đã đọc các quyển nhật kí và biết rằng tôi đã ăn cắp những bài viết quan trọng, thì cảm giác của họ sẽ còn hơn cả sợ: Họ sẽ nổi trận lôi đình. Họ chắc chắn sẽ không muốn chuyện này được kể lại. Nhưng vào ngày thứ tư của tuần thứ hai của phiên tòa, câu chuyện của mẹ tôi cũng đã trở thành câu chuyện của tôi. Giờ đây tôi biết mẹ sẽ muốn câu chuyện của chúng tôi được kể lại. Bà phát hiện có người đã gấp các trang giấy từ những quyển sổ của bà vào thứ hai sau khi phiên tòa kết thúc, chỉ ngay sau khi tôi đi học và bố đi làm. Dường như suy nghĩ đầu tiên của bà là thẩm phán Dorset đã tháo chúng ra khỏi khoen để đọc kĩ hơn, và ông là người đã làm nhàu chúng. Nhưng ý nghĩ thẩm phán dành thời gian cho những bài viết ấy rồi sau đó ra phán quyết những quyển sổ không liên quan thật là vô lý, thực sự không có lý một chút nào. Và thế là ý nghĩ một người khác chịu trách nhiệm, và người khác đó có thể là tôi, nảy ra trong đầu bà. Đến giữa buổi sáng, bà đi ra cửa hàng bách hóa để mua báo, và sự nghi ngờ của bà về tôi lớn dần. Cuối một bài viết phân tích phiên tòa, một bồi thẩm viên đã nhắc đến các quyển nhật kí. “Tất cả chúng tôi đều biết thẩm phán đã đọc nhật kí của bà ấy trong thời gian giải lao - điều đó là khá rõ ràng,” vị bồi thẩm viên nói. “Vì thế chúng tôi chờ đợi sẽ được nghe bà ấy viết gì. Nhưng rồi thẩm phán đọc nó và chẳng thấy điều gì có thể buộc tội được trong đó cả. Tôi không thể nói thay mọi người, nhưng điều đó rất quan trọng với tôi.” Khi tôi đi học về, mẹ chặn tôi lại. Bà nói thật tình không biết nên thất vọng về tôi hay tự hào không nói nên lời. Một mặt, bà thấy cô con gái của mình là một cô bé mới lớn tự tiện đọc nhật kí riêng tư của người khác rồi sau đó cả gan phạm luật và cản trở luật pháp. Mặt khác, bà kinh ngạc trước sự can đảm của tôi và rủi ro tôi sẵn sàng chấp nhận vì bà. Bà nói dù thế nào bà vẫn yêu tôi, nhưng rồi bà hỏi tôi một câu cho thấy thêm một cảm xúc nữa đang nhộn nhạo trong người bà: “Bây giờ con nghĩ gì về việc mẹ đã làm?” Tôi nói với mẹ tôi rất mừng vì bà đã cứu đứa bé, nhưng câu trả lời của tôi thật vô nghĩa. Cả hai chúng tôi đều hiểu rằng chính câu hỏi mới đáng quan tâm, nó là câu hỏi cho thấy rõ cuộc sống chúng tôi với tư cách mẹ và con gái đã thay đổi mãi mãi: tôi mười bốn tuổi, và tôi biết nỗi sợ khủng khiếp nhất của mẹ. Trước khi bố về nhà, mẹ thực ra đã đề nghị tôi chủ động tự thú chuyện mình đã làm. Tôi chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; mức phạt sẽ không quá nghiêm khắc, bà nói thế. Có thể là vào trường cải tạo. Bà không nói nghiêm túc - như tôi đã làm tất cả để bảo vệ bà, mẹ tôi sẽ làm tất cả để bảo vệ tôi - nhưng trong vài giờ đồng hồ, tôi đã trốn trong phòng như một con mèo con sợ sệt, tin rằng mẹ tôi đang tâm hủy hoại cả hai chúng tôi bằng chiến thuật hi sinh gia đình vì đại nghĩa. Thực tế bà không hề nói gì với bố về việc tôi đã làm. Khi lên phòng gọi tôi xuống ăn tối, bà nói chúng tôi sẽ không bao giờ nhắc lại chuyện đã trở thành tội lỗi của chúng tôi. Và cho đến khi mẹ bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi hai năm trước, chúng tôi đã không nói gì. Mãi đến buổi chiều hóa trị thứ ba - một trong những ngày tôi lái xe chở bà đến bác sĩ chuyên khoa ung thư ở Hanover, New Hampshire, và có mặt cạnh bà khi chất độc được truyền vào tay bà - bà mới nhắc đến tên của Charlotte Bedford. “Cô ấy có phải là lý do con trở thành bác sĩ không?” mẹ tôi hỏi. “Hay là vì mẹ?” “Chắc là cả hai.” Bà gật đầu, nhìn ống dây trong suốt nối vào một cây kim rồi vào da bà. “Mẹ đã không mở nhật kí ra trong nhiều năm rồi. Mẹ cho chúng vào hộp khi con đi học cao đẳng. Chắc là con biết chuyện đó, phải không?” Tôi trợn tròn mắt. “Chắc là con biết đấy.” Không lâu sau khi nộp phạt, mẹ tôi trở lại nghề bà mụ. Bà làm được gần một năm, và trong một khoảng thời gian, cuộc đời bà đầy ắp hoạt động, nếu không muốn nói chính xác là niềm vui. Có những buổi khám thai và tư vấn sức khỏe, những phụ nữ - đôi khi phụ nữ và đàn ông - lui tới nhà chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều nhận thấy bà sẽ có thể phục hồi nghề của mình. Nhưng rồi các khách hàng mới của mẹ bắt đầu đến ngày khai hoa nở nhụy, và bà phải bắt tay đỡ đẻ trở lại. Bà nhận ra trong ca đỡ đẻ đầu tiên rằng cảm giác gần như mê đắm mà sự sinh nở từng đem lại cho bà đã bị thay thế bằng nỗi sợ hãi. Mỗi khi bà khuyến khích một thai phụ rặn, bà lại nghĩ đến Charlotte; mỗi khi bà đặt bàn tay ấm áp lên bụng một thai phụ đang chuyển dạ, bà lại nhớ đến đường vẽ tưởng tượng bà từng vẽ bằng móng tay từ rốn đến xương mu Charlotte. Vì thế bà dừng lại. Bà đỡ đẻ đứa bé cuối cùng vào một buổi chiều đầy nắng đầu tháng mười một, sau một cơn chuyển dạ khó nhọc nhưng ngắn ngủi, và nhìn chung không gặp sự cố gì. Bà kịp về nhà để ăn tối, bố, mẹ và tôi ăn tối cùng nhau. Chúng tôi biết đó là ca đẻ cuối cùng, và bố đã nâng ly chúc mừng mẹ và tất cả những điều đẹp đẽ mà bà đem đến cho cuộc đời này. Trong một thời gian ngắn, một tin đồn lan truyền ở Vermont rằng mẹ tôi đã bỏ nghề nghiệp mà bà yêu quý vì một thỏa thuận nào đấy với Asa Bedford. Tin đồn nói rằng cả ông lẫn gia đình Fugett đều sẽ không xúc tiến một vụ kiện dân sự gây chết oan chống lại mẹ tôi nếu bà đồng ý bỏ nghề bà mụ, nhưng không hề có một thỏa thuận nào cả. Mục sư Asa quyết định không tiến hành kiện dân sự gần như lập tức vì - như ông được dẫn lời trong một bài báo - ông “không quan tâm đến giá trị tính bằng tiền của mạng sống Charlotte.” Vả lại, Mục sư Asa là một người tốt và là một mục sư: Ông biết cũng như mọi người đều biết sự trả thù thực sự thuộc về ai. Dù sao đi nữa, mẹ tôi đã không bao giờ đỡ đẻ sau ca đẻ cuối cùng vào tháng mười một đó. Chính xác như bà đã nói với mẹ của mình, bà tháo những tấm áp phích thai phụ xuống và dán các bức tường ở nơi từng là phòng làm việc của bà bằng giấy dán tường in hình hoa diên vĩ xanh. Sau đó bà đọc sách trong căn phòng ấy, may chăn trong căn phòng ấy, và tôi biết khi căn nhà yên tĩnh, bà ngồi một mình trong căn phòng ấy ngắm nhìn những rặng núi xa xa. Trong vài năm sau bà viết nhật kí trong căn phòng ấy. Và rồi, đột nhiên bà cho những quyển sổ vào hộp và đem chúng lên cất ở gác mái. Khi về nhà trong đợt nghỉ Giáng sinh ở năm đầu tiên học cao đẳng, tôi tìm trong phòng đọc sách của bà và phát hiện các quyển sổ đã biến mất, kệ sách giờ đây chất đầy sách làm vườn và tạp chí trang trí nhà cửa. “Con có biết mẹ cất những quyển sổ ở đâu không?” mẹ hỏi tôi khi chất độc nhỏ giọt vào tay bà. “Trên gác mái, phải không ạ?” “Đúng rồi. Chúng là của con nếu con muốn. Khi thời gian thích hợp.” Tôi cố bật cười: “Mẹ à, đừng tưởng tượng lung tung nữa.” Nhưng là bác sĩ và là một bà mụ về hưu, cả hai chúng tôi đều đã tìm hiểu thông tin về bệnh ung thư của bà, và dù không bao giờ nói ra các con số thống kê, nhưng chúng tôi biết tiên lượng bệnh rất xấu. Dạng bệnh ung thư phổi của bà có thể gây chết người. Bà có khả năng thuyên giảm trong thời gian ngắn, nhưng hầu như không có cơ hội phục hồi hoàn toàn. “Mẹ đâu có nói thời gian sẽ đến vào ngày mai. Nhưng mẹ muốn con biết chúng là của con. Muốn làm gì chúng thì làm.” Bà được thông báo đang thuyên giảm bốn tháng rưỡi sau khi phát hiện bệnh, nhưng cơn thuyên giảm chỉ kéo dài được một mùa, và bà qua đời năm tháng sau khi bệnh ung thư trở lại. Trong số những người đàn ông hiện diện trong cuộc đời tôi năm tôi lên mười bốn, chỉ có bố là tôi còn gặp mặt. Và tôi may mắn có thể gặp ông thường xuyên. Ông vẫn sống ở Reddington, còn tôi thì làm việc ở miền Trung Vermont, vì thế chúng tôi có thể ăn trưa hoặc ăn tối cùng nhau ít nhất mỗi tuần một lần kể từ khi mẹ qua đời. Ông không còn làm việc nữa: Khi mẹ tôi được chẩn đoán bệnh ung thư, ông bán cổ phần trong công ty có mười lăm thành viên của mình. Tom Corts cuối cùng đã thoát khỏi garage sửa xe của gia đình. Anh đi học trường cao đẳng sân khấu khi tôi học trung học phổ thông, và chúng tôi chia tay nhau không lâu sau đó. Nhưng đường đời chúng tôi thường xuyên giao nhau khi đã trưởng thành, vì anh làm việc cho công ty thiết kế phần mềm cho giới y khoa. Anh cũng dự đám tang mẹ tôi, một cử chỉ khiến cả bố lẫn tôi xúc động. Tom đã kết hôn, tôi thì chưa. Một ngày nào đó tôi hi vọng mình cũng sẽ lập gia đình. Cho đến gần đây, tôi tiếp tục thấy tên của Stephen Hastings trên báo chí và dáng vẻ nhỉnh hơn một bậc của ông trên truyền hình. Chỉ thế thôi. Dường như khi ngày càng già đi, ông cũng chọn nhận ít vụ kiện hình sự hơn. Suốt một thời gian dài gia đình chúng tôi nhận được thiệp chúc mừng giáng sinh từ công ty ông vào tháng mười hai hằng năm, và trong một số năm Stephen đích thân viết thông điệp lên thiệp. Nhưng rồi sau đó những thông điệp ngắn dần thành một câu chào, một lời chúc, và một chữ kí, rồi sau đó những tấm thiệp cũng thôi không đến nữa. Tôi không nghĩ rằng bố tôi nhớ chúng, nhưng tôi biết ở chừng mực nào đó mẹ tôi thì có. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với gia đình Fugett, nhưng tôi đã nói chuyện một lần với Mục sư Asa Bedford. Tôi đến thăm Mobile và những thị trấn xung quanh như Blood Brook, và tôi biết rằng Mục sư Asa cuối cùng đã tái hôn và trở lại bục giảng kinh tại một thị trấn duyên hải ở Alabama có tên gọi Point Clear. Tôi không có ý định thăm ông khi đến Alabama, ít ra thì cũng không phải một cách chủ ý, nhưng khi tôi đến đó, ý muốn được gặp ông thôi thúc mạnh mẽ, khiến tôi gọi điện cho ông từ điện thoại công cộng ở một tiệm bách hóa. Ông nói đang bận rộn chuẩn bị đồ đạc cho một chuyến dự hội nghị các mục sư ở phía Bắc của bang, nhưng ông chắc chắn có thể dành nửa giờ cho người đã lặn lội đến từ tận Vermont. Ông nói ông và vợ sẽ rất buồn nếu tôi không đến nhà ông. Thế là tôi đến, và ba người chúng tôi uống cà phê đá, Mục sư Asa và tôi kể về cuộc sống của mình trong những năm sau phiên tòa. Tôi được biết Foogie gần đây đã chuyển đến bang Texas để vợ chồng cậu ấy có thể ở gần gia đình vợ hơn. Cậu sắp trở thành giáo viên. Còn Veil, cậu bé đã được mẹ tôi cứu sống, đã trở thành một thanh niên đẹp trai. Nếu Veil không toát ra sự khỏe khoắn, cường tráng và mạnh mẽ đó, thì hẳn cậu sẽ giống mẹ như đúc. Khi Mục sư Asa tiễn tôi ra cửa của căn nhà nhỏ khiêm tốn, chúng tôi đứng ở khung cửa một lúc lâu, rồi ông ôm tôi, vỗ lên lưng tôi, và chúc tôi bình an.