← Quay lại trang sách

- 5 -

Sài Gòn, ngày 25-5...

Em Diễm,

Sau cái đêm hôm ấy, thầy thấy mình như vừa trải qua một cơn mơ, một giấc mơ vô cùng êm ái, nhưng khi tỉnh dậy mới hay đó là một giấc mộng hãi hùng.

Diễm ơi, Diễm là nàng tiên hay gái Liêu Trai? Diễm là hiện thân của tình yêu hay là của tội lỗi? Dầu là ai, dầu là gì, Diễm cũng đã sa vào vực thẳm và lôi cuốn bao nhiêu người khác cùng chới với rơi theo.

Cho đến giờ phút này, thầy cũng chưa hiểu tại sao Diễm lại tìm đến với thầy giữa khung cảnh vô cùng quyến rũ. Diễm tìm đến với tấm chân tình hay muốn đền bù tội lỗi? Diễm tìm đến để thử thách một tấm lòng hay muốn gỡ chiếc mặt nạ đạo đức của con người mà Diễm đã oán ghét và gây ra bao cơn giông bão phũ phàng?

Với mục đích gì thì Diễm cũng đã toại nguyện. Còn thầy, thầy sẽ hối hận mãi với lương tâm, thầy sẽ không bao giờ gặp lại Diễm nữa, không muốn thấy Diễm xem tình yêu như trò giải trí, theo quan niệm của nhân vật trong tiểu thuyết Sagan.

Có lúc thầy muốn tìm hiểu Diễm, tìm hiểu nhân sinh quan lẫn luyến ái quan của thế hệ trẻ hôm nay. Thầy thấy một số đông con nhà khá giả đang tiến sâu vào con đường lầy lụa, nguy hiểm, lắm kẻ đang đứng bên vờ vực thẳm, lắm kẻ đã rơi xuống vực sâu để mai một cuộc đời đầy hứa hẹn. Làm thế nào để cứu vớt họ, đưa họ trở về con đường sáng, giao cho họ một lý tưởng để phụng sự, giao cho họ một niềm tin mãnh liệt ở tương lai?

Nhưng giờ đây thì thầy cảm thấy mình bất lực. Giờ đây thầy mới nhận thấy; sống trong một xã hội quay cuồng, ta khó mà thoát khỏi vòng cuồng quay một khi ta chưa phải là thánh nhân hay như bậc chân tu đắc đạo dưới cội bồ đề ngày xưa. Cũng may là lý trí đã đến kịp thời, lương tâm đã ngăn kịp bước chân sắp rơi vào vực thẳm.

Diễm ơi, bao nhiêu đó cũng đủ rồi. Thầy mong Diễm sớm giác ngộ, từ bỏ những cuộc thử thách nguy hiểm, trở về với bản ngã thuần lương. Diễm còn trẻ đẹp, Diễm còn cả một tương lai trước mắt, tại sao lại xem cuộc đời là “phi lý”, là “bi đát” để rồi cũng bắt chước buồn nôn như những kẻ trốn chạy trách nhiệm trong khi bao nhiêu người đang gian lao tranh đấu và bao nhiêu người đã hy sinh xương máu cho đất nước được vinh quang.

Từ đây, mặc dù cách xa, thầy vẫn đặt niềm tin ở Diễm. Mong Diễm sẽ là con chim xanh tung cánh giữa bầu trời quang đãng, cất tiếng hót líu lo ca ngợi mùa xuân của đời mình, mùa xuân của dân tộc...

HOÀNG

Trảng Bàng, ngày 1-6...

Cháu Hạnh, Loan mến,

Bức thư này đến với hai cháu để thay lời từ giã. Chú đã biệt đô thành để về quê, dạy ở một trường trung học. Có lẽ hai cháu ngạc nhiên lắm phải không?

Chắc cháu Hạnh cho rằng: “Chú trốn chạy...” Chắc cháu Loan nghĩ rằng: “Chú chán Sài Gòn.” Sự thật, chú không trốn chạy mà cũng không chán. Một ngày nào đó chú sẽ trở về... Chú chỉ muốn về với quê hương, sống trong không khí ấm cúng của quê hương, hòa mình trong nếp sống của người dân hiền lành mộc mạc. Quê hương của chú hiện đang bị không khí chiến tranh bao trùm. Không ngày nào là không có những chuyện thê lương, tang tóc xảy ra. Không đêm nào là không có những tiếng mọt chê, đại bác nổ vang trời làm rung chuyển cả lòng đất. Trong hoàn cảnh đó, người dân làm thế nào mà sống? Họ phải chịu đựng gian khổ đến mức nào? Đó là những điều mà chú muốn hiểu, dầu có phải chịu đựng gian khổ như họ. Rồi chú sẽ viết thư về cho hai cháu, kể những chuyện buồn, vui cho hai cháu nghe. Hai cháu bằng lòng chứ?

Bây giờ chú nhắc lại kỷ niệm: “Chú nhớ có lần dẫn Hạnh, Loan đi xem phòng triển lãm do một họa sĩ mới nổi tiếng trình bày. Hạnh chú ý đến một bức tranh lụa vẽ một thiếu nữ nằm trên cỏ, giữa một vườn hoa vắng vẻ. Gương mặt thiếu nữ đẹp như mơ, nhất là đôi mắt thu hút tràn đầy khát vọng. Màu sắc bức tranh thật dịu dàng, hòa hợp, thanh nhã.

Hạnh ngắm nghía bức tranh, hỏi chú:

- Bức tranh có ý nghĩa gì, hở chú?

Chú chưa biết trả lời thế nào, cũng may lúc ấy tác giả bức tranh đứng gần đó đáp thay lời chú:

- Người đẹp nằm giữa vườn hoa vắng nói lên cái ý thức cô đơn của con người trước ngoại cảnh. Con người ở đời luôn luôn cảm thấy mình cô đơn, không ai hiểu nổi mình, không ai có thể hòa hợp được với mình. Ý thức ấy càng nổi bật hơn cả đối với người đẹp. Kìa khóe mắt, kìa làn môi, mỗi mỗi đều tỏa ra một niềm khát vọng chỉ vì quá cô đơn, chỉ vì không giải tỏa hết nỗi ẩn ức trong tâm hồn mình.

Hạnh trầm ngâm một lúc:

- Lời ông giải thích rất đúng. Tâm trạng cô đơn là tâm trạng phổ biến của thế hệ trẻ hiện nay. Biết bao nhiêu người sống giữa những tình cảm trìu mến, sống lặn ngụp trong yêu đương mà lại cảm thấy mình cô đơn hơn ai hết. Rồi họ có thể chết vì cô đơn, chết âm thầm như cây cỏ hay chết giữa sự luyến tiếc của bao nhiêu người như trường hợp Marilyn Monroe chẳng hạn.

Nhà họa sĩ đắc ý, cười vểnh râu:

- Cô đã hiểu bức tranh ấy hơn cả tác giả của nó. Thật hân hạnh!

Lúc ấy chú chỉ mỉm cười, không phát biểu ý kiến. Vài hôm sau, Hạnh lại đến tìm chú, cật vấn chú về bức tranh:

- Tại sao hôm đó chú không cho biết ý kiến? Chú cho nhận xét của cháu có đúng không?

Chú đáp ngay:

- Cháu thuộc lớp trẻ thì nhận xét của cháu về tâm trạng tuổi trẻ hẳn là phải đúng rồi. Nhưng riêng cháu, cháu có cảm thấy cô đơn không?

Hạnh chớp chớp mắt rồi thành thật thổ lộ:

- Ngay trong buổi dạ hội, giữa những tiếng cười vui rộn rã, vũ điệu tưng bừng, cháu cảm thấy mình như kẻ lạc loài, tâm hồn cô đơn, trống rỗng. Và ngay ở học đường, sống giữa bạn bè, cháu thấy mỗi người là một vũ trụ riêng biệt chỉ nối liền nhau bởi những hình thức giao tiếp giả tạo, chán chường.

Chú bật cười:

- Cháu học ai cái thứ triết lý rẻ tiền ấy?

Hạnh xụ mặt, có vẻ giận dỗi. Chú chỉ lặng nhìn Hạnh. Không thể chịu được, Hạnh lại nói:

- Có người bạn khuyên cháu một biện pháp chống lại sự cô đơn.

- Họ khuyên thế nào?

- Họ khuyên cháu thực hiện đúng mấy câu thơ sau đây của Alfred de Musset:

“Aime et tu renaitras; fais toi fleur pour éclore.

Après avoir souffert, it faut souffrir encore;

Il faut aimer sans cesse après avoir aimé”.

Phải tận hưởng yêu đương, phải gặm nhấm đau khổ, đó là hai thứ hưởng lạc của những tâm hồn phong phú, tế nhị.

Chú không thể bình thản được nữa:

- Họ xúi bậy cháu đấy! Tại sao yêu đương và đau khổ có thể chống lại với cô đơn? Nếu quả người vốn cô đơn, cuộc đời vốn phi lý, trò đời vốn bi đát, thì yêu đương và đau khổ cũng chỉ là những phương tiện đưa đến cái cứu cánh cô đơn, phi lý, bi đát mà thôi. Ta vẫn ở trong vòng lẩn quẩn, không lối thoát.

Hạnh có vẻ bất mãn, lắc đầu rồi:

- Tư tưởng của chú đã bị vượt rồi. Chú đã bị thế hệ trẻ tiến bộ vượt xa rồi.

Hạnh à, kỷ niệm mà chú vừa nhắc lại đó, chú đã mang nặng trong tâm tư và thường đem ra suy ngẫm. Chú thường tự hỏi: “Có phải mình đã lạc hậu rồi không? Và nếu tiến bộ như thế hệ trẻ ngày nay, chúng sẽ tiến đến đâu? Tiến đến vực thẳm hay tiến đến vong bản?” Chú cứ thắc mắc mãi, cho đến ngày nay mới tìm được giải pháp giản dị.

Thật là giản dị. Ra khỏi Sài Gòn, hòa đồng với thanh niên ở một quận hẻo lánh xa xôi, chú mới biết rằng chỉ có một số thanh niên kiều dưỡng ở đó mới có những tư tưởng bi quan quái gở. Họ thuộc “Đợt sống mới thực tập” bị lôi cuốn vào nếp sống thác loạn của thời đại do sự dao động mãnh liệt của những luồng sóng tư tưởng Tây phương thời hậu chiến. Họ thấy nếp sống ấy là lạ, hay hay, chớ chưa bao giờ họ tìm ra nguyên nhân sâu xa đã tạo ra hiện tượng đó. Họ chỉ hiểu nhân sinh quan triết học một cách mù mờ rồi vội tập tễnh thực hành một cách say sưa, lệch lạc.

Có điều chú nhận thấy lời của Hạnh ngày nào là đúng, nếu ta hiểu rộng rãi lời khuyên của Musset (mà có lẽ Musset không nghĩ như vậy). Phải, yêu đương và đau khổ là phương châm lý tưởng của chúng ta ngày nay, nếu ta hiểu: YÊU ĐƯƠNG là thương yêu đồng bào và ĐAU KHỔ là đau niềm đau của dân tộc.

Được như vậy, ta sẽ không còn sợ cô đơn, vì tâm hồn ta đã hòa đồng với tâm hồn dân tộc. Phải thế không, Hạnh?

Chúc Hạnh, Loan vui vẻ, yêu đời và hạnh phúc.

Người chú phương xa

HOÀNG

Trảng Bàng, ngày 5-6...

Cháu Phượng mến,

Cậu về đất Trảng để nhìn lại quê hương u buồn sau hơn hai mươi năm khói lửa. Cậu về đây để rèn luyện những mầm non ở nơi chôn nhau cắt rốn. Phượng có biết không khí Trảng Bàng và không khí Sài Gòn khác nhau thế nào không?

Học sinh ngoan ngoãn biết kính thầy, mến bạn. Tuổi trẻ vẫn giữ những bản sắc của tuổi trẻ không bị vẫn đục bởi những tư tưởng ngoại lai, không bị hoen ố bởi những cạm bẫy phù hoa, đồi trụy. Có khác chăng là khoé mắt chúng như đượm vẻ u hoài của quê hương tang tóc, làm cho tâm hồn chúng như tiềm ẩn một ý thức phấn đấu mãnh liệt và niềm khát vọng đất nước được thanh bình. Điều đó không có gì lạ. Chúng đã chứng kiến hàng ngày những thảm trạng chiến tranh, sinh mạng con người bị thường xuyên đe dọa, giá trị con người nhiều khi bị hạ xuống hàng súc vật. Chúng còn thì giờ đâu mà băn khoăn, thắc mắc những tư tưởng viễn vông, xa vời thực tế.

Hình ảnh của chúng làm cho cậu liên tưởng đến Lệ Chi và Phượng. Sống trong không khí vẩn đục, Chi và Phượng vẫn giữ được sự trong trắng đáng quý của tuổi xanh, không bị lôi cuốn bởi những trận cuồng phong ghê gớm. Có thể hai cháu bị xếp vào loại “cổ lỗ sĩ” cũng như cậu xếp vào hạng “chậm tiến”, nhưng ta để ý làm gì đến sự phê phán vô ý thức ấy. Nếu ta không cứu vớt được những kẻ sa chân vào vực thẳm thì chúng ta cũng đừng để mình lỡ bước rơi theo...

Phượng, có những lúc nhìn ra chân trời xa thẳm chìm đắm trong màn sương, cậu hình dung hình ảnh của Phượng đang tựa cửa sổ nhìn xuống đường... mỗi khi cậu xa vắng.

Hình ảnh ấy đẹp quá! Nó in sâu vào tâm hồn cậu và đem lại nguồn an ủi cho cậu ở bất cứ nơi nào và lúc nào. Trải qua bao cơn thử thách, gạn lọc lại tình cảm, cậu chỉ còn ghi nhận lại một tấm chân tình duy nhất ấy mà thôi.

Phượng ơi! Phượng hãy ráng học và ráng đợi. Nếu giông bão cuộc đời không giết chết tấm chân tình kia, nếu gió bụi phù hoa không biến đổi được một tấm lòng chung thủy, một ngày nào đó cậu sẽ về. Cậu về để Phượng khỏi mòn mỏi chờ đợi và sẽ kể cho Phượng nghe bao chuyện vui, buồn của kiếp sống phong sương. Đừng buồn nhé, Phượng! Hãy nhìn đời với cặp kính màu hồng và hãy:

Gìn vàng giữ ngọc cho hay,

Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời...”

Thân ái,

HOÀNG