- 8 -
Xe vừa dừng trước cửa, Hoàng đã thấy Lệ và Phong từ trong nhà chạy ra. Cả hai đồng reo lên:
- Thầy về, thầy về.
Phong chạy lại xách cặp cho thầy, hí hởn nói:
- Sao thầy về trễ quá, làm chúng em đợi muốn chết. Chắc đường bị đắp mô phải không thầy?
Lệ đi bên cạnh cũng xen vào hỏi:
- Hôm nay có lội bộ không thầy?
Giáo sư Hoàng vui vẻ nói:
- Đường bị đấp mô hai ba chặng, làm phải lội bộ hàng mấy cây số. Qua mỗi chặng phải sang xe, khi thì xe lôi, khi thì xe “ôm”.
Lệ tươi cười hỏi:
- Xe gì mà “ôm” hở thầy?
Phong làm lanh:
- Chị quê một cục, không biết gì hết. Những người lái xe máy đầu nhỏ như Honda, Yamaha, Suzuki chở thêm hành khách ở phía sau, người ngồi sau phải ôm eo ếch người trước, người ta gọi là “xe ôm”. Chị biết chưa?
Lệ bật cười:
- Thật không có nước nào có xe rước khách lạ đời như nước mình. Nhưng sao thầy lại đi làm chi cái thứ xe mắc dịch ấy? Em thì thà chết còn hơn.
Hoàng vui vẻ giải thích:
- Có những quãng đường bị mô, xe hơi qua không được, chỉ có những chiếc xe gắn máy và máy dầu nhỏ rước khách. Nếu không đi xe “ôm” thì đi xe gì bây giờ?
Vào đến trong nhà, Hoàng hỏi:
- Chị Lan mấy em đâu?
Lệ nhanh nhẩu đáp:
- Chị Lan đang làm bếp. Hôm nay chúa nhật, chị ấy nấu một bữa cơm thật ngon để đợi thầy về. Nhưng buổi trưa thầy không về kịp, làm cơm canh nguội ngắt, thật uổng ghê! Bây giờ chị đang lo bữa cơm chiều, chắc thế nào thầy cũng về tới.
Giữa lúc ấy, Phong chạy ra sau bếp reo to:
- Chị Lan ơi, thầy về.
Lan từ nhà sau chạy lên. Nàng mặc chiếc áo ngắn tay màu hoa cà. Mái tóc thắt đuôi ngựa với chiếc nơ màu tím. Má nàng ửng đỏ như mới từ trong bếp lửa. Lan mỉm cười:
- Thầy mới về!
Hoàng vui vẻ đáp:
- Vì đường bị mô nên tôi về trễ.
Nguyên Hoàng là giáo sư ở Sài Gòn, nhưng quê chàng ở Trảng Bàng. Chàng về quê để dạy ở Trường bán công. Về quê hương để rèn luyện những mầm non ở nơi chôn nhau cắt rún, chàng sung sướng như được sống lại thời kỳ trẻ thơ, khi còn cắp sách đi học ở trường làng. Học sinh ở đây siêng năng, ngoan ngoãn, bầu không khí học đường có vẻ thân mật, ấm cúng hơn ở thủ đô. Ngôi nhà này là phần hương hỏa của phụ thân chàng để lại. Nhưng vì bận việc ở Sài Gòn, chàng phải nhờ một đứa cháu gái trông nom trong thời gian vắng mặt.
Lan dịu dàng nói:
- Thầy đi tắm cho mát rồi dùng cơm chiều.
Lệ đem đến một bộ đồ mát cho thầy. Phong thì đem khăn lông và xà bông vào phòng tắm.
Thấy mấy đứa trẻ ríu rít chăm sóc mình, Hoàng cảm thấy tâm hồn thơ thới, vui lây cái vui hồn nhiên của tuổi trẻ.
Lan mỉm cười tươi tắn:
- Trông thầy giống như một tráng sĩ vừa trải qua cảnh “Gió cuốn chinh y, bụi vùi chiến mã”.
Hoàng đưa tay lên vuốt mái tóc đầy bụi đường:
- Cô Lan giàu tưởng tượng lắm. Cô nên tập làm thơ đi. Cam đoan sẽ trở nên một nữ thi sĩ trứ danh.
Lệ bật cười to:
- Chị Lan làm thơ con cóc thì tuyệt diệu!
Lan khẽ đập vai em, rồi rút lui xuống bếp. Hoàng vừa bước đi vừa mỉm cười, chẳng hiểu chàng cười gì.
Buổi chiều chầm chậm trôi đi...
Sau bữa cơm thì trời sụp tối.
Mặc dầu nhà ở Châu Thành, mới chạng vạng Lan đã lo đóng cửa cài then cẩn thận. Vì nhà Hoàng ở gần một trại nghĩa quân, mọi người trong nhà phải đề phòng bất trắc. Đứa cháu gái Hoàng đêm nào cũng tản cư về nhà cha ruột, có vẻ an toàn hơn.
Khi chưa có chị em Lan về đây, đêm đến Hoàng chỉ ở một mình trong ngôi nhà trống trải thênh thang, cô đơn dưới bóng hoa đèn, cô đơn nằm nghe súng nổ. Bây giờ thì không khí có vẻ rộn rịp, vui tươi.
Mọi người tụ họp ở phía nhà khách. Dưới ánh đèn nê ông tỏa ánh sáng xanh dịu, Hoàng nằm trên võng đong đưa, tay cầm một quyển sách đang xem dở.
Chàng cầm sách mà tầm mắt hướng lên nhà, mơ màng nhìn theo làn khói thuốc tản mạn trên những chiếc kèo bị bụi bám nhện giăng. Lệ và Phong ngồi làm bài nơi bàn giấy.
Lan ngồi trên chiếc ghế xếp, may nốt chiếc áo mới cho Lệ. Mắt nàng đăm đăm nhìn theo đường kim xuyên qua làn vải trắng, màu trắng trinh nguyên của tuổi học trò.
Thỉnh thoảng nàng ngước lên nhìn bình hương tỏa khói trên bàn thờ mẹ đặt ở cạnh tường. Một vẻ buồn thoáng hiện trên khóe mắt ưu tư. Nàng miên man đắm chìm trong ký ức, với những tai biến dồn dập xảy ra đến cho gia đình mình.
Nàng nhớ đến ngày đưa linh cữu mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng từ nhà thương về đến tận mái nhà thân yêu đã đổ nát. Nàng đã chôn mẹ ở sau vườn, dưới một tàn cây rợp bóng. Nàng muốn tàn cây kia sẽ che sương đỡ nắng cho mồ mẹ.
Nàng muốn một ngày gần đây, nàng sẽ trở về làng cũ, xây dựng lại mái nhà xưa, được gần gũi mãi mãi bên nấm mồ của người mẹ bạc phước. Ngày đưa táng mẹ, nếu không nhờ người cô từ Sài Gòn về và giáo sư Hoàng luôn luôn tận tình giúp đỡ, nàng đã không biết làm sao để cử hành tang lễ với hai bàn tay trắng.
Điều buồn tủi nhất cho Lan là ngày ấy vắng mặt Quân, người mà nàng đặt rất nhiều tin tưởng. Có lẽ chàng chưa hay tin, nhưng dầu sao nàng cũng thấy buồn thầm. Điều an ủi nhất là, trên đường tiễn đưa linh cữu mẹ nàng, có sự hiện diện đông đủ các đồng nghiệp của nàng, đông đủ các học sinh ngây thơ của nàng và của giáo sư Hoàng.
Đến khi hạ quan, mỗi học sinh tiến tới ném xuống huyệt một cánh hoa hoặc một nắm đất, Lệ và Phong quỳ khóc nức nở, còn nàng nhìn chiếc quan tài từ từ bị lấp đất mà nước mắt chảy ròng ròng. Thế là hết! Từ đây vĩnh biệt người mẹ hiền đã săn sóc, cưng yêu chị em nàng từ tấm bé.
Chiến tranh đã cướp đi của nàng một lẽ sống, đã gieo tang tóc đau khổ cho những mái đầu xanh vô tội chưa vẩn đục bụi đời.
Sau ngày tang lễ, chị em nàng bơ vơ. Theo lời khuyên của giáo sư Hoàng, nàng cùng hai em về đây nương tựa. Tuần lễ đầu trải qua buồn tẻ.
Ba chị em thường nhìn nhau ứa lệ. Rồi một tháng trôi qua, nhờ sự đối đãi tử tế của Hoàng mà Lan vơi được phần nào sự đau buồn, Lệ và Phong cũng lấy lại được bản tính hồn nhiên, vui vẻ của tuổi thơ...
Lan đang triền miên lần giở lại trang ký ức, bỗng nghe tiếng Lệ gọi khẽ:
- Chị Lan!
Lan ngẩng lên âu yếm nhìn em:
- Gì thế, Lệ?
- Chúng em làm bài xong rồi. Chị cho chúng em đọc báo nhé?
- Ờ, mấy em đọc báo chơi một lát rồi đi ngủ sớm.
Hoàng day lại phía Lệ và Phong:
- Thầy có đem về mấy tờ báo và tạp chí văn nghệ, hai em cứ lấy ra xem. Thầy để trên bàn đó.
Lệ mừng rỡ nói:
- Em thích những báo nào có phụ trang Tuổi thơ, Tuổi Xanh hoặc Tuổi Hồng, Tuổi Ngọc.
Phong láu lĩnh đùa:
- Có phụ trang Tuổi Đen, Tuổi Xám không chị?
Lệ tươi cười đáp:
- Nếu chị làm báo, chị sẽ mở những phụ trang ấy, vì tuổi của chúng mình không xám thì cũng đen.
Vừa đáp Lệ vừa lật mấy trang báo tìm những mục mà nàng ưa thích. Đọc được vài bài, nàng bỗng vui vẻ gọi chị:
- Chị Lan ơi, ông tướng Quân có đăng bài thơ tặng chị nè. Phải Lan Quân là bút hiệu của ảnh không chị?
Phong vẫn giọng trêu đùa:
- Còn ai vào đó nữa? Ảnh đã ghép tên của ảnh với tên của chị Lan đó mà.
Hoàng dừng xem sách, mỉm cười bảo Lệ:
- Thì Lệ cứ đọc lớn lên cho chị em nghe.
Lệ hỏi chị:
- Em đọc lên, nhen chị? Đọc cho thầy nghe nhờ thầy phê bình giùm nữa chứ.
Lan không đáp, chỉ khẽ gật đầu.
Lệ đọc lớn với giọng trầm buồn phù hợp với tứ thơ:
Hoa thơ cài lòng
(Trọn vẹn về Mộng Lan, Trảng Thơ)
Đường mây suối mộng không bờ,
Tôi đi tôi hái hoa thơ cài lòng.
Sông dài, bể rộng mênh mông.
Thuyền hồn lờ lững trên dòng tương tư.
Thu nay đã mấy thu chừ,
Cây vàng võ, lá trầm tư cũng nhiều.
Đời buồn ngập mấy thương yêu,
Lòng sao chưa dứt một chiều mộng mơ.
Lan Quân.
Lệ đã đọc dứt mà tâm hồn Lan như còn nương theo âm hưởng bay vút tận trời mây. Má nàng ửng hồng, mi nàng chớp chớp như hai cánh bướm.
Lệ vô tư phê bình:
- Thơ hay mà buồn quá! Anh ấy đang bơi trên dòng “Tương tư” đó chị.
Phong vẫn không bỏ được tính liến thoắng:
- Trảng Bàng là xứ nghèo nàn, cằn cỗi mà ông tướng gọi là Trảng Thơ. Thật em phục mấy ông thi sĩ sát đất!
Nghe chị em Lệ phát biểu ý kiến mà Hoàng không khỏi bật cười. Hoàng biết Lan đang đắm chìm trong nhớ nhung mơ mộng, nên không muốn nói gì nhiều, sợ làm tan đi giấc mộng đẹp của người con gái đáng thương. Hoàng chỉ khẽ nói với Phong:
- Thi sĩ có sứ mạng là thi vị hóa cuộc đời để cho đời thêm đẹp. Vậy thi vị hóa quê hương cằn cỗi thành một quê hương thơ mộng, có gì là lạ lùng quá đáng đâu em.
Phong đâu dám cãi thầy nên đành tiu nghỉu lặng im. Giá lời ấy của Lệ, chắc chắn nó còn thừa lý lẽ để mà châm biếm đùa cợt hơn nữa.
Lệ rất thích văn chương và đang ôm ấp nhiều hoài bão về văn nghệ.
Từ lâu nàng cũng đã tập tễnh làm thơ và đã từng lén thầy, lén chị gởi thơ đăng ở các trang Tuổi Ngọc, Tuổi Thơ. Nàng đã trải qua từng đêm thao thức trông mong thơ mình được đăng. Nàng trông cho mau đến sáng, ra hàng báo lật xem (vì nàng đâu có tiền mua báo mỗi ngày!) bài mình đã được chọn đăng chưa, hay đã bị nhà báo bỏ vào sọt giấy.
Mỗi lần có bài thơ được đăng, nàng mừng không thể tả. Đó là niềm vui văn nghệ mà những kẻ phàm phu tục tử không thưởng thức được. Nàng tự hào như thế. Và hôm đó, thế nào nàng cũng nhịn ăn quà để mua tờ báo ấy, về nhà đọc đi đọc lại bài thơ ký bút hiệu Trang Tuyết Lệ một cách đắm đuối, say sưa.
Rồi sau khi đọc, ngâm bài thơ đó đủ cách, đủ giọng, nàng trang trọng cắt thi phẩm của mình đóng vào quyển tập mạ vàng được trình bày thật đẹp, thật trang nhã.
Thật ra, niềm vui văn nghệ ấy đã an ủi Lệ rất nhiều trong cơn đau khổ. Và sự đau khổ đã thành đề tài để nàng sáng tác.
Lúc đầu, thơ nàng rất vui tươi, hồn nhiên; nàng ca ngợi tiếng hát thiên thần của mẹ, tiếng sơn ca reo hót buổi bình minh. Trong thơ nàng có giấc mộng thiên nga, có giấc mơ công chúa, có bướm hoa, có nhã nhạc, có suối ngọc, có vườn tiên. Thật đẹp đẽ thay Tuổi Ngọc vô tư trong lành, tươi mát! Nhưng những tai biến dồn dập khiến cho tiếng thơ của nàng phải chịu ảnh hưởng lây.
Từ ngày bị cảnh nhà tan, mẹ chết, Lệ cảm thấy đau khổ, bơ vơ. Thơ nàng từ đây không còn ẩn trong tháp ngà Tuổi Ngọc mà đã vượt ra, đi sâu vào tâm tư của lớp trẻ đang hòa đồng với sự thống khổ chung của dân tộc, với sắc máu của chiến tranh.
Nàng chối bỏ thù hận bằng cách ca ngợi tình thương, nàng chối bỏ chiến tranh bằng cách ca ngợi hòa bình, nàng chối bỏ Thiên Đường vu vơ để trở về với thực tại đau thương của đất nước.
Lệ tiếp tục đọc mấy bài thơ trong một tờ báo. Phong theo dõi những bức tranh hoạt họa nhi đồng. Lan xếp kim chỉ vào hộp, ngồi trầm tư mơ mộng.
Dưới ánh đèn xanh, không khí căn nhà có vẻ êm đềm, ấm cúng.
Lệ ngước lên nhìn thầy, hớn hở nói:
- Thầy ơi, có bài thơ này hay quá! Em thích ghê!
Phong chu miệng, chế giễu:
- Lại thơ với thẩn! Lại một ông tướng Quân nào khác làm thơ để “Trọn vẹn về” một kiều nữ nào đó chớ gì?
Lệ phản đối dịu dàng:
- Em là chúa xuyên tạc! Bài thơ này đầy ý nghĩa chớ không thuộc loại thơ “Trọn vẹn về” như em nói đâu.
Lan như thoát khỏi cơn trầm tư, nhìn hai em đang đùa nhau mà cảm thấy vui lây. Phong vẫn chưa chịu nhường chị:
- Nếu không thuộc thơ “Trọn vẹn về” thì cũng thuộc loại “Em yêu anh lính chiến”. Thôi em van chị, em ngửi không vô các loại thơ ấy.
- Bộ em châm biếm cả anh Quân đấy à?
Phong giật mình, ái ngại nhìn Lan. Vì trực tính và vô tình, nó nghĩ sao nói vậy, không nghĩ rằng lời nói thẳng thắn của mình có thể làm buồn lòng chị.
Nó lặng im, hơi hối hận vì lối đùa quá quắt của mình.
Lan dịu dàng nói:
- Chị không buồn đâu. Em Phong nói đúng đấy.
Lệ tằng hắng lấy giọng, rồi lần này nàng ngâm lên (chớ không đọc như lần trước) với giọng êm ái, thanh tao:
Hai loài hoa
Nở trong bình minh hé môi cười.
chờ bé nâng niu
và làm nũng vòi quà
loài hoa mang tên
hoa tuổi ngọc
*
có một loài hoa
nở giữa lòng Đất Mẹ
loài hoa không biết
hận thù
chiến tranh
máu lửa
loài hoa mang tên
hoa tình thương
*
đẹp thay hai loài hoa
hoa tình thương
hoa tuổi ngọc
Trần Thi Tử
Lệ ngâm dứt, Lan cất tiếng khen:
- Giọng em Lệ ngâm giống hệt Hoàng Oanh.
Lệ bẽn lẽn, vui sướng:
- Em bắt chước điệu ngâm của ban “Tao Đàn” đó chị. Em thích giọng Hoàng Oanh hơn là Hồ Điệp, Mai Lan nữa.
Phong lại chu mỏ, lém lỉnh:
- Còn lâu chị mới ngâm được như Hoàng Oanh. Đâu, đưa bài thơ vừa ngâm cho em xem.
Lệ đưa tờ báo cho Phong. Cậu bé đọc lại bài thơ rồi trố mắt làm ra vẻ vô cùng kinh ngạc:
- Thơ gì mà không vần, không chấm, không phẩy, mà cũng không chữ nào viết hoa. Thơ như thế thì em có thể nhắm mắt đọc luôn một lượt hàng chục bài. Không tin, để em đọc cho chị chép gởi đăng báo cho vui.
Lan mỉm cười:
- Thôi cho chị can đi, Phong. Không hiểu nghệ thuật thì nhờ thầy giảng giải cho, đừng quen tật nói ẩu xấu lắm!
Phong quay lại nhìn thầy như cầu người cứu viện:
- Em nói có đúng không, thưa thầy? Chị Lan giỏi tài ăn hiếp em hoài.
Hoàng vui vẻ nói:
- Em Phong nói đúng một phần đấy chứ. Thầy tin rằng em có thể đọc luôn một lúc hàng chục bài thơ...
Phong nhìn qua Lan, giọng phân trần:
- Đó, chị thấy không, thầy bảo em có thể làm được kia mà. Em đâu có nói ẩu?
Hoàng mỉm cười đáp:
- Thầy chưa nói hết! Thầy định nói rằng: Em có thể làm luôn hàng chục bài, song chắc chắn không bài nào hay như bài thơ Lệ vừa ngâm.
Phong cụt hứng:
- Tại sao kỳ vậy thầy?
- Vì hai lẽ giản dị: Thứ nhất, thơ tự do dễ làm nhưng rất khó hay. Thứ nhì, em Phong không có tâm hồn thi sĩ, không có được những cảm xúc bén nhạy và tế nhị như thi nhân.
Phong tiu nghỉu lặng thinh, nhưng có vẻ còn ấm ức, chưa thỏa mãn với lời giải thích đơn sơ của thầy. Biết ý Phong, Hoàng day sang hỏi Lệ:
- Tại sao em Lệ thích bài thơ ấy?
Lệ ngập ngừng một lúc mới diễn đạt được ý nghĩ của mình:
- Em thích bài ấy vì lời thơ hồn nhiên và tứ thơ hàm súc, ca ngợi tuổi ngọc và tình thương với lối so sánh ngộ nghĩnh, dí dỏm, dễ thương. Bài thơ có tác dụng lành mạnh làm cho lòng ta phơi phới, yêu đời và yêu tất cả mọi người, chối bỏ chiến tranh, hận thù, máu lửa.
Phong gật đầu, chen vào:
- Em đồng ý với chị Lệ về nội dung bài thơ, còn về hình thức thì em không thể nào chịu được.
Lệ cũng không biết giải nghĩa thế nào. Lần này, nàng nhìn thầy Hoàng như cầu cứu. Hoàng cầm tờ báo đọc lại bài thơ rồi chậm rãi phân tích:
- Bài thơ này không có vần mà vẫn có nhạc nhờ tác giả khéo sắp xếp những tiếng bằng tiếng trắc trong nội bộ mỗi câu và nhờ những tiếng hoa, ngọc, thương láy đi láy lại như quyện vào nhau để tiết thành nhạc điệu. Thơ không vần mà có nhạc mới thật khó làm. Còn lối viết chữ không hoa, không chấm, không phẩy, chỉ là một hình thức chạy cho thời trang, cho lạ mắt, thích hợp cảm quan của những tâm hồn ưa lập dị, không chịu chấp nhận cái gì sẵn có, cái gì đã cũ.
Phong tươi cười hí hửng:
- Thầy giải nghĩa cái gì cũng hay hết, không như chị Lệ cứ ấp a ấp úng mãi.
Mặc dầu đã thỏa mãn, Phong vẫn còn ráng móc Lệ vào để chế giễu. Lệ háy em, nhoẻn cười như muốn nói: “Chị có phải là giáo sư văn chương đâu”!
Rồi nàng trở về với nội tâm, chìm đắm trong suy tư.
Ngẫm nghĩ một lúc lâu, Lệ mới phát biểu tiếp ý mình:
- Thưa thầy, em vẫn thấy bài thơ ấy chưa hợp hoàn toàn với quan niệm của em. Cái hoa tuổi ngọc đó chỉ hợp với em ngày xưa chớ không hợp với chúng em ngày nay, khi mà chiến tranh không buông tha cả những mái đầu xanh.
Tuổi ngọc ngày nay không những chỉ biết vòi quà mà còn biết thương đau, không những chỉ biết hé môi cười mà còn biết khóc hận.
Lan ngạc nhiên nói:
- Em Lệ hôm nay sao mà thao thao bất tuyệt!
Lệ như không nghe lời chị, hăng say bày tỏ cảm nghĩ của nàng, những cảm nghĩ thật ra nàng đã suy ngẫm từ lâu:
- Còn cái tình thương kia không biết hận thù, chiến tranh, máu lửa. Lý tưởng quá! Và xa vời quá! Sao lại không biết? Phải biết chứ, biết để càng thương yêu nhiều hơn nữa dân tộc mình đang lầm than, đất nước mình đang đau khổ vì chiến tranh, máu lửa, hận thù. Và tình thương phải đi đôi với niềm khao khát, với những hành động thực tế dù tối thiểu.
Lan chưa hết ngạc nhiên, dịu dàng hỏi Lệ:
- Niềm khao khát gì? Và hành động thực tế gì, hở em?
Lệ nhìn thầy, nhìn chị, mắt sáng lên:
- Niềm khao khát hòa bình và hành động thực tế để mưu cầu hòa bình cho đất nước.
- Nhưng tuổi thơ thì biết hành động thế nào?
- Vì vậy em mới nói là tối thiểu. Ít ra cũng có thể bày tỏ niềm khát vọng ấy qua lời nói cho người lớn biết, qua văn thơ cho mọi người đều biết.
Từ nãy giờ Hoàng lặng im nghe cuộc đối thoại lý thú của chị em Lan. Và cũng như Lan, chàng ngạc nhiên không kém.
Chàng không ngờ đứa học trò bé bỏng kia - mặc dù nàng rất xuất sắc trong lớp về Việt văn - lại có những cảm nghĩ thật nồng nhiệt và thật xác đáng mà những cô gái đồng lứa với nàng không thể nào có được. Phải chăng tài hoa của nàng đang độ phát triển? Phải chăng sự đau khổ dồn dập vì chiến họa đã giúp cho một kỳ hoa chớm nở và ngát hương? Chàng tươi cười, sung sướng bảo Lệ:
- Em Lệ có những nhận xét thật xác đáng. Em nên làm thơ, thầy tin em sẽ là một tài thơ đầy hứa hẹn.
Lệ bẽn lẽn cúi đầu:
- Thầy đùa làm cho em hổ thẹn. Em mà thơ với thẩn gì, thầy.
Phong không còn giọng chế giễu nữa, nó thành thật nói với chị:
- Hôm nay trúng tủ chị rồi, phải không? Em thành thật phục lăn chị đó.
Thấy thầy khen em, Lan cũng vui sướng lây. Nàng cầm tờ tạp chí có đăng bài thơ của Lan Quân tặng mình mà cảm thấy bài thơ không còn gợi cảm như lúc mới nghe. Nàng thẹn thầm tự nhủ: “Phải chi anh Quân gởi tặng thẳng cho mình! Đăng báo làm gì bài thơ tình tứ ấy lúc này?”
Dù nghĩ vậy, nàng vẫn mân mê tờ tạp chí trên tay như muốn giữ gìn một lưu niệm quý giá.
Hoàng tinh ý nói:
- Tặng cô Lan tạp chí đó, để cô giữ làm kỷ niệm lời thơ an ủi của người xa.
Lan dịu dàng đáp:
- Cảm ơn thầy.
Câu chuyện văn chương chấm dứt đem đến cho mỗi người một nguồn cảm nghĩ khác nhau và tạo cho bầu không khí trong nhà thêm êm ấm, thân mật. Hoàng suy tư. Lan mơ mộng. Lệ sung sướng. Phong hí hởn.
Dưới ánh đèn, bốn hình dáng ấy thể hiện bốn nguồn sống tâm tư khác biệt, nhưng tạo được một bức tranh, hòa hợp linh hoạt về hình thức lẫn nội dung.
Phong bỗng ngẩng lên hỏi chị:
- Mấy giờ rồi, chị Lan?
Lan giơ tay lên xem đồng hồ:
- Mười giờ kém năm.
Phong thốt to lên với vẻ kinh ngạc:
- Ủa, chừng này sao chưa nghe tiếng bom, đại bác mọt-chê gì nổ hết vậy cà!
Lan hỏi:
- Bộ em nhớ mấy thứ tiếng đó lắm hả?
- Nghe quen thì nhớ chừng vậy chớ ai ưa gì mấy thứ tiếng đó chị.
Nơi đây đêm đêm mọi người đều quen nghe những tiếng súng nổ, bom rơi, có khi thật xa, có khi rất gần. Nhiều đêm phải giật mình thức giấc cả chục lần vì những tiếng nổ gần, rung chuyển cả nhà cửa. Không ngủ được thì nằm nghe tiếng súng.
Thét rồi từ lớn tới nhỏ, ai cũng phân biệt được tiếng nổ của loại bom gì. Có người tinh tế hơn còn phân biệt cả tiếng pháo kích ra thì còn nằm yên trên giường, nếu pháo kích vào thì lật đật gọi nhau chui xuống hầm trú ẩn.
Có người - như Hoàng chẳng hạn - hay nằm nghe tiếng đạn reo luồn trong không gian để đoán xem nó dừng lại ở một vị trí nào, vào khoảng thời gian nào.
Nghe thét thành quen lệ. Phá lệ thì nhớ chừng. Thói quen nhớ chừng ấy chẳng những riêng Phong, mà là tâm trạng của đa số người sống ở thôn, ấp và cả ở tỉnh, quận nữa.
Nghe Phong nói, Lan mỉm cười:
- Đêm nay họ nghỉ xả hơi một bữa, cho chị em mình ngủ yên một giấc, khỏi giật mình.
- Chưa chắc đa, chị.
Phong vừa đáp dứt thì một tiếng nổ vang lên. Tiếng đạn réo ngang nóc nhà nghe ớn lạnh cả xương sống. Lệ lật đật hỏi:
- Pháo kích ra hay vào vậy thầy?
- Pháo kích ra.
Mặc dù nghe thầy bảo: “Pháo kích ra”, ba chị em Lan cũng quen lệ ở nhà quê, vội vàng chun xuống hầm trú ẩn. Từ ngoài có tiếng Hoàng vọng vào:
- Ba chị em vào hầm, rán chịu muỗi đốt, đợi im tiếng nổ rồi hẵng lên. Chắc không lâu đâu.
Lệ hỏi to:
- Thầy không vào hầm sao, thầy?
- Không, thầy đang xem hỏa châu chiếu xuyên qua song cửa sổ, bầu trời sáng như ban ngày.
Phong cũng nói to:
- Hỏa châu mà đẹp gì, thầy. Em ghét hỏa châu vô cùng, em ghét hỏa châu như ghét tiếng súng nổ.
Hoàng mỉm cười nghĩ thầm: “Tuổi thơ mà ghét hỏa châu thì cũng lạ!”
Trong hầm, Lệ cũng liên miên nghĩ ngợi: “Hỏa châu đẹp như pháo bông ngày Tết. Giá đừng có tiếng súng phụ họa, hỏa châu là một hình ảnh thú vị của tuổi thơ”.
Bên ngoài, có tiếng gió reo từng chập. Rồi một cơn mưa tầm tã trút xuống.
Tiếng gió, tiếng mưa, tiếng súng hòa thành một bản nhạc man dại, rùng rợn. Lệ bỗng nghĩ: “Không nhạc sĩ nào sáng tác nổi bản nhạc này, nếu loài người suốt đời phải nghe những bản nhạc như thế thì cõi trần chỉ là một địa ngục”.
Gió vẫn reo... Mưa vẫn gào... Súng vẫn thét...