Chương 6
Lương phu nhân đã thức giấc và cảm thấy bứt rứt khó chịu. Bà đã quen với cái cảm giác này rồi, nên bà cứ nằm bất động một lúc, cố phân tách cái điều mà bà gọi là trạng thái tâm hồn, vì bà không kiếm được danh từ nào rõ rệt hơn. Nhưng đây không phải là một trạng thái tâm hồn; bà thấy nó phát xuất từ bên ngoài, hay ít ra đó là trạng thái của tuổi già. Phải chăng thân thế đã lờ mờ cảm thấy cái ngày sẽ chỉ còn là một cái xác bất động? Thật ra, cái tâm trạng đen tối này của ba khó có thế chứng minh, nên Lương phu nhân cứ nhắm mắt suy nghĩ về những nguyên do của nỗi lo sợ mông lung của bà. Dần dần, do bản tính tự nhiên, bà cũng nhận định align="justify">Tôn trọng trạng thái tâm hồn nàng, chàng ngồi yên, và hai người cùng ngắm nhìn những ánh vàng cuối cùng đang dần dần tắt chìm trên biển cả. Trên đặt vào cái ngày mới sinh, khi nó được trao vào tay bà.
Người nữ hộ sinh thở dài:
- Một đứa con gái! Người mẹ đáp ngay:
- Tôi rất sung sướng. Có con gái đầu lòng là một điềm tốt.
Bà không hề than trách vì hai đứa sau cũng là con gái, và cũng không hối tiếc là không có con trai. Con gái luôn luôn có thể tránh né được những hiểm nguy của thời đại, còn con trai phải lựa chọn giữa hai đường số mệnh: hoặc là lãnh tụ, hoặc là kẻ tù đày. Có lúc ba cũng nghĩ đến người con trai mà ba đã có thể có, nhưng bà cương quyết loại bỏ ngay tức khắc ý nghĩ này. Tốt hơn là nó đừng sinh ra. Ba biết giải thích ra sao về những nỗi lo sơ mơ hồ cho con gái của ba bây giờ? Phải chăng ba đã không biết cách chuẩn bị cho con mình - nhưng chuẩn bị cho nó đón nhận gì đây? Ngay như đối với con gái bà, bà cũng không biết phải giải thích ra sao cuộc sống của bà, tại sao sự an toàn bà đang hưởng lại có thể trở nên đặc biệt nguy hiểm? Tại sao sẩy chân một bước, nói lỡ một câu, lại có thế xô đẩy bà xuống vực thẳm? Bởi vậy, trước mặt Diễm, bà không muốn nói ra cái hoàn cảnh khó nói của mình.
Không ngủ lại được nữa, Lương phu nhân phải cầu cứu đến “giây phút suy gẫm” thường ngày. Cuốn kinh dịch được cất dấu trong một cái rương có khóa, lẫn lộn trong đống áo dài bằng xa tanh thếu, là y phục bà, thường bận ngày xưa. Ba trìu mến lấy cuốn sách ra. Cũng như bà Brandon người bạn Mỹ của bà, thường tìm nguồn an ủi trong cuốn Thánh Kinh của người Thiên Chúa Giáo, Lương phu nhân cũng đi tìm nguồn sinh lực trong cuốn sách nay đã bị cấm đoán, một kiệt tác của nhà Đại hiền triết Khổng Phu Tử, người đã bị bài bác, hơn nữa bị nhạo báng bởi các cấp lãnh đạo chê độ mới. Tuy vậy, Lương phu nhân vẫn vững tin rằng, một ngày kia, nhà hiền triết sẽ được phục hồi danh dự, khi mà một thế hê khôn ngoan sẽ đem lại trật tự cho đất nước. Trong lúc chờ đợi, bà thường tham khảo cuốn Kinh Dịch mà bà coi như kim chỉ nam cho cuộc sống của mình.
Bà nhắm mắt lại, mơ đại một trang sách, đặt ngón tay một cách may rủi vào một giòng chữ nào đó, rồi mở mắt, đọc:
“Phía align="justify">- Đến khi đó, em nghĩ... hay là chúng mình qua Anh quốc? rồi không trở về nữa!
Chàng nhìn thẳng vào đôi mắt đen sáng không, sẽ té xuống vực thẳm.
Đừng hành động gì..." Câu giải đáp bà tìm kiếm đã hiện ra đó, tại câu bát cú thứ hai mươi chín, Thiên “Khôn Lường”...
Bà cất sách vào chỗ cũ, rồi đi nằm trở lại.
Người Y sĩ già ngâm nga với giọng Bắc Kinh, vừa lịch sự vừa rõ ràng:
- Huang Ch’ang Shen, đó là tên một trong hai vị thuốc dùng để trị bệnh sốt rét rừng. Người ta lấy rê cây này sắc thành thuốc. Phương thuốc rất công hiệu này đã được chúng ta khám phá ra từ lâu rồi.
Tra cuốn tự điển Y học bằng tiếng Anh, Diễm thấy cây này mang tên là: Diochroa Febrifuyl. Nàng đã biết loại này.
Ông ta lại ngâm nga:
- Vị thuốc thứ hai là Ma P’ien TS’ao.
Diễm cũng tìm ra ngay tên của nó: Đó là cây Mả Tiền Thảo. Nàng hỏi:
- Người ta cũng dùng vị này làm thuốc trừ giun phải không ạ?
Nàng kinh ngạc nhìn những móng tay rất dài và rất bẩn của ông già.
Ông lão ngạc nhiên Sung lái xe đưa Mai trở về nhà ông bà Brandon. Trên xe, chàng không bàn thảo gì thếm nữa. Chàng mơ cửa đỡ nàng xuống xe và họ đắm đuối nhìn nhau một lúc.
Ông ta đưa tay lên gãi mấy sợi râu lơ thơ ở cằm và tiếp:
- Tên bệnh thay đổi tùy theo các miền trong nước. Người ta kêu bằng: bệnh “thương hàn nhập lý”, bệnh “run bần bật”, bệnh “ông già ngủ quỷ” hay “Cơn đau thực sự”, hay “Sốt rét thường nhật”, “Sốt rét cách nhật”, “Cơn đau thay đổi mỗi ngày”, “Bệnh luôn luôn quay trở lại”, “Cơn ngứa đầu các ngón tay”, “Cơn sốt rét”, “Cơn đau không chống cưỡng được”, hoặc “Hai ngày ba cơn sốt”.
Diễm thích thú thấy mỗi tên gọi đã gợi ý rất đúng chứng bệnh rắc rối này với những cơn rét nổi da ga và những cơn sốt cách nhật của nó, những thời kỳ bệnh tạm lui, và ngay cả những trường hợp nguy cấp kèm theo bệnh phù thũng.
Người Y sĩ già giải thích:
- Ai cũng biết bệnh này do những con lươn truyền nhiễm. Khi bệnh trở thành thường xuyên đã. Đừng để ta phải chờ đợi như vậy. Con đã nói có chuyện xích mích, thì ít ra con cũng nên cho ta biết về vấn đề gì chứ. Con biết là ta thay mặt mẹ nhẫn bên phải, rồi dơ cao lên nhìn. Ông thở dài, lẩm bẩm:
Lại còn những con chấy nữa.
Những con lươn? Diễm ngạc nhiên về sự chính xác cũng như những sai lầm của những kiến thức y học tại nước mình. Những con lươn sinh sống tại các vùng đồng lầy, nơi muỗi Anopheles đẻ trứng.
Người Y sĩ già bỗng trở nên linh hoạt hơn. Ông nghiêng mình về phía trước, giơ ngón tay trỏ bẩn thỉu lên trước mặt Diễm, căn cặn:
- Đừng tin vào những thuốc nước ngoài để chữa trị bệnh này nhé! Dúng quá nhiều thứ bột đắng đó sẽ làm cơn sốt trở nên dữ dội và còn gây thếm một chứng bệnh khác nữa.
Một lần nữa, Diễm lại ngạc nhiên: lạm dụng thuốc ký ninh, sẽ gây nên bệnh đi tiểu ra máu, đúng thế. Vậy phải làm thế nào để phân định sự sai lầm với sự thật trong sự hiểu biết lẫn lộn của dân chúng? Diễm đang mãi suy nghĩ, thì đột nhiên ông già ngáp to lên một tiếng, làm nàng giật mình. Hơi thở của ông ta hôi hám đến buồn nôn.
Ông ta đứng dậy, vén tà áo dài mầu xám lên cho khỏi vướng chân, rồi nói:
- Thôi, bữa nay thế là đủ rồi.
Phải, thế là hết một ngày, một ngày đầu tiên Diễm làm việc trong phòng thí nghiệm dành riêng cho nàng tại một bệnh viện lớn và tối tân mà trước kia người Mỹ giàu có đã viện trợ cho nước Trung Hoa. Diễm nhận thấy ngay là Y học Tây phương được áp dụng tại đây: mọi sự đều ngăn nắp sạch sẽ một cách đang kể. Áo choàng trắng toát, các y sĩ nội trú, sinh viên, ai nấy đều gì? Anh Tư Ðát là của mày hả? Của tao, mày dành mày đụ, mày có biết không? Còn lâu mới là của mầy à.
Chỉnh càng khóc lớn tiếng hơn vì quá nhục, trong khi con Ngọc hả cơn tức vì đang được Mai không phải là người cầm quyền đất nước này. Bà Brandon chỉ có nước đồng ý với nhận định của chồng. Ba lại để hết tâm trí đến ngày đôi trẻ Người ta dành riêng cho họ một dãy nhà. Từ khắp nơi trên cả nước, người ta đã triệu tập những vị lương y lão thành khôn ngoan này về thủ đô: kiến thức của họ tuy rộng, nhưng vừa nguy hại, lại vừa khoa học.
Lưu Phong đã nói với Diễm:
- Nhiệm vụ của cô là làm một cuộc tổng hợp giữa hai nền y học đó. Mỗi bên đều có phần sai và phần đúng của nó. Xưa kia, chúng ta đã lỗi lầm khi chỉ tin độc vào nền y học của ta để không chú trọng đến những phương pháp Âu Tây. Chính Chủ tịch đã đích thân giao phó nhiệm vụ nặng nề này cho cô. Người quan sát cô.
Lưu Phong là một thanh niên trẻ đẹp và cao lớn như tất cả những người miền Bắc, dĩ nhiên là anh ta vận đồng phục của Đảng. Khi nàng tới, cho quen dần với nếp sống mới.
- Phải, bao lâu con còn hiểu anh ấy... Hiểu nhau là một điều cần, là điều cốt yếu nữa là khác.
- nhận mọi chỉ thị nơi tôi. Nếu cô có những thắc mắc cần hỏi, tôi sẵn sàng giải đáp. Chúng tôi sung sướng thấy cô trở về với đất nước.
Trước khi rút lui, anh ta giới thiệu Diễm với một y sĩ già: Y sĩ Tiên, một trong những vị rất nổi danh của nền y học Trung Hoa.
Sau khi sắp xếp cho có thứ tự những gì đã ghi chép, Diễm đi dạo trong các khu vườn của bệnh viện. Ngoài này cũng trật tự như trong bệnh viện, với những luống hoa bồn cỏ gọn gàng. Không khí lành mạnh buổi cuối thu báo hiệu sắp có tuyết rơi, nên các người làm vườn đã lấy rơm ủ những loại cây mềm yếu. Sương làm đá nhẹ bay trên thành phố. Diễm ngừng chân ngắm nhìn đàn cá vàng đang bơi lội tung tăng trong một hồ nước. Chẳng bao lâu nữa, chúng sẽ lặn chìm vào lớp bùn dưới đáy hồ để sống qua những ngày rét mướt của mùa đông. Nhưng, trước giờ phút này, chúng đang dồn sinh lực ra nhào lặn tung hoành một lần chót. Dưới ánh mặt trời mỗi ngày một yếu dần, trông chúng như những ánh bạc lấp lánh. Diễm lấy làm mãn nguyện hết sức. Còn gì đẹp bằng cảnh mùa thu trong cổ thành. Nhất định là không còn điều gì làm nàng phải e ngại nữa. Nàng có công việc phải làm.
Y sĩ Tiên giải thích:
- Khoa châm cứu, có thể gọi là khoa học về huyết mạch trong con người.
Ông rũ người ra ho sù sụ, vội thò tay vào túi lục kiếm, lấy ra một mảnh giấy mỏng, nhổ vào đó, gói lại cẩn thận, rồi quẳng xuống gầm bàn, một lúc sau, chợt nhớ đến những chỉ thị, ông vội bò lổm ngổm dưới gầm bàn để lượm gói giấy dơ, rồi đem bỏ vào một xô dành riêng cho việc này.
Diễm cố nín cười. Nếu vào thời xưa - cái thời tưởng như là của một đất nước xa xôi nào đó, đã đắm chìm trong cát bụi của lịch sử - thì không bao giờ có chuyện một học giả già nua lại phải bò lổm ngổm dưới đất để đi lượm một mảnh giấy.
Để an ủi ông già, Diễm nói:
- Xưa kia, mọi sự đều dễ dãi hơn.
Nhưng nàng rất ngạc nhiên thấy y sĩ Tiên đã lấy lại ngay vẻ đạo mạo, lo sơ đáp:
- Ngày nay mọi sự đã dễ dãi hơn. Dưới sự lãnh đạo của Mao Chủ tịch của chúng ta, mọi sự đều tiến hành tốt đẹp.
Diễm không nói gì thếm. Nàng đã nói một câu khờ dại, và nếu ông già để tâm, thì nàng không thể trách cứ gì ông ta được.
Diễm nhắc khéo:
- Chúng ta hãy trở lại với câu chuyện các huyết mạch trong thân thể con người. Chúng ta hãy gọi chúng là những kinh tuyến trong khoa châm cứu.
Vì y sĩ Tiên không biết tiếng Anh, nên Diễm chỉ dùng tiếng Trung Hoa để thảo luận, và chỉ sau vài tuần lễ, nàng đã nói lại tiếng mẹ đẻ một cách dễ dàng.
Sau bao năm dài hít bụi trong thành phố Bắc Kinh, Y sĩ Tiên thở rất khó nhọc. Ông luôn luôn đằng hắng cho trong giọng. Ông phải làm nhiệm vụ của mình, phải giảng dạy cho một người đàn bà dốt nát. Trong thâm tâm, ông không tán thành chính sách coi trọng phụ nữ của giới lãnh đạo mới, nhưng không dám phản đối. Người ta đã giảng giải cho ông, là phụ nữ phải tham gia vào nỗ lực của toàn dân, để xây dựng một nền trật tự mới, và rằng còn biết bao chuyện phải làm, nên một người phụ nữ không thể chỉ làm việc cho riêng một gia đình, như vậy quá phí phạm. Do đó, ông đã rất khổ tâm phải tuân theo qui luật chung, là phải ăn những bữa cơm nấu tại nhà bếp của công xã. Điều này qua thật là đau khổ cho ông, vì bao tử ông quá kém, hơn nữa ông lại có thói quen ăn những món nho nhỏ, ngon ngon. Tuy vậy, ông chẳng dám he răng, sợ người ta tố cáo. Ông tiếp tục bài giảng:
- Có đến ba trăm sáu mươi lăm điểm mà những mạch máu chạm vào dưới da. Mạch máu, làn da, và những bộ phận trong người đề thuộc cùng một hệ thống, nên đều bị lệ thuộc vào sự tăng giảm của âm dương. Người y sĩ phải biết nhận định các điểm này, và biết châm vào những chỗ thích hợp với những cây kim đặc biệt. Thời gian lưu kim lâu, mau ra sao, cũng là điều quan trọng cần phải biết.
Diễm hỏi:
- Thưa y sĩ, châm cứu để làm gì? Ông gia nhìn nàng như trách móc.
- Xin cứ thư thả, đâu có đấy. Tôi sẽ giải thích hết cho cô rõ. Châm cứu có mục đích làm gia tăng hay giảm thiểu khí huyết trong con người - đúng ra thì không phải là khí huyết, đó là một chất mà không hẳn là một chất. Châm kim cũng phải có phương pháp, và không gia đình ông bà Brandon sẽ nghĩ sao khi họ hay tin chúng mình không trở về. Chúng mình sẽ viết thư cho họ hiểu... phải không anh?
- Viết thư à?
Vì nói quá lâu, ông ta lại thấy khó thở, Diễm thương hại, mở ví lấy ra một lọ thuốc thông khứu nhỏ, mà nàng có ý mang theo để phòng những cơn bão cát ở Bắc Kinh. Nàng đề nghị:
- Thưa y sĩ kha kính, hãy dùng thử thuốc này xem. Ông gia lắc đầu từ chối:
- Hai nền y học - Đông y và Tây y - không thế sử dụng lẫn lộn, e rằng thân thể bị xáo trộn, và làm đảo lộn âm dương. Không nên nhắm mắt hòa đồng hai lối sống khác nhau.
Nhưng ông lão không còn đủ sức tiếp tục nữa, ông gấp cuốn sách cũ mèm lại, thở dài:
- Không ai có thể cắt nghĩa hết khoa châm cứu trong một ngày được. Đây là công trình nghiên cứu tỉ mỉ và lâu dài về chính sự sống của con người. Nếu sử dụng đúng, nó sẽ chữa khỏi bệnh, bằng sai, nó sẽ làm chết người. Ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục.
Ông đã khóc rất nhiều khi thân phụ chàng đem chàng qua Mỹ. Chàng không mong gì được ông bà nội, nhưng rất mong tìm lại được thân mẫu chàng.
Trần Sung ngủ thiếp đi, chàng không ngờ lại mệt mỏi đến thế, do những xúc động có một việc xin ngài chỉ dẫn...
Đôi mắt mệt mỏi của ông già liền ngước lên:
- Thật đáng ngạc nhiên! Thời buổi này, giới trẻ...
Bỗng ông ta ngừng nói, đưa tay vuốt râu, rồi mới tiếp:
- May quá, bên cạnh nhà tôi có một ngôi nhà để trống. Người chủ vừa chết tuần trước, gia đình ông ta bỏ nhà đến sống trong một công xã bên ngoài thành phố. Đã từ lâu, người vợ cứ muốn dọn nhà đi nơi khác, bà ta là một người biếng nhác, rất ngán công việc nội trợ. Tôi nghĩ rằng, ông ta chết một cách tự nhiên, chứ chẳng có bệnh tật gì.
Diễm không quyết định ngay, nàng nói:
- Thưa cụ, tôi có thể đi theo cụ đến coi ngôi nhà đó được không ạ?
- Thế à?
- Tôi muốn mướn một ngôi nhà nhỏ, chẳng hay ngài có biết đâu có, xin chỉ dùm. Tôi không thích sống tại quán trọ. Sống trong nhà riêng, tôi thấy thoải mái hơn. Xưa kia, tôi rất thích những gia trang nhỏ bé của thành phố Bắc Kinh, tôi không biết kiếm hỏi ở đâu bây giờ?
Ông gia tỏ vẻ ngạc nhiên ra mặt. Ông suy nghĩ chốc lát trước khi trả lời bằng cách hỏi lại:
- Cô muốn mướn loại nhà như thế nào? mới hay cũ?
Diễm vẫn chưa quên vẻ đẹp của những gia trang cổ xưa, nép mình bên những con đường nhỏ trong châu thành Bắc Kinh, nên nàng nói ngay:
- Dạ, một ngôi nhà cũ, có sân nhỏ và vài khóm cây là được rồi.
- Hạng nhà này không có nước máy, cũng chẳng có lò sưởi ngoài cái nền khang
- Đối với tôi, thiếu những tiện nghi này cũng chẳng sao.
Ông gia lẩm bẩm:
- Được, tôi sẽ dẫn cô đi.
Họ đi theo con đường chính, nhưng Diễm đi sau vị giáo sư của nàng mấy bước, vì sơ đi ngang hàng sẽ làm phiền ông lão. Sau khi đi ngang qua cửa cấm thành ngày trước, bây giờ đã được sửa chữa thành một trung tâm du lịch, họ rẽ vào các con đường nhỏ, rồi dừng chân trước cổng gạch màu xám.
- Đây là nhà của tôi. - Ông già nói, giọng nghẹn lại vì chiếc khăn tay bịt mũi và miệng để tránh bụi đường. - Xin mời cô vào, tôi sẽ gọi nhà tôi ra dẫn cô qua các dãy bàn trong nhà hàng, rồi kín đáo tiến gần đến cửa. Bà ra ngoài, và bước vào chiếc thang máy nhỏ. Xưa kia, ông bà Brandon đã thiết trí chiếc thang máy nhỏ bé, nhưng lanh lợi, ăn vận theo kiểu xưa, áo ngắn và quần vải xanh, từ trong nhà bếp hấp tấp chạy ra, tay còn dính đầy bột trắng xóa.
Bà ta reo lên:
- Ồ, ông đã về đấy à? Tôi đang nhồi bột làm món mì. đi vào dĩ vãng; bây giờ họ đã có công đoàn.
Chu San, người thân tín của bà, đang đứng đợi ba trong thang máy. Hắn bấm vào một cái nút, tức tức thì chiếc thang ngừng lại giữa hai lão trợn tròn mắt, lắc đầu:
- Nhưng nhà đó có ma!
Y sĩ Tiên nghiêm giọng rầy la vợ:
- Ô hay! Sao thời buổi này mà còn nói những chuyện lỗi thời như vậy nhỉ!
Ông lườm vợ một cách dữ dằn, rồi bước vào trong nhà, trong khi bà chùi tay vào tấm khăn quàng ngang người. Bà nói:
- Giá thuê không cao lắm đâu, vì rằng - bà ha thấp giọng - dầu sao thì cũng là nhà có ma.
Diễm bật cười:
- Thưa bà, tôi không sơ ma.
- Có những con ma rất dữ tợn, quỷ quyệt. Chúng có thế hiện thành một người đàn bà rất độc ác.
Diễm lặp lại:
- Tôi chẳng sợ gì hết.
Bà Tiên đành nhượng bộ, và lắc đầu:
- Vậy thì...
Hai ngày sau đó, Diễm rời quán trọ vào buổi chiều. Không đầy một tiếng đồng hồ sau, nàng đã có mặt tại “nhà mình”, nếu không với tư cách là chủ sở hữu, thì ít ra cũng là người thuê. Nàng dùng chân trước cổng nhà trong giây lát, cổng có hai cánh sơn đỏ, có then bằng sắt nung nặng nề. Tại con đường hẻm này, cổng nhà nào cũng giống như cổng nhà nào, thế nhưng Diễm lại thấy khác, vì đây là tổ ấm của nàng trên đất nước mình. Nơi nàng cư ngụ tại thành phố New York gồm hai phòng, đối với nàng chỉ là nơi tạm trú trên đất khách quê người. Trong giây phút dừng chân trước cổng “nhà nàng”, nàng thấy lòng hân hoan như bất cứ một người Trung Hoa nào khác khi trở về nhà mình.
Diễm mở cổng bước vào. Ai đã quét dọn sân sạch sẽ và bầy làm cảnh trước cửa nhà một cặp tùng tí hon, trồng trong một đôi thống lớn bằng sứ men xanh. Nàng nghĩ, có lẽ ba Tiên đã có nhà ý chúc mừng người mới đến, hành động này đúng là tập quán ngàn xưa. Nàng bước lên thềm nhà, tiến vào căn phòng chính. Cũng như tất cả các phòng khác, căn phòng này được bày biện theo kiểu Trung Hoa, đồ đạc đã cũ nhưng chắc chắn. Diễm rất lấy làm sung sướng. Ngay vào lúc ấy, vợ chồng người giúp việc đã đứng tuổi, đột nhiên hiện ra trước mặt nàng.
Người chồng nghiêng mình thưa:
- Thưa cô, chúng tôi đến đây để giúp việc cho cô theo lệnh của bà Tiên.
Người vợ tiếp, giọng khẩn cầu:
- Chúng tôi biết làm hết mọi việc trong nhà cô ạ. Diễm nói:
- À, Vương lão và Vương má. - Nàng xưng hô theo phép lịch sự cổ truyền, nhưng thấy hai ông bà già tỏ vẻ lo sợ, nàng hiểu ngay là mình đã sai lầm trong việc xưng hô, nên nói chữa ngay: “hai đồng chí”.
Thế là hai vợ chồng nhoẻn miệng cười.
Người vợ nhỏ nhẻ:
- Chúng tôi cũng biết phép xưng hô, nhưng bây giờ mọi sự đã thay đổi.
Người chồng thếm:
- Gió chiều nào, nên đổ theo chiều đó. Diễm nói:
- Tôi cũng tập uốn mình theo chiều gió mới được.
- Ấy thế mà cứ quên hoài đấy cô ạ.
Phải mua vài bức tranh lụa của Nhật Bản, và một cái ghế bành thật êm (cái ghế bành bằng số hiện nàng đang ngồi, tuy đẹp, nhưng không êm, mà nàng thì đã qua quen với những thoải mái kiểu Mỹ rồi). Không cần treo rèm cửa sổ, vì các khung vuông nhỏ đã được căng bằng một thứ giấy mỏng rất đẹp. Nàng đang suy nghĩ, chợt có tiếng gõ ngoài cổng. Lão Vương chạy ra rút then ngang, mở cổng, và Diễm nhận ra ngay tiếng nói sang sảng của Lưu Phong.
- Có ai là nữ y sĩ họ Lương ở đây không? Lão Vương đáp:
- Thưa đồng chí, cô ấy vừa mới đến đây.
- Tôi muốn gặp cô ta.
Diễm trông thấy anh ta băng qua sân với những bước dài, có lão Vương theo sau. Nàng bước ra cửa đón khách, và nói:
- Xin mời vào. Ông là người khách đầu tiên của tôi.
Lưu Phong lẳng lặng chẳng nói chẳng rằng, cứ bước vào và ngồi xuống trước mặt nàng. Với giọng cộc lốc, anh ta hỏi:
- Tại sao cô rời quán trọ mà không xin phép?
Diễm trợn tròn mắt:
- Thưa ông, dọn nhà mà cũng phải xin phép sao?
- Đúng thế, nếu không thì biết kiếm cô ở đâu?
- Dù tôi có align="justify">- Hãy mở cửa ra, không thì tôi phá cửa bây giờ. Có Lương phu nhân từ Thượng Hải tới.
Lương phu nhân nói thếm:
- Chúng tôi phải biết cô có mặt ở đâu, vào bất cứ lúc nào.
- Để làm gì?
Anh ta có vẻ bối rối trước câu hỏi đơn giản này, và cau mặt lại. Lần đầu tiên nàng nhận thấy anh ta có đôi mày rất đen và rậm. Anh ta lạnh lùng đáp:
- Đó là điều cần thiết.
Diễm ngẫm nghĩ rồi vui vẻ chấp nhận câu trả lời này.
- Vậy thì, tôi ở đây. Ngoài những giờ làm việc tại bệnh viện, đây là nơi tôi có mặt.
Đột nhiên, Lưu Phong thay đổi nét mặt. Đôi mắt đen to như ánh lên một nụ cười. Anh cất tiếng vui vẻ nói:
- Bây giờ tôi xin thi hành công tác, chúng ta có thể bắt đầu câu chuyện. Vị y sĩ già đã giảng giải cho cô các nguyên tắc cần thiết cũng như triết lý căn bản của nền y học Trung Hoa chưa?
Diễm lắc đầu:
- Ông ấy mới nói về các bệnh tật và phương pháp chữa trị. Ông đang dạy tôi khoa châm cứu.
- À, nếu vậy, tôi sẽ giảng cho cô nghe về phần triết lý. Diễm đáp một cách đầy thiện chí:
- Vậy xin ông vui lòng dạy cho tôi.
Đây là câu trả lời đúng theo cổ tục của một người học trò nói với thầy, nhưng Lưu Phong lại nhìn nàng với đôi mắt ngơ vực. Anh ta vội tránh nét nhìn thẳng thắn và lương thiện của nàng.
- Chúng ta không còn dùng đến lối nói tự nhiên bà cũng ngồi đúng vào chỗ danh dự theo thói tục của các cụ ngày xưa.
Bà hỏi Diễm:
- Này con, các người giúp việc của nền triết lý y học Trung Hoa. Dĩ nhiên cô cũng hiểu rằng, tuy chúng tôi đã loại bỏ những bí ẩn của thời trước, nhưng chúng tôi vẫn chấp nhận những bí ẩn này như thuộc về trang sử đã lật qua. Những chuyên gia về y học mới, như cô và tôi, phải hiểu biết quá khứ, dù qua khứ không còn nữa. Lịch sử của chúng ta là lịch sử của một nước đàn anh, vĩ đại nhất và cổ xưa nhất nhân loại. Vậy chúng ta hãy đề cập đến công trình cổ điển của Lão Tử, một nhà hiền triết vĩ đại. Đó là một con người tân tiến lạ lùng, vì ngay từ mấy ngàn năm trước, ông đã chống lại thuyết trung dung của Khổng Tử, người sinh đồng thời với ông. Tên tuổi của Khổng Tử đã chết cùng với các tác phẩm của ông ta. Chúng tôi đã bài bác ông ấy. Dân tộc ta đã sống trong vòng cương tỏa của những phép tắc cứng ngắc của ông ấy. Trái lại, Lão Tử đã thiết lập những nguyên tắc rất mềm dẻo về Đạo. Những nhà trí thức Tây phương, những ké đáng khinh về chủ trương cũng như về cái vỏ văn hóa nông cạn, lại dịch Đạo là Đường. Thật là ngốc! Đạo là cái tinh thần thấm nhuần trời đất, luôn cả vũ trụ bao la qua tầm hiểu biết của chúng ta. Đạo còn bao gồm những hư vô cũng như những hiện hữu. Hãy nghe Lão Tử nói về Đạo như sau...
Lưu Phong ngừng lời, đằng hắng lấy giọng, vuốt mái tóc ngắn và cứng ra sau, hai tay đặt lên đầu gối. Rồi ngước mặt lên, mắt lim dim theo cung cách các nhà học giả, anh bắt đầu ngâm bài thơ cổ của Đạo Đức Kinh.
Âm thầm cô quạnh ý cả: cao lớn, nhưng không quá đẹp - bà không tin tưởng vào các người đàn ông qua đẹp, và điều này làm bà liên tưởng đến chồng ba - cởi mở, thẳng thắn, Đạo. Đạo là tiến ra phía ngoài.
Ra làm cho bà xúc động.
Bà nói:
- Tôi khen cho lòng ái quốc của anh, nhưng nay anh đã có mặt tại đây rồi, anh cần phải kiên align="justify">- Hay thật, nhưng tôi không hiểu.
- Cô không thể nào hiểu được. Vì bài thơ này bao gồm mọi sự vật: thời gian và không gian vô tận. Thế nhưng, mỗi vật tồn tại riêng biệt, trong vô cùng, ngay tại trung tâm của sự hòa đồng tuyệt đối. Nhưng hòa đồng là gì? Nó nằm trong tương quan. Nhưng tương quan là gì? Đó là những liên hê giữa ngũ hành. Ngũ hành là gì? Là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Chúng tương sinh, tương khắc.
Lưu Phong lại ngừng lại, nhìn Diễm với đôi mắt thăm dò. Nàng liền hỏi:
- Xin ông vui lòng giảng giải cho tôi hiểu. Anh ta lại tiếp tục:
- Về tương sinh: Mộc sinh Hỏa; Hỏa, dưới hình thức tro sinh Thổ; trong Thổ, người ta thấy Kim; Kim nấu lên sinh Thủy; Thủy sinh mộc tức cây cối, hút thủy; thổ có thể chặn được Thủy; Thủy dập tắt hỏa; Hỏa hủy diệt Kim; nhưng Kim dưới hình thức một dụng cụ lại gọt đẽo được Mộc. Đó là những tương quan, nó tiến ra phía ngoài, xa ra phía ngoài rồi lại trở về. Trong chu kỳ của sự sinh khắc này, đời sống con người phải được cân bằng giữa sự tiến thoái và hòa nhịp với vạn vật. Đó là triết lý căn bản về vũ trụ dùng làm nền tảng cho nền Y học Trung Hoa.
Diễm khẽ nói:
- Quả thật là khó khăn, nếu phải dựa vào nguyên lý này để chẩn bệnh và cho toa.
- À, lại còn phải quan tâm đến năm hành tinh và ảnh hưởng của mỗi hành tinh nữa. Lưu Phong vừa nói vừa giơ bàn tay lên để kê theo từng ngón. Diễm nhận thấy anh ta có bàn tay thật đẹp và thanh lịch: Mộc tinh tượng trưng cho lòng nhân ái và sự dịu hiền; Hỏa tinh cho óc phiêu lưu và trí tưởng tượng; Thủy tinh cho trí thông minh, sự liều lĩnh, sự thối lui; Thổ tinh cho vẻ duyên dáng và sức mạnh; Kim tinh cho thú cảm xúc, tính hiếu chiến và uy quyền.
Diễm nhận xét:
- Hay thật! Về vấn đề các hành tinh, Tây phương cũng có một vài kiến thức tương tự, nhưng đông, làm chết mất nhiều thanh niên.
Bà đưa mắt nhìn mấy bộ mặt đang chăm chú nghe. Ba tiếp:
- Đó là biến chuyển chúng Tình yêu đưa đến chiến tranh. Có cuộc chiến tranh nào tàn khốc cho bằng cuộc chiến tranh giữa hai người bạn cũ, khi tình yêu không còn nữa. Cô hãy coi các người Mỹ và chúng ta.
Diễm cười, và Lưu Phong cũng nở một nụ cười đắc thắng:
- Người ta cũng ghi nhận thếm là còn nhiều mối tương quan khác nữa, như mối tương quan về sự xúc cảm và về phép xử thế, về màu sắc và về thời tiết. Trong thân thể người ta, có những mối tương quan giữa ruột gan, tê bào, khí huyết và các cửa khẩu. Cũng đừng quên rằng còn có những mối quan hệ về thời gian, về bốn mùa, và về phương hướng.
Muốn sống khỏe mạnh cho đến già, người ta phải sống trong sự hòa điệu với mọi chu kỳ đổi thay của vũ trụ.
Mụ Vương bước vào phòng, tay bưng một bình trà và hai cái tách. Mụ hướng về phía Lưu Phong, nói:
- Thưa đồng chí khả kính, đồng chí nói nhiều chắc đã khô cổ, xin mời đồng chí dùng trà.
Lưu Phong tiếp nhận một tách trà, nhưng cau mặt và lạnh lùng cự:
- Không những từ ngữ “khả kính” đã lỗi thời, mà còn bị quy luật mới cấm đoán nữa là khác.
Mụ Vương tỏ vẻ sợ hãi. Mụ nói:
- Xin đồng chí hãy tha thứ cho kẻ già nua ngốc nghếch này. Tôi quên khuấy đi mất!
- Vậy thì, từ nay không được quên nhé!
Thái độ cứng rắn của Lưu Phong làm Diễm khó chịu, nàng muốn bênh vực bà giúp việc. Nàng nói:
- Mụ có vi phạm về sự giao thiệp mới chăng? Nhưng cũ thì chắc là không rồi.
Bị châm biếm, Lưu Phong giận đến đỏ mặt.
- Công tác giáo dục người nông dân chẳng bao giờ chấm dứt cả, nhưng ta vẫn phải kiên trì. Tất cả mọi người, luôn cả những người ngu muội nhất cũng phải tiến bước trên Con Đường Mới.
Diễm hỏi móc:
- Con Đường Mới là như thế đó sao?
Trước một câu hỏi không những hỗn xược, mà còn có tính cách khiêu khích, Lưu Phong thấy tốt hơn là thôi không nói nữa. Anh ta để chén trà xuống cái bàn nhỏ, mặt sa sầm, lặng thinh suy nghĩ. Đột nhiên Lưu Phong đứng dậy, nhìn thẳng vào mắt Diễm:
- Tất cả những điều tôi nói với cô đều là chuyện bịa đặt ngu ngốc.
Sau giọng nói đanh thép đó, anh ta bỏ về, băng qua sân với nhỏ:
Diễm hỏi:
- Các vị đó chết cả rồi sao?
Mụ ta tiến đến gần chủ, ngó trước ngó sau, rồi bắt đầu kê nho
- Đây là nhà của họ. Họ cũng có đất đai ngoài thành phố - những bước chân dài, không một lời từ giã. Lão Vương cúi mình sát đất chào Lưu Phong ngoài cổng, nhưng anh ta cứ vênh mặt lên, thẳng bước chẳng thèm nhìn. Lão Vương đóng cổng, cài then lại.
Trong căn phòng mà Lưu Phong bước ra, mụ Vương đang thu dọn ấm chén, miệng lẩm bẩm chẳng nghe rõ câu gì. Búi tóc của mụ tung ra, một lọn tóc độn rơi xuống đất.
Diễm bước ra đứng ở ngưỡng cửa để trông theo Lưu Phong ra về. Rồi nàng quay lại, cất tiếng hỏi, vẻ thích thú:
- Này bà già đảm đang, bà nói gì thế?
Vừa thu dọn ấm chén, mụ Vương vừa ngước mắt lên nhìn chủ; hình dáng thẳng băng của nàng in rõ trên khung cửa ánh vàng của buổi chiều tà.
- Thưa nữ chủ, tôi vẫn biết, thời buổi bây giờ cấm không được gọi là ai bằng danh từ khả kính. Nhưng chúng ta là đại chúng, chúng ta sẽ ra sao nếu không còn ai khả kính để chúng ta vâng phục nữa? Than ôi! thời buổi này, các vị khả kính của chúng ta đâu hết rồi? Họ chỉ còn là những bóng ma bị xua đuổi. Giờ đây, không ai hơn ai hết. Cuộc đời không còn gì là thú vị nữa; chúng ta đều bằng vai phải lứa với nhau. Những bậc bê trên của chúng ta đâu rồi, những vị mà Trời đã truyền dạy chúng ta phải vâng phục, vì được Trời ủy thác cho nhiệm vụ chỉ huy. Ôi! Thật là đau khổ mỗi khi tôi nghĩ đến cái chết của những chủ cũ của tôi. Họ là những vị kha kính của gia đình này...
Mụ đặt khay trà xuống bàn, đưa vạt áo bằng vải xanh lên lau nước mắt.
"Không nhiều lắm, nhưng cũng đủ thóc ăn. Chính vì có đất nên người chủ già của tôi mới phải chết. Thay Vĩ Đại, họ đã vi phạm tình bằng hữu. Trong suốt một thế kỷ, về phía Tây phương, họ là người bạn duy nhất của chúng ta. Chỉ có họ là không xâm nhưng, đó là chuyện có thật.
Hồn ma của ông già bị hạ sát như còn phảng phất đâu đây trong căn phòng này. Nếu nàng không có phản ứng gì, thì nàng cũng chẳng thể làm gì để trục xuất hồn ma này được.
Màn đêm buông xuống, Diễm dùng cơm và sau khi hai vợ chồng người lão bộc chúc nàng ngủ ngon rồi rút xuống nhà dưới, nàng cảm thấy cô đơn một cách lạ lùng. Nàng vào phòng riêng, cài then gỗ chặn cửa lại, rồi ngồi vào bàn viết thư cho Mai. Nàng cố hình dung người em gái tươi trẻ, nồng nhiệt này đang có mặt nơi đây. Trước khi cầm bút, nàng nhắm mắt hồi tưởng lại những lúc em mình đang đánh ngân dài những nốt nhạc trầm bổng trong tư thế rất quen thuộc: tha thướt trong chiếc áo dài Trung Hoa, suối tóc đen mượt rủ xuống bờ vai, đôi mắt sáng ngời, vẻ mặt thật linh động.
Diễm viết:
“Em rất thương mến của chị. Hiện chị đang ngồi dưới mái nhà của chị để viết cho em mấy dòng này trước khi qua đêm thứ nhất. Trong đời chị, đêm nay cũng là đêm đầu tiên mà chị cảm thấy cô độc. Thật ra thì có hai vợ chồng ông già tình hữu nghị phải trường tồn, nếu không thì ắt phải có sự giả dối về phần một bên nào đó. Một khi đã giả dối một lần thì sẽ giả dối mãi mãi. được không.
Mọi sự đều quá mới - và qua cũ nữa. Cho tới nay sống giữa hai cảnh này, tâm trí chị vẫn chưa được thăng bằng. Chắc em sẽ cau mày lại, xoi bói hỏi chị: Chị cả ơi! Em không hiểu chị muốn nói gì? Phần chị, chị cũng chỉ biết nói với em là: Chị cũng không hiểu chi nốt.”
Diễm viết trong suốt một tiếng đồng hồ, ký tên rồi bỏ thư vào bì. Khi để địa chỉ ngoài phong bì, nàng thở dài thầm nghĩ: San Francisco xa cách ngàn trùng! Nhưng nàng đã trấn tĩnh lại ngay và tự trách: “mình thật hồ đồ. Mới chân ướt chân ráo trở về đây, thì hãy đợi nhận các thư phúc đáp của Clem đã nào...” Nàng nghĩ đến những lúc Clem đang cắm cúi nhìn vào kính hiển vi trong phòng thí nghiệm, mái tóc mầu nâu óng mượt dưới ánh nắng. Tiếng nói mạnh dạn của Clem như văng vẳng bên tai: “Diễm ơi! Vẫn chưa kiếm được cây Hoa Đặt Tiên cần thiết. Hay là anh chàng Trung Hoa tỵ nạn đó đã nhầm lẫn về loại cây rồi. Dầu sao thì thứ cây này cũng không có tính chất diệt trừ được bệnh sốt rét”.
Trong sách khảo cứu về thuốc, tức cuốn “Các loại cây thuốc” viết dưới thời Vua Thần Nông bên Trung Hoa, vào khoảng 2700 năm trước Thiên Chúa giáng sinh, Diễm và Clem đã khám phá ra rằng có một loại cây mang tên Bát Tiên Hoa nào đó, dùng để chữa bệnh sốt rét rừng - chất thuốc chiết xuất từ cây này ra, mang tên là Ch’ang Shan. Hai người mong ước có trong tay loại cây này để thí nghiệm, nhưng vô phương, vì loại cây này bị cấm xuất cảngài mà họ tưởng tượng.
- Thì họ cứ việc tưởng tượng đi! - Lương phu nhân lắc đầu nhắc lại, rồi bà lảng sang chuyện khác.
Ba ngày sau, bà trở về Thượng Hải.