← Quay lại trang sách

Chương 3

Nữ bác sĩ Lương Diễm bước vào phòng ăn nhà người dì tại Hồng kông. Ngôi nhà nép mình trên sườn núi đá, trông ra biển và bến tàu; mái nhà nặng nề kiểu Trung Hoa chìm vào phong cảnh. Phòng khách trông ra biển, nhưng từ phòng ăn nằm phía sau, người ta chỉ trông thấy thành phố với những mái nhà san sát như bát úp, và trên triền núi, những biệt thự của những người Tây phương và của các người Lương Diễm giàu có, ẩn mình trong các khu vực xanh tươi. Khi Lương Diễm bước vào, dì của nàng đang ngồi đợi bên chiếc bàn ăn nhỏ, nhưng bà chưa mở nắp đậy mấy món ăn đã dọn sẵn.

Diễm tươi cười nói:

- Thưa dì, chắc dì không phải đợi cháu lâu. Cháu ngủ ngon giấc quá! Vì lâu ngày, cháu quên mất không khí nơi đây.

- Cháu hãy lợi dụng dịp này, nếu ngủ được thì cứ ngủ cho đã. Trong vài ngày nữa, khi đã vượt biên rồi, có lẽ cháu sẽ không còn được ngủ ngon như thế nữa đâu.

Vì co mặt các người giúp việc, nên hai người đàm thoại bằng tiếng Anh. Diễm ngồi xuống ghế. Từ ngày chồng bị giết trong một cuộc thanh trừng tại tỉnh này còn được bảo tồn, nhưng tôi hơi ngạc nhiên vì những dụng cụ tân tiến cũng có thể thực hiện được những tác phẩm tuyệt hảo như người xưa vậy.

Người đất ruộng của ông, bị các chủ nhân mới của họ xúi dục, đã nổi dậy chống đối, rồi tàn sát ông. Là người khôn ngoan, ông đã cho xây cất một biệt thự tại Hồng Kông vào những năm chót của chế độ Cộng hòa cộng sản, vì ông đã dư biết rằng, những hạng người như ông thì chỉ có thế lựa chọn giữa sự đầu hàng, lưu đày, hay là chết...

Nhưng than ôi! Người ta lại không để cho ông được lựa chọn. Mười năm về trước, vào một buổi sáng đẹp trời đầu mùa xuân, hai cán bộ dẫn một đám nông dân đến kêu ông ra ngoài cổng. Họ hô hào phải lên án ông, nhưng đám nông dân vẫn lặng thinh. Còn ông, quá hãnh diện, chẳng muốn bào chữa cho mình, nghĩ rằng mình không hề làm điều gì xấu, ông chẳng buồn nói gì cả. Ông sống như một nhà thượng lưu trí thức, vui thú tháng ngày với cỏ cây ngoài sân vườn, trong dinh cơ của tổ tiên. Nhưng viên đội trưởng chỉ huy nông dân, đã ha sát ông ngay trước cổng nhà mà không xét xử. Ông nằm phơi thây trên mặt đất, gia đình ông phải đợi đến tối mới dám đem xác vào nhà và chôn cất ông với đầy đủ lê nghi. Ngay sau vụ này, theo lời yêu cầu khẩn khoản của người con trai duy nhất, góa phụ đã cùng với các kẻ hầu người hạ lên đường đi Hồng Kông; còn anh ta nhất định ở lại một mình để, nếu có thể, giữ gìn đất ruộng của gia đình. Nhưng điều đó đã không thể nào thực hiện được. Vì chưa đầy một tháng sau, các chủ nhân ông mới đã chiếm đoạt hết đất ruộng nhà cửa của gia đình bà, và con trai ba đã bị đày đi lao dịch tại một miền rất xa. Ba không biết con bà bị đày đi đâu, và từ đó chẳng bao giờ được tin con mình nữa.

Diễm biết rõ điều này, và vì nhân ái, nàng giữ ý không nhắc đến tên người em họ của mình trong lúc nói chuyện. Mười năm đã trôi qua.

Dì của nàng dở nắp đậy các món ăn, bà nói:

- Dì nghĩ, có lẽ cháu thích ăn các món Tây. Nhưng dì đã cho dọn sẵn cả hai thứ.

- Cháu thích ăn món ăn Tàu.

- Vậy thì, có cháo hoa đấy, cháu ăn với mấy món mặn này.

Họ lấy thức ăn vào chén, và theo phép lịch sự, họ lẳng lặng ăn trong vài phút. Hồi còn bé, Diễm đã được dạy là không nên vào chuyện khi bụng còn đói. Một lát sau, nàng đặt đũa xuống bàn.

- Mẹ cháu hình như rất thành công tại Thượng Hải, phải không dì?

- Cháu có thể xét đoán tận mắt. Lẽ dĩ nhiên là mẹ cháu không thể kể hết trong thư các điều phải chịu đựng. Chẳng ai dại dột như thế!

- Dì nghĩ là...

- Đó không phải là điều dì nghĩ, mà là điều dì đã biết. Vì lòng nhân đạo, ngày nào dì cũng đến viếng thăm trại các người tỵ nạn, nơi tập trung tất cả các đồng bào lén lút vượt biên. Dì chẳng cần phải dò hỏi họ, vì sư đau khổ hiện rõ trên nét mặt họ. Họ không thể chịu đựng được nữa. Các làng mạc thì...

Bà dì e ngại đưa mắt nhìn quanh. Lúc đó chỉ còn một người giúp việc trong phòng. Bà nói tiếng Trung Hoa nhưng thật khẽ:

- Lão An biết rõ, hắn biết hết, vì hắn từ bên đó trốn sang đây. Im lặng, người giúp việc già gật đầu đồng ý.

Bà tiếng mà các kỹ sư nước ngoài tuyên bố là khó có thể bắc ngang qua một con sông rộng lớn như sông Dương Tử. Nhưng người Trung Hoa đã thực hiện, và Diễm nạn thuật lại nhiều chuyện thật kinh khủng. Người ta chia rẽ gia đình: con cái đi ngang qua những tỉnh nầy, cây cối xanh tươi dưới bầu trời trong vắt sau cơn mưa. Nhìn qua cửa sổ xe lửa, nàng chẳng thấy gì thay đổi, lúa mà vẫn một màu align="justify">Diễm chỉ mỉm cười mà không đáp. Nàng nhất quyết phải tự mình tìm hiểu cái nước Trung Hoa mới này, tổ quốc của nàng, bởi vì cái xấu hay tốt, nó vẫn là tổ quốc của nàng. Vào ngày hôm chót tại San-Francisco, khi hai người em gái tới tiễn đưa Diễm, nàng đã thảo luận rất lâu với họ.

Mai đã nói:

- đang vải trên ruộng một thứ bột trắng ngà, mà Diễm đoán là phân bón hóa học, chính phủ cấp cho các xa thôn. Như vậy là quốc gia đã sản xuất được phân nhất trong ba chị em. Nàng khoẻ hơn Diễm, lắm lời hơn, nhạy cảm hơn và linh hoạt hơn, Loan, cô em thứ ba thì trầm mặc hơn, mơ mộng hơn, nàng là nghệ sĩ. Diễm đã quả có gì thay đổi. Những chiếc thuyền đánh cá hay chở hàng, lướt trôi trên mặt nước lững lơ của dòng sông. Chắc đây là những công xã nổi danh. Ngoài đồng, có nhiều chuyện phải nói với nhau. Các họa phẩm của nàng chẳng gợi lên mảy may nào cái hình dáng mảnh mai nhỏ nhắn của tác giả. Thấy nàng thanh mảnh, với vẻ dịu hiền đặc biệt của người Trung Hoa, người Mỹ cứ tưởng nàng thích vẽ phong cảnh, với cây, hoa, với những hàng lệ liễu. Nhưng với nét bút phóng túng, Loan lại vẽ những bức tranh cơ lớn mầu sắc táo bạo. Nàng thường dùng con người làm chủ đề; đàn ông làm việc, trẻ con đang nô đùa, đàn bà - ồ, đàn bà trong tranh của nàng luôn luôn nhàn hạ, có tính cách trang trí và đáng sợ.

Diễm nói tiếp:

- bay lượn bạo dạn quanh các sân đập lúa, và luồn cả dưới chân trâu để mổ thóc. Bây giờ chim chóc biến mất, vì chính phủ đã ra lệnh sát hại chúng, sau này align="justify">Diễm cười, hai má nàng lún đồng tiền. Mai giục:

- Ơ kìa, chị kể tiếp đi chứ.

Một người nhà quê lần đầu tiên dùng phi cơ trên đường bay mới thiết lập giữa Thượng Hải và Bắc Kinh. Anh ta cứ khư khư giữ lấy cái lồng gà, chẳng muốn rời. Khi phi cơ cất cánh, anh chàng tỏ vẻ ngạc nhiên, như thể hàng ngày anh vẫn đi phi cơ... với gà vịt!

Cả ba chị em đều cười, với nụ cười trìu mến, thương yêu, mỗi khi nói đến dân chúng bên nước họ.

Mai thú nhận:

- Em thấy nhớ, chẳng riêng nhớ mẹ mà còn nhớ đến dân ta, đồng bào ta. Họ có một cái gì khác người. Họ luôn luôn vui tươi.

Ba chị em yên lặng một lát, mỗi người hồi tưởng lại những kỷ niệm riêng tư của mình. Đoạn Loan cất tiếng:

- Có thể mọi sự sẽ tốt đẹp hơn trước. Và có thể là tất cả mọi người được sung sướng con sông rất khó chế ngự. Các đồng bào của nàng đã thành công trong công tác xây cất cầu này, thế thì họ có khả năng thực hiện bất cứ một kỳ công nào vô định.

° ° °

Bà dì hỏi:

- Bây giờ cháu có muốn đi với dì đến thăm các người tỵ nạn không?

- Vâng, nếu dì muốn.

Diễm đứng lên, và trong khi bà dì dặn bảo các người giúp việc, nàng tiến tới cửa sổ ra trên những dòng chữ nhỏ, nàng cũng không tìm thấy được bà vui hay buồn. Trống rỗng và phẳng lặng, thư từ chỉ nói đến những chuyện vụn vặt về vườn ấy đã bỏ lại tất cả để chạy trốn. Cháu không muốn để mình bị ảnh hưởng bởi lòng hận thù đó. Cháu phải tự tạo cho mình một nhận xét vô tư.

Hai dì cháu đứng ở một góc đường, trong trú khu Trung Hoa tại Hồng Kông, nơi mà họ tạm chen chúc nhau sống một cách náo nhiệt. Những cao ốc mới xây mọc sừng sững hai bên đường. Chánh phủ Hoàng gia Anh chăm sóc các người tỵ nạn. Tầng lầu nào cũng thấy phơi đầy quần áo ngoài bao lơn.

Bà dì khuyên:

- Dầu sao, cháu cũng nên nghe xem họ nói gì. Đúng ra thì chê độ mới phải giúp đỡ họ. Nhưng họ đã làm gì sau khi trốn thoát? Họ lại bắt đầu làm ăn sinh sống như trước. Họ đã tìm lại được tự do, độc lập, và đã mở những quán hàng nhỏ. Kìa, trên ngọn đồi kia, giữa hai dãy nhà lầu lớn, cháu có thấy không? Các túp lều làm bằng Lương phu nhân cũng đi tàu thủy của người Anh. Mặc dầu đồ đạc trên tàu đã cũ, nước sơn đã bạc, Diễm thấy con tàu vẫn được điều hành chu đáo, cách bé, già trẻ đâu sức lại - để dựng nên những nơi trú nắng che mưa tồi tàn đó. Nhưng ngay cả khi có thể được, họ sẽ đến cư ngụ tại một đơn vị gia cư gồm hai phòng trong một chung cư rộng lớn. Tiếp đó, họ mua một vài bao quẹt, một lạng đậu phụng, nghĩa là bất cứ món gì nho nhỏ có thể đem gói thành từng gói để mang ra góc đường bán. Dĩ nhiên là họ sẽ trở nên giàu có. Cháu có thấy đồng bào nào của chúng ta không trở nên giàu có nếu họ được tự do hay không? Khắp châu Á, thiên hạ thù ghét chúng ta cũng chỉ vì chúng ta biết cách làm giàu bắt đầu từ con số không. Xưa kia, người giàu có nhất nước Indonésia là một người Trung Hoa làm phu khuân vác, lúc đến lập nghiệp với hai bàn tay trắng. Con gái ông ta đã lấy chồng làm Đại sứ Trung Hoa tại Hoa Kỳ. Ngoài người Trung Hoa ra, có người nước nào khác có thể thành công đến mức đó chỉ trong một đời người không?

Diễm mỉm cười, nhỏ nhẹ đáp:

- Có, một người Mỹ. Bà dì nhìn sững nàng:

- Dì không biết người Mỹ.

- Người Mỹ họ cũng giống mình dì ạ.

Trong khi hai dì cháu chuyện vãn như vậy, thì trời tối dần, mây đen bao phủ rặng núi, rồi mưa bắt đầu rơi. Bà dì đề nghị:

- Chúng ta hãy lên xe đi đến sát hàng rào biên giới.

Một đám đông người Trung Hoa đang chen chúc bên này hàng rào để đón xem có bạn hữu thân thuộc nào vượt biên hôm đó không. Không những chỉ có những người gồng gánh những giỏ đầy rau cỏ, đã được ấn định từng phút.

Người hướng đạo gõ cửa nhà bà Lương, rồi tự tiện mở ra. Diễm không biết mặt người gác cổng, nhưng qua thư của mẹ nàng, nàng biết vì trên cái tiểu đảo đầy ca đá nầy...

Diễm chẳng để ý nghe, nàng ngắm nhìn những kẻ đã lọt vào lãnh thổ của người Anh. Nhiều người già, nhưng cũng có người trẻ, đàn ông và đàn bà vào trạc tuổi ba mươi. Tại sao họ lại muốn rời bỏ đất nước? align="justify">Người gác cổng nói:

- Đồng chí thái thái đang đợi cô.

Hắn pha cả danh từ mới lẫn danh từ cũ trong câu nói.

- Không phải tất cả những người này đều là dân nhà quê. dẫn họ vào một phòng đợi hình vuông trong một ngôi nhà mà Diễm chỉ mới biết sơ qua vào dịp cùng đôi ba lần đến viếng thăm gia đình ông bà Họ chờ đợi Trước khi rời nước Mỹ, nàng cũng có qua nghỉ cuối tuần kha lâu tại nhà họ ở San Francisco. Bà Brandon căn dặn:

- Cô nhơ viết thư cho tình thế sẽ kha quan hơn hoặc bi đát hơn. Nhưng tình thế còn có thế bi đát hơn không?

- Thưa dì, cháu không biết.

- Dì chỉ có thế nói với cháu rằng, nó không thể xấu hơn thể được nữa. Nhưng thôi, để cháu tự nhận xét lấy.

- Cám ơn dì.

Diễm bực bội, đứng ngồi không yên. Không hiểu những điều dì nàng đề cập đến có phản ảnh sự thật chăng. Không biết tại sao mẹ nàng lại không viết cho nàng. Nàng nóng lòng muốn rời khỏi cái tiểu đảo qua đông, có những sườn núi dốc thẳng xuống biển, với biết bao nhà cửa bám víu trên đó. Ngày hôm ấy, một trận bão thổi vào hải đảo, gió xiết vào dốc núi và mưa tuôn xuống tràn trề. Diễm tưởng tượng rằng, chỉ một chút nữa bão tố sẽ quét sạch đám người đang bám víu vào các hang hốc, và hải đảo sẽ trở lại hoang vắng như những ngày mới tạo thiên lập địa. Nàng liên tưởng đến các túp lều tồi tàn bằng cát- tông lợp tôn, mà các kẻ khốn khổ với gia đình đang sống co ro trong đó. Phải chăng họ đã tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa? Không, vì mặc dầu sống trong khổ ải, họ vẫn có thể hy vọng ngày mai sẽ được khá hơn. Lại nữa, phải chăng điều đó cũng chỉ tương đối? Còn quá nhiều vấn để nàng chưa tìm ra được giải đáp. Nàng bỗng từ gia dì hai ngày sớm hơn dự liệu, ngay khi trận bão đã di chuyển vào nội địa.

Trước khi chia tay, nàng nói:

- Thưa dì, cháu sẽ viết thư kể hết cho dì rõ. Bà dì hoảng hốt:

- Ấy, cần nhất là cháu đừng có viết gì hết.

- thị của thượng cấp, tôi đưa cô con gái của đồng chí đến đây. Tôi để cô ấy ở lại với đồng chí. Xin đồng chí vui lòng xác nhận.

- align="justify">Diễm chia tay với bà dì tại biên giới vào một buổi sáng đẹp trời. Sang tới bên kia, nàng được một người đàn ông tiếp đón và trao một phong thư. Thư của đồng chí Tào hoan nghênh nàng.

“Chúng tôi mong chờ cô từ lâu. Chúng tôi cần đến cô, và cô sẽ được chúng tôi trợ giúp mọi sự cần thiết. Tuy vậy, xin cô đừng hấp tấp. Nếu cô muốn, cô có thể lưu lại Quảng Châu một hai ngày. Cô hãy quan sát dân chúng địa phương, và sẽ hiểu bằng cách nào chúng tôi đã cứu vãn được nền tiểu công nghệ cổ truyền. Rồi cô đi bằng xe hỏa đến Thượng Hải, cô sẽ lưu lại đây hai ngày tại nhà của mẹ cô. Sau đó, chúng tôi định rằng, cô sẽ tới Bắc kinh, ở đó mọi mặc dù em hành nghề chiêu đãi đã mấy năm rồi mà em vẫn còn "gin." Điều này có thể đúng lắm mà em "gin" thiệt. Bởi vì lúc em còn làm ở quán bia ôm, nhan sắc em quá tệ, khách tới với em chỉ uống rượu được.

- Còn mẹ, mẹ chẳng thay đổi chút nào cả. Nếu có thì chút ít thôi. Lương phu nhân đáp một cách mơ hồ, với một giọng gần như

Vì đã được phép, Diễm quyết định lưu lại một hai ngày tại Quảng Châu. Nàng còn nhớ ở đó có những ngành tiểu công nghệ rất cổ xưa, đặc biệt là ngành chạm trổ trên ngà voi. Qua báo chí Tây phương, Diễm được biết đến cái đẹp, cái đẹp của nước Trung Hoa cổ kính đã trốn khỏi nước này. Nàng muốn biết rõ ràng đích xác. Nàng hoàn toàn tuân theo sự chỉ dẫn của người hướng đạo, và tiếp tục cuộc hành trình.

Diễm đã sống quá lâu tại ngoại quốc, đến nỗi không nhận thấy rằng cái cảnh xám ngắt một màu có thế làm lu mờ một thành phố đến độ nào. Có thể là vì nàng đã lưu lạc quá lâu ngày trong rừng rậm Nam Mỹ tràn ngập màu sắc. Hay là nàng đã quá quen với sự trù phú của những đô thị bên Mỹ, với cái vẻ phồn thịnh của các cơ sở, các cửa hàng, các trú khu đẹp đẽ chung quanh Central Park tại New York, các dinh thự sang trọng của tư nhân tại Philadelphia hay Boston, hoặc nàng đã bị ảnh hưởng bởi cái đẹp của người Anh tại Hồng Kông. Phải chăng quang cảnh Quảng Châu vẫn luôn luôn làm nàng thất vọng, làm nàng chán nản. Dân chúng ăn mặc tồi tàn, đi chân đất, điều mà nàng không nhớ là hồi còn nhỏ nàng đã có trông thấy hay không. Đó đây, một người đàn ông phục sức chỉnh tề nhưng lại đi xe đạp, hoặc một bà bận áo dài đàng hoàng, lại đang đứng trước gánh hàng rau. Tuy vậy, mặc dầu nghèo khổ, họ đều sạch sẽ, khắp Âu Tây đều biết rằng nước Trung Hoa bây giờ rất sạch sẽ, không còn tràn ngập rác rến, ruồi muỗi như xưa. Nhưng nếu những người làm đồ thủ công mỹ nghệ không còn bày hàng trên đường phố nữa, thì ít ra các quán này cũng đã dẹp bỏ.

Diễm đến gần một người đàn bà đã có tuổi, mặc đồ đen sạch sẽ. Nàng nói:

- Thưa đại nương, đại nương có thế vui lòng cho biết kiếm ở đâu ra những người chạm ngà voi trong thành phố không ạ?

Người đàn bà nhìn sững nàng, rồi khẽ nói:

- Phải gọi là đồng chí. Diễm chưng hửng:

- Xin lỗi, tôi vừa ở nước ngoài về. Người đàn bà hất hàm chỉ lối:

- Làm đồ nga à? đàng kia...

- Cám ơn.

Diễm không sao nói thếm được hai tiếng “đồng chí”.Danh từ này không muốn bật ra khỏi miệng nàng. Nàng tự nhủ: “dầu sao, ta cũng phải học dùng cho quen hai tiếng này”.

“Phía kia” không phải là một con đường với những ngôi nhà nhỏ bé mà xưa kia các người làm đồ ngà vừa ở vừa làm việc cùng với gia đình. Đó là một nhà máy, tuy chẳng lấy gì làm lớn, nhưng đúng là nơi nàng tìm thấy các loại đồ nga và những kẻ tạo ra chúng. Diễm đi thăm nhà máy, nàng thấy rất nhiều đồ mỹ nghệ thật tinh vi, khắc trên các loại đá quý, nhập cảng từ các nước Đông Nam Á. Nhưng nàng thích đồ làm bằng ngà voi kia, cái chất trắng nga vừa cứng như xương lại vừa mềm như thớ thịt sống. Mỗi người thợ ngồi trước bàn làm việc của mình. Họ lãnh một chiếc nga voi cỡ trung bình, và dù nga còn nguyên chiếc hay đã gãy, hình dáng có đều hay không, họ vẫn phải ngắm nghía, tìm nguồn cảm hứng, cho đến khi từ những đường cong nguyên thủy của chiếc ngà, họ thấy hiện ra trong tâm trí một tác phẩm duy nhất, độc đáo. Diễm còn nhớ rõ, người ta vẫn làm những đồ vật cổ truyền như những qua cầu bằng ngà - nhiều khi đến hai mươi sáu quả- quả nọ lồng vào qua kia thật tài tình, nhưng đó không phải là điều nàng quan tâm. Nàng hiểu rằng, nghệ thuật không cần phải khua chiêng chiều tuyệt hảo mà đâu có ngờ đến sự hiếm có của nó. Nàng thú nhận là từ khi rời Thượng Hải đến nay, nàng chưa hề được ăn những món tuyệt hảo như ngưỡng một phong cảnh chạm trên ngà, với ngọn gió xuân đang lay động cây hoa và những cánh lê liễu; những chiếc tàu biển buồm đương căng và cờ của sự đói kém đâu? Các nông dân đều có vẻ dễ chịu.

- Họ không còn là những nông dân nữa, mà chỉ là những người đàn ông, đàn bà, align="justify">Diễm ngạc nhiên:

- ta ai ai cũng làm việc bằng tay chân cả. Những người trí thức, những học giả...

Diễm tươi cười ngắt lời mẹ. Nàng nói bằng tiếng Trung nước da ngăm ngăm, mỉm cười nói:

- Không bao giờ xoáy quá đà cả.

Diễm say mê ngắm nghía từng đồ vật, từng tác phẩm đã hoàn thành một cách tuyệt hảo. Nàng nhìn thấy những chiếc thuyền với những sợi dây thừng bằng ngà, những vũ nữ với xiêm áo tung bay theo điệu múa, những cụ già gương mặt nhăn nheo, và những pho tượng Phật mỉm cười, toàn bằng ngà. Tất cả những đồ vật này sẽ được xuất cảng sang Tây phương qua ngả Hồng Kông, ngoại trừ một vài món thật hiếm có, được giữ lại. Nàng thấy một ngôi chùa mười ba tầng, chạm trên chỉ một miếng ngà, mỗi góc mái có một cái chuông là những thành phần của toàn khối, khéo léo đến nỗi người ta thấy hình như là mấy cái chuông lủng lẳng một cách độc lập, không dính vào đâu cả. Nàng thấy những mảnh vườn mà mỗi thân cây, mỗi đóa hoa là một tác phẩm toàn hảoc xong, Diễm trở lại với câu hỏi chưa được giải đáp. Lần này nàng nói tiếng Anh:

- Thưa mẹ, mẹ chưa giải thích vì sao mẹ lại nói đến tha thứ? Chúng ta đã ăn xong món gan gà rồi!