Chương 67 VĂN PHÒNG QUAN CHƯỞNG LÝ
Trong lúc Danglars đến viện dân biểu thì Danglars phu nhân cũng sai đóng ngựa vào xe rồi rời khỏi nhà. Khi cỗ xe đến chân cầu Mới, bà ta xuống xe, bảo đánh về nhà, rồi đi bộ qua cầu. Đến phố Guénégaud, bà ta bước chân lên một cỗ xe thuê. Ngồi trong xe bà lấy một cái khăn the trùm kín đầu để không ai nhìn thấy mặt rồi ra lệnh cho xe tiến về phía quảng trường Đôphin, đi vào sân toà án.
Trả tiền xe xong, bà bước lên cầu thang, đi qua dãy hành lang rồi vào phòng đợi của quan chưởng lý. Một người tùy phái đã chờ ở đó để đưa bà vào văn phòng của Villefort. Viên chưởng lý đang ngồi viết ở bàn giấy, chạy ra khóa trái cửa lại, kéo rèm che cửa cẩn thận để bên ngoài không nghe rõ tiếng động rồi kéo ghế mời thiếu phụ ngồi. Villefort cũng ngồi xuống trước mặt rồi nói:
- Xin cám ơn sự đúng hẹn. Đã lâu lắm chúng ta không gặp nhau. Hôm nay mới có dịp nói chuyện riêng với bà, nhưng rất tiếc rằng câu chuyện này lại rất buồn cho cả đôi ta.
- Tuy vậy ông ạ. Tôi đã đến do lời kêu gọi đầu tiên của ông, mặc dù tôi biết chắc chắn rằng câu chuyện này đau buồn đối với tôi hơn là đối với ông.
Villefort mỉm cười cay đắng:
- Như vậy đúng là những hành động của chúng ta đều có để lại dấu vết, cái thì âm thầm, cái thì quá rõ trong quá khứ. Có thật là những bước chân của chúng ta trên cõi đời này giống như bước đi của loài bò sát trên bãi cát để lại một đường rãnh không?
- Ông ơi! Ông cũng thông cảm cho sự xúc động của tôi chứ! Xin ông hãy dè dặt cho tôi một chút. Trong cái buồng đó biết bao việc đã xảy ra, cái ghế bành đó tôi đã ngồi vào, run rẩy và xấu xa!... Ôi! Tôi cảm thấy ở tôi một người đàn bà tội lỗi và ông là một vị quan toà đáng sợ.
Villefort lắc đầu, thở dài:
- Còn tôi, tôi nói rằng chỗ của tôi không phải là chiếc ghế bành của quan toà mà ở cái ghế của kẻ bị cáo trước vành móng ngựa.
- Tôi tưởng rằng những người đàn bà tội lỗi như tôi mới phải cầu xin Thượng đế khoan dung, còn ông, ông là người nắm pháp luật trong tay thì còn lo sợ nỗi gì!
- Tôi bây giờ không còn là một người nghiêm khắc và giả nhân giả nghĩa như thời ở Marseille xa xôi nữa. Từ đó, cuộc đời của tôi đã có biết bao đổi thay. Tôi đã chạy theo những tham vọng lớn lao, và hoặc vô tình, hoặc hữu ý, đã dẫn dắt tôi đến những việc làm xấu xa bỉ ổi đã làm tôi trở nên mù quáng. Bà chỉ mới nhìn vào quá khứ thôi, nó đã sầu thảm lắm rồi. Nhưng bà hãy hình dung đến tương lai, nó còn sầu thảm hơn, còn ghê gớm hơn... Có thể còn uống máu nữa!...
Nam tước phu nhân rất hiểu sự bình tĩnh của Villefort, bà hãi hùng thấy ông ta nói hăng say như vậy, bà há mồm muốn kêu nhưng tiếng kêu tắc ở cuống họng. Villefort nói tiếp:
- Tại sao cái quá khứ khiếp đảm ấy lại trỗi dậy? Bằng cách nào mà nó lại có thể trỗi dậy từ đáy lòng chúng ta như một cái bóng ma đe dọa bà và tôi?
- Do một sự tình cờ chăng?
- Tình cờ? Không đâu bà ạ. Chẳng làm gì có sự tình cờ nào cả.
- Có chứ! Không phải là do tình cờ mà đã xảy ra tất cả sự việc đó à? Có phải là do tình cờ mà bá tước Monte Cristo đã mua ngôi nhà đó không? Có phải là do tình cờ mà ông ta cho đào chỗ đất đó lên không? Có phải là do tình cờ mà hài nhi xấu số đã bị đào lên không? Hài nhi khốn khổ do tôi sinh ra mà tôi chưa hôn nó được cái nào, nhưng tôi đã đổ cho nó biết bao nước mắt. Ôi! Trái tim tôi đã tan nát khi bá tước nói đến cái xác hài nhi được khai quật lên.
- Không đâu bà ạ! - Villefort nói như gầm lên. - Bà hãy nghe cái điều ghê gớm mà tôi sắp nói ra đây: không, không có cái xác hài nhi nào được khai quật lên cả. Không! Ta không được khóc nữa, ta không được than vãn nữa, ta đừng để phải run sợ!
- Ông nói gì kia hả ông? - Phu nhân thổn thức hỏi.
- Tôi muốn nói rằng Monte Cristo chẳng đào thấy cái quái gì cả, cả xác lẫn hồn, chúng có còn ở đấy nữa đâu mà đào được.
- Thế nào? - Phu nhân nhìn Villefort bằng cặp mắt hãi hùng. - Chính tay ông đã chôn nó ở đấy kia mà? Ông đánh lừa tôi làm gì? Xin ông hãy nói đi.
- Phải! Ở đấy! Nhưng bà hãy nghe tôi nói đây, bà sẽ thấy thương tôi đã hai mươi năm nay bị đè nặng dưới đau thương mà không hề san sẻ cho bà được.
- Trời ơi! Ông làm cho tôi hãi hùng quá! Nhưng tôi xin ông cứ nói đi.
- Bà còn nhớ cái đêm đau khổ đó chứ? Bà thì nằm kiệt sức trong căn phòng căng riềm đỏ, tôi thì hổn hển lo lắng chờ đứa con của chúng ta ra đời. Khi bà trao cho tôi đứa hài nhi không cựa quậy, không khóc, chúng ta tưởng nó chết. Tôi đem nó đặt vào một cái hòm, đưa xuống vườn chôn. Tôi đang vừa lấp đất thì vụt một cái, thằng cha người Corse nhảy ra đâm tôi một nhát. Tôi thấy đau nhói ở lưng, và ngã xuống bất tỉnh. Một lúc sau, tôi hồi tỉnh, lấy hết sức lực còn lại bò được tới chân cầu thang thì được bà và người vú già chạy ra nâng dậy. Việc này đã được giữ kín, không một ai biết cả, vết thương của tôi được coi là do một cuộc đấu gươm. Tôi được chở đến bệnh viện Versailles và trong ba tháng tôi phải vật lộn với thần chết. Rồi tôi được đưa đi dưỡng bệnh ở miền Nam nước Pháp. Sáu tháng sau, tôi trở về Paris được tin ông Nargonne đã chết, và bà tái giá với nam tước Danglars.
Từ ngày đó hình ảnh đứa bé luôn luôn ám ảnh tôi. Mỗi đêm tôi mơ thấy nó trở về nhìn tôi bằng đôi mắt hăm dọa. Tôi nghĩ tới thằng cha người Corse đâm tôi vì thù hằn, nó đã trông thấy tôi chôn đứa bé, chắc chắn là như vậy. Nếu sau này nó biết tôi chưa chết, nó sẽ có cớ để trả thù lại. Tôi quyết định trở lại ngôi nhà của ông bố vợ cũ của tôi và được biết hầu tước Saint Méran vừa cho người khác thuê. Tôi phải bồi thường một số tiền cho người đó để lấy lại ngôi nhà.
Một buổi tối, tôi đến ngôi nhà, đi vào căn phòng căng riềm đỏ ngồi đợi. Đến đêm tôi đi xuống cầu thang, ra vườn, hai chân run cầm cập. Trời tối đen như mực, gió lạnh thổi buốt đến xương, mảnh trăng lưỡi liềm le lói trên bầu trời làm cho cảnh tượng thêm hãi hùng bi thảm. Tôi treo chiếc đèn bão vào một cành cây rồi tìm đúng chỗ đã chôn thằng bé để đào. Tôi đào mãi, đào mãi, vẫn chưa thấy gì cả. Tôi đào sang cả xung quanh cũng vẫn không thấy cái hòm đâu. Tôi cho rằng tên giết người thấy tôi chôn cái hòm tưởng hòm tiền và sau khi tôi bị đâm gục xuống, nó bới lên và biết đã bị nhầm.
Tôi đặt giả thiết là thấy xác một hài nhi, nó đã quẳng đi, hoặc đem trình nhà chức trách. Tôi chờ đến sáng, tìm kiếm khắp mảnh vườn nhưng không thấy gì. Tôi lại đào, lại xới cả một diện tích hai mươi bộ vuông. Kết quả cũng không hơn gì lần trước.
- Ôi! Tôi phát điên lên mất! - Nam tước phu nhân kêu lên.
- Đã có lúc tôi mong như thế mà chẳng được cho. Tuy nhiên, tôi cũng cố suy đoán rằng tên đó mang cái xác hài nhi đi để làm gì?
- Thì ông đã chẳng nói là để nó có một tang chứng?
- Ồ! Không phải như thế đâu bà ạ! Không dưng người ta lại giữ cái xác chết trong một năm mà làm gì. Tên đó sẽ nộp nó cho sở cảnh sát chứ? Thế mà việc đó lại không xảy ra.
- Nếu vậy thì... - Phu nhân thở hổn hển kêu lên.
- Nếu vậy thì có một vấn đề xảy ra cho chúng ta ghê gớm hơn, ác liệt hơn, hãi hùng hơn: đứa bé có thể còn sống và... Tên sát nhân đã cứu nó.
Danglars phu nhân thét lên một tiếng khiếp đảm, nắm chặt lấy tay Villefort:
- Con tôi còn sống à? Ông đã chôn sống con tôi rồi! Ông chưa chắc là con tôi đã chết mà ông đã đem chôn nó. Ôi! Con tôi... Ôi! Con tôi!
Rồi phu nhân ngã xuống một chiếc ghế, lấy khăn mùi soa cố bịt những tiếng nức nở.
Villefort hiểu rằng muốn chuyển hướng giông tố của người mẹ khỏi giáng xuống đầu mình thì phải chuyển cho bà ta điều mà mình lo sợ:
- Bà phải hiểu rằng nếu điều đó xảy ra thì chúng ta nguy mất! Thằng bé còn sống tức là kẻ nào đó đã nắm được bí mật của chúng ta. Chính Monte Cristo nói với chúng ta đã đào thấy một đứa bé, mà chắc chắn đứa bé không còn chôn ở đấy. Kẻ đó chính là Monte Cristo!
- Nhưng đứa bé đó... Thưa ông?
- Ôi! Tôi đã lùng tìm nó bao nhiêu lâu rồi! - Villefort bóp hai bàn tay vào nhau. - Đã trăm lần tôi nghĩ rằng tên sát nhân thấy nó còn sống và đã ném nó xuống sông.
- Ôi! Không thể thế được! - Bà Danglars kêu lên. - Vì báo thù mà người ta ám sát một con người chứ bỗng dưng không ai nỡ dìm chết một đứa bé!
- Có thể hắn đã đưa đứa bé vào cô nhi viện.
-Phải! Phải! - Bà nam tước reo lên. - Con tôi ở đấy ông ạ.
- Tôi vội chạy đến cô nhi viện và tôi được biết rằng cái đêm hôm đó, đêm ngày 20 tháng Chín, một hài nhi được đưa vào đấy. Nó được quấn trong một nửa cái khăn mặt bằng vải mỏng xé ra có dụng ý. Nửa cái khăn mặt đó mang một nửa dấu hiệu bá tước và một chữ H.
- Đúng đấy, đúng đấy! - Bà Danglars nhắc lại vui sướng. - Tất cả quần áo của tôi đều có cái dấu ấy. Chồng trước của tôi là bá tước, tôi là Hermine. Xin cám ơn Chúa! Con tôi còn sống! Bây giờ, nó ở đâu?
- Tôi biết đâu đấy? - Villefort nhún vai. - Không! Tôi không biết đâu. Sáu tháng sau, một người đàn bà mang nửa chiếc khăn mặt kia đến đòi lại đứa bé và đã mang nó đi rồi.
- Nhưng phải tìm cho ra người đàn bà ấy chứ?
- Bà chả phải bảo tôi việc ấy. Tôi đã giả định đó là vụ án giết người, đã phái những tên đặc vụ, những tên cảnh sát khôn khéo nhất đi lùng tìm, nhưng rồi chẳng thấy tăm hơi đứa bé đâu.
- Thế là hết à? Ông chịu dừng lại ở đấy à?
- Ồ! Không. - Villefort đáp. - Tôi không hề ngừng việc tìm kiếm. Tuy nhiên, hai ba năm gần đây công việc này có đình trệ đôi chút. Nhưng bắt đầu từ giờ phút này tôi sẽ tiếp tục hăng say hơn, kiên quyết hơn vì không phải chỉ có lương tâm thúc đẩy mà còn là sự sợ hãi nữa.
- Nhưng. - Bà Danglars nói tiếp. - Bá tước chắc là không biết gì về chuyện này đâu vì nếu không chúng ta đã bị tố cáo rồi.
- Biết đâu đấy? Lòng người nham hiểm ai đo cho tường được Bà có thấy cặp mắt hắn ta khi nói chuyện với chúng ta không?
- Thế bây giờ chúng ta phải làm như thế nào?
- Làm thế nào à? Trong tám hôm nữa tôi phải tìm hiểu cho bằng được Monte Cristo là ai, hắn ở đâu đến, hắn đi đâu và tại sao hắn lại nói với chúng ta về việc khai quật được đứa trẻ trong cái vườn của hắn?
Villefort nói câu ấy bằng cái giọng mà nếu Monte Cristo nghe thấy cũng phảii sởn gáy. Rồi ông ta bắt tay từ biệt nam tước phu nhân và tiễn bà ta đến cửa.