← Quay lại trang sách

CHƯƠNG V TÍNH TÌNH VÀ LỊCH SỬ

Xã hội không xây dựng trên một lí tưởng mà trên bản tính con người, và chính cái thể chất con người viết lại chính thể của Quốc gia[1]. Nhưng thể chất của con người ra sao?

Chúng ta có thể cho bản tính con người gồm những xu hướng và tình cảm căn bản của nhân loại. Chúng ta sẽ gọi những xu hướng căn bản đó là bản năng mặc dầu ngày nay chúng ta biết rằng chưa chắc bản năng đã có tính cách thiên phú. Muốn phân tích bản tính con người, chúng ta có thể dùng “bảng yếu tố của tính tình” chép ở dưới đây:

Theo sự phân tích đó, thì bình thường con người được Thiên nhiên (ở đây Thiên nhiên có nghĩa là di truyền) phú cho sáu bản năng tích cực và sáu bản năng tiêu cực, tác dụng là để duy trì cá nhân, gia đình, tập thể hoặc chủng loại. Ở những người có cá tính tích cực thì xu hướng tích cực thắng xu hướng tiêu cực; nhưng hầu hết mọi người đều có đủ hai nhóm bản năng đó để tránh né hoặc thích ứng với (tùy theo khí chất hoặc hoàn cảnh) những thách đố quan trọng hoặc cơ hội thuận tiện của đời sống. Mỗi bản năng gây một số thói quen và kéo theo một số tình cảm. Tất cả những cái đó tạo nên bản tính con người.

Nhưng bản tính con người đã biến đổi ra sao theo dòng lịch sử? Theo lí thuyết thì nó phải biến đổi vì luật đào thải tự nhiên chắc đã gây nên những biến đổi về sinh lí cũng như tâm lí. Vậy mà lịch sử hiện nay ta được biết không cho thấy rằng tính tình của con người đã thay đổi nhiều. Người Hi Lạp thời Platon cư xử một phần lớn cũng như người Pháp thời hiện đại, và người La Mã cũng chẳng khác gì người Anh. Phương tiện có thể thay đổi nhưng lí do và mục tiêu thì vẫn vậy: Người ta hành động hoặc nghỉ ngơi, chiếm hữu hoặc cho, chiến đấu hoặc bỏ chạy, tìm bạn bè hoặc sự cô liêu, kiếm bạn trăm năm hoặc ở độc thân, săn sóc con cái hoặc bực tức về thái độ của cha mẹ. Ngay từ giai cấp này tới giai cấp khác, bản tính con người cũng không thay đổi; xét chung thì kẻ nghèo cũng có những bản năng của người giàu; chỉ khác là họ ít cơ hội thuận tiện, ít khả năng hơn người giàu để thỏa mãn bản năng của họ thôi. Đối với sử gia thì thật là hiển nhiên, bọn phản nghịch khi thắng rồi, lại dùng ngay những phương pháp của kẻ thù mà trước kia họ mạt sát.

Suốt trong thời gian mà lịch sử đã ghi chép được, sự biến đổi của con người có tính cách xã hội hơn là tính cách sinh lí: Người ta không thể bảo rằng đã có những sự biến đổi di truyền của chủng loại, mà chỉ có những sự canh tân về kinh tế, chính trị, tinh thần, và luân lí được truyền lại đời sau nhờ sự bắt chước, nhờ tục lệ và giáo dục. Phong tục và truyền thống ở trong một tập thể cũng như đặc trưng và di truyền trong một chủng loại hoặc những bản năng trong cá nhân: Chúng là những giải pháp sẵn sàng để thích ứng với các hoàn cảnh đặc biệt và thường gặp. Nhưng cũng có khi một tình thế mới mẻ xuất hiện và đòi hỏi những phản ứng bất thường, khác hẳn những phản ứng cố hữu quen thuộc. Vì vậy mà ở các sinh vật cao đẳng, sự tiến hóa cần có một khả năng thí nghiệm và canh tân, khả năng đó trên phương diện xã hội tương đương với sự biến chuyển. Sự tiến hóa của xã hội là hậu quả của sự hỗ tương phản ứng giữa tập tục và óc tưởng tượng sáng tạo.

Lúc đó, cá nhân có sáng kiến (“vĩ nhân”, “anh hùng” hoặc “thiên tài”) tái xuất hiện thành một động lực quyết định của lịch sử. Cá nhân ấy không hoàn toàn là vị thần như Carlyle bảo đâu, mà chỉ là đứa con của thời đại, xứ sở, là sản phẩm mà cũng là biểu hiện của một số biến cố, cũng như người giúp việc hoặc người phát ngôn cho các biến cố đó thôi; nếu không gặp một hoàn cảnh nhất định cần một phản ứng hoàn toàn mới lạ, thì những ý nghĩ tân kì của họ sẽ hóa ra không hợp thời hoặc không thực hiện được. Nếu là một người hoạt động thì cái thế của họ và tâm trạng trong thời khủng hoảng sẽ tạo cho họ một sự quan trọng và những quyền hành mà ở thời bình thường tất còn tiềm tàng, không có chỗ dùng. Nhưng hạng người ấy không phải chỉ là sản phẩm của thời đại; biến cố xảy ra nhờ họ cũng ngang nhờ hoàn cảnh; những ý tưởng, quyết định của họ làm cho lịch sử chuyển hướng. Ở vào một vài thời đại, tài hùng biện của họ có thể mạnh bằng cả ngàn sư đoàn, như trường hợp Churchill; trực giác về chiến lược hoặc chiến thuật của họ có thể giúp họ thắng trận và dựng nên những quốc gia mới như trường hợp Napoléon. Nếu họ là một nhà tiên tri và có nghệ thuật cổ xúy quần chúng thì lời nói của họ, như trường hợp Mahomet có thể khêu gợi một tham vọng bất ngờ, và phát khởi một sinh lực phi thường trong lòng một dân tộc nghèo khổ, thua sút. Một Pateur, một Morse, một Edison, một Ford, một Wright[2], một Marx, một Lénine hoặc một Mao Trạch Đông đều là hậu quả của vô số nguyên nhân và nguyên nhân của vô số hậu quả.

Trong bảng kê những yếu tố của tính tình, hai thói quen sáng kiến và bắt chước đã được coi như trái ngược nhau, nhưng thực ra hai yếu tố đó hợp tác với nhau một cách thiết yếu. Những bản tính phục tùng hợp với các cá nhân thống trị để cho xã hội có trật tự, hoạt động điều hòa; cũng vậy phần đa số bắt chước theo sau phần thiểu số canh tân mà phần thiểu số này lại theo sau cá nhân có sáng kiến, thành thử mọi người đều phản ứng theo cách của mình để thích hợp với những nhu cầu mới của hoàn cảnh. Xét chung thì lịch sử là sự xung đột của các thiểu số; phần đa số vỗ tay hoan nghênh kẻ thắng và cung cấp số người cần dùng cho cuộc thí nghiệm xã hội.

Vậy trí tuệ là một trong những sức mạnh căn bản của lịch sử, nhưng nó cũng có thể là một yếu tố gây ra tan rã, suy tàn. Cứ một trăm ý mới đưa ra để thay những giải pháp cổ truyền thì ít nhất có chín mươi chín ý sau này mới thấy là kém những giải pháp đó. Không một người nào dù thông minh, biết nhiều tới đâu, mà có thể chỉ trong một đời người có kiến thức rộng rãi đủ để phán xét, bài xích tục lệ hoặc chế độ của xã hội mình mà không dễ bị lầm lỗi nặng: vì những tục lệ, chế độ đó là sự khôn ngoan của biết bao thế hệ suốt bao thế kỉ thí nghiệm trong phòng thí nghiệm của lịch sứ. Một thanh niên đầy nhựa sống có lẽ tự hỏi tại sao xã hội lại không để cho dục vọng của mình tự do phát ra; nhưng nếu chàng ta không bị tục lệ, luân lí hoặc luật pháp ngăn cấm, thì đời chàng sẽ hư hỏng trước khi tinh thần chàng đủ già dặn để hiểu rằng sinh lực đó là một dòng sông bừng bừng lửa đỏ, phải tìm cả trăm cách ngăn nó lại, làm cho nó nguội đi, nếu không muốn cho nó tàn phá cá nhân lẫn tập thể.

Vì vậy người thủ cựu chống lại sự thay đổi cũng ích lợi cho xã hội như người cấp tiến đề nghị thay đổi; có lúc còn ích lợi hơn nữa nếu ta nghĩ rằng gốc rễ quan trọng hơn cành tháp. Các ý mới nên được ta chú ý tới vì có vài ý có thể dùng được; nhưng cũng nên bị bác bỏ chống đối, thảo luận; đó là cuộc thử lửa mà các cuộc canh tân phải đủ sức chịu đựng trước khi được chấp nhận làm gia sản của nhân loại. Nên có những người già chống lại bọn trẻ, và có những bọn trẻ nói khích hạng già; do sự căng thẳng đó, cũng như sự căng thẳng giữa nam nữ, giữa các giai cấp, mà phát sinh ra một sinh lực sáng tạo dẻo dai, một sức kích thích sự phát triển, một sự hợp nhất và vận hành thầm kín, căn bản cho toàn thể.

Chú thích

[1] Nguyên văn: The constitution of man rewrites the constitutions (cũng có thể dịch là hiến chương) of states. Tác giả muốn nói một số chính khách theo lí tưởng mà lập một chế độ, một hiến chương cho quốc gia nhưng rồi chế độ đó, hiến chương đó phải sửa lại cho hợp với tính tình, tâm hồn của dân tộc.

[2] Hai anh em Wright, Wibur và Orville, sống ở Huê Kì cuối thế kỷ 19, đã sáng chế ra chiếc phi cơ đầu tiên năm 1903.