← Quay lại trang sách

Chương 14

Khi mọi người đều nghĩ là Hân hợp tác hoàn toàn trong việc chữa trị thì chuyện trốn đi cũng giản dị thôi. Hân mua vé máy bay trên mạng. Chỉ còn 2 vé với giá rẻ đi vào buổi chiều muộn, đến Venice vào sáng hôm sau. Hân nhờ dì Hân trông Lily ở nhà của dì trong lúc nàng sửa soạn để vào nhà thương. Hân nghe chăm chú mọi điều chồng nàng dặn dò, cho dù vô nghĩa đến đâu để chàng không nói rằng nàng chỉ nghĩ vơ vẩn đâu đâu mà không nghe chồng nói. Hân nấu những bữa ăn thật ngon, vui vẻ và không hề nhắc đến bài hát Incendio hay nước Ý.

Đến ngày đi Ý, Hân bảo với chồng là nàng đi làm tóc đến 5 giờ chiều mới về. Nghe thì có vẻ kỳ cục vì tại sao một người đàn bà sắp phải vào dưỡng trí viện mà lại đi làm đẹp? Nhưng với chồng nàng thì chuyện này bình thường, không có gì lạ cả. Rob không phải lo âu trong ngày vợ mình làm gì. Phải đến chiều khi không thấy Hân về chàng mới thắc mắc.

Lúc đó thì Hân đang trên máy bay, ngồi ở hàng ghế 28, ngồi chính giữa, một bên là một phụ nữ lớn tuổi người Ý, còn bên trái là một ông thương gia. Cả hai người đều không muốn nói chuyện gì với Hân trong lúc nàng cần nói chuyện với một ai đó, cho dù là người lạ. Nàng muốn thú nhận là mình bỏ nhà đi xa, rằng nàng hơi sợ hãi nhưng cũng thấy căng thẳng. Hân muốn kể cho một ai đó là chồng nàng nghĩ nàng điên và đang muốn nhốt nàng vào nhà thương điên. Trong đời nàng cũng chưa hề làm chuyện gì điên khùng như chuyến đi hiện tại. Tuy vậy phải công nhận là chuyến đi này.. thật tuyệt vời một cách lạ thường! Hân có cảm tưởng như nàng vừa được ra khỏi nhà tù và đang có một sứ mạng cần phải thực hiện. Sứ mạng đó là lấy lại cuộc đời của nàng và Lily, con gái Hân.

Người nữ chiêu đãi viên hàng không vặn nhỏ đèn, mọi hành khách dường như đều ngủ cả. Hân vẫn còn thức. Nàng nghĩ đến những điều đang xảy ra ở nhà. Chắc chắn Rob sẽ gọi điện thoại cho 2 người là dì Vinh và bà bác sĩ Rose. Chàng sẽ gọi cảnh sát nữa chứ. Chồng nàng sẽ kêu lên rằng “Bà vợ điên của tôi mất tích!”. Rob sẽ không biết ngay là nàng đi ra nước ngoài. Chỉ có chị Giang biết về chuyến đi này, và hiện nay chị Giang đã có mặt ở Ý.

Trong khi Hân đã đi Rome nhiều lần, nàng chỉ đến Venice một lần trước đây. Đó là lần nghỉ hè cách đây 4 năm khi Hân và chồng nàng cùng đi. Nàng nhớ chuyến đi đó vào tháng 8. Venice lúc đó đầy du khách với những kênh đào và nhiều cầu bắc ngang chằng chịt. Nàng còn nhớ mùi mồ hôi, mùi hải sản và mùi nắng gió của Venice. Cả cái nắng chói chang.

Một lần nữa cũng cái nắng chói mắt đang chan hòa khi Hân đi ra khỏi phi trường. Đây đúng là Venice mà nàng đã nhớ. Lần này đông hơn và đắt đỏ hơn.

Có bao nhiêu tiền euros nàng tiêu cả vào chuyến tắc xi chạy trên nước để đến Dorsoduro nơi mà chị Giang đã giữ chỗ khách sạn sẵn. Khách sạn nằm trong một hẻm nhỏ yên tĩnh, bên trong những chiếc ghế nhung tuy cũ kỹ nhưng là một nét cổ xưa đặïc biệt mà theo chị Giang rất đáng yêu! Dù vậy, Hân chỉ thấy khách sạn nghèo nàn quá! Mặc dù chị Giang chưa đến nhưng Hân lên phòng đã đặt trước. Căn phòng trong khách sạn có 2 giường riêng, sạch sẽ. Hân quá mệt mỏi nên cũng không muốn tắm mà nằm ngay xuống giường. Vài giây sau nàng chìm vào giấc ngủ.

“Hân! Dậy đi nào!”

Hân mở mắt, nhìn thấy chị Giang đang đứng bên cạnh giường. Trông chị Giang vui vẻ, quá vui nữa là khác.

Hân vươn vai ươn ái.

“Chị nghĩ để Hân ngủ lâu vậy đủ rồi. Bây giờ là lúc em phải thức dậy”

“Chị đến đây lúc nào?”

“Cả mấy tiếng trước. Chị đã ra ngoài đi bộ, ăn trưa. Bây giờ là 3 giờ chiều”

“Trên máy bay em chẳng ngủ được gì hết”

“Nếu bây giờ em không dậy thì đêm nay em sẽ mất ngủ. Dậy đi, mình phải vượt qua sự khác biệt về giờ giấc”

Khi Hân ngồi dậy, nàng nghe thấy tiếng điện thoại cầm tay rung.

“Rung nãy giờ đến cả chục lần!” Chị Giang nói.

“”Em tắt tiếng kêu chỉ để rung vì muốn ngủ”

“Em phải xem những tin nhắn. Chắc có ai muốn nói với em lắm nên cứ gọi hoài”

Hân cầm điện thoại xem những ai đã gọi. Mười mấy lần, toàn là Rob và dì Vinh. Hân bỏ điện thoại vào trong túi xách rồi nói với chị Giang:

“Không có gì quan trọng. Rob gọi em”

“Rob có đồng ý cho em đi Venice không?”

Hân nhún vai:

“Anh ấy hiểu. Nếu chồng em gọi chị, chị đừng trả lời. Rob sẽ làm phiền chị”

“Vậy là em không có nói cho chồng em biết là em đi Venice phải không Hân?”

“Em nói với Rob là em cần đi xa một thời gian. Em sẽ về lại nhà khi em thấy khỏe và bình an. Không có gì để chị phải lo âu. Thẻ tín dụng của em còn cho em xài nhiều”

“Chị đâu quan tâm về chuyện thẻ tín dụng của em. Chị lo âu cho em và Rob. Em đi mà không cho chồng em biết em đi đâu là một điều rất lạ. Trước giờ em không phải là người như vậy.”

“Chị rủ em đến đây chị nhớ không?”

“Nhớ chứ, nhưng chị đâu có bao giờ ngờ rằng em lên máy bay đi sang đây mà không nói chồng em biết. Em có chuyện gì vậy, nói cho chị nghe”

Hân tránh không nhìn chị Giang mà nhìn ra cửa sổ.

“Rob không tin em. Anh ấy nghĩ em khùng!”

“Em muốn nói về bản nhạc Incendio?”

“Rob không hiểu được sức mạnh của bản nhạc đó. Chắc chắn Rob không thể hiểu tại sao em đi đến tận đây để tìm xem người nhạc sĩ của nhạc đó là ai. Rob sẽ gọi chuyến đi này là một chuyến đi điên khùng!”

Chị Giang thở dài:

“Chắc chị cũng điên nốt bởi vì chị đến đây cũng cùng mục đích như em”

“Vậy thì mình phải bắt đầu thôi”

Chẳng bao lâu Hân và chị Giang khám phá ra có nhiều đường phố mang tên Calle de Forno ở Venice. Chứ không phải chỉ có một! Lúc đó đã 4 giờ chiều, nơi mà hai người tìm đến đầy nghẹt khách du lịch với những ngõ ngách chằng chịt toàn những cửa hàng nho nhỏ sát nhau. Buổi chiều ở đây vẫn còn nóng nực, Hân nhức đầu vì vẫn còn chưa quen giờ giấc sai biệt. Cả hai tìm mãi không thấy số nhà 11. Ngừng ở một tiệm bán kem, chị Giang cố dùng tiếng Ý “ba rọi” của chị để hỏi bà bán hàng sau quầy tính tiền. Bà ta nhìn vào địa chỉ trên tờ giấy rồi lắc đầu và gọi một cậu bé gầy nhom đang ngồi gần đó.

Chú bé đứng dậy, tháo đồ gắn ở tai nghe nhạc rồi nói bằng tiếng Anh:

“Mẹ tôi nói hai bà nhầm đường rồi”

Chị Giang đưa cho chú bé địa chỉ viết trên tờ giấy:

“Nhưng đây là đường Calle de Forno mà? Tụi tôi không tìm thấy số 11”

“Không có số 11 trên đường này. Bà phải tới vùng khác, không phải vùng này”

“Vùng đó có xa đây lắm không?”

Chú bé nhún vai:

“Bà đi ngang cầu, đi chừng 5, 10 phút”

“Em dẫn tụi tôi đi được không?”

Chú bé nhìn chị Giang với cái vẻ như tại sao tôi phải dẫn mấy bà đi? Đếân khi chị Giang đưa cho cậu ta 20 euros thì chú bé tươi mặt lên. Chú bé cầm 20 euros và xỏ chân vào dép.

“Tôi đưa hai bà đi!”

Cậu ta đưa hai người đi qua những con đường đầy du khách. Hân và chị Giang cứ đi theo chiếc áo đỏ của chú bé trong đám đông người xuôi ngược. Có lúc không còn thấy chú bé đâu nữa. Cậu ta lại phải quay lại tìm hai bà du khách. Hân và chị Giang đều chậm chạp nên chạy theo cậu bé cũng mệt xuyên qua hết ngõ này đến ngõ khác.

Bang ngang cầu, đám đông còn dầy đặïc hơn nữa. Cả hai người như bị dòng người xô đẩy đi. Hân cố nhớ xem mình đã đi qua những con đường nào nhưng nàng đành bất lực! Nàng đành cố nhớ là đã đi ngang cửa hàng bán đồ hóa trang, màu sắc và dần dần tiếng động chung quanh thưa đi. Chú bé bỗng dưng ở đâu hiện ra. Chung quanh chỉ còn là những tòa nhà chen chúc nhau như muốn chực đổ xuống trên hai người và cậu bé.

Cậu bé chỉ tay:

“Kia kìa! Đó là số 11!”

Hân nhìn thấy tòa nhà cũ kỹ tróc sơn và những bức tường như xệ xuống. Mặt ngoài tường có nhiều chỗ nứt trông như những vết nhăn của một khuôn mặt cổ xưa. Qua những cửa sổ đầy bụi, Hân nhìn vào bên trong tòa nhà chỉ thấy hộp giấy và báo vứt bừa bãi.

Chị Giang nói với Hân:

“Nơi này chắc bỏ hoang lâu lắm rồi”

Thấy có hai người phụ nữ đứng tuổi đang quan sát Hân và chị Giang, chị nói với cậu bé:

“Hỏi hai bà kia coi ai là chủ nhân tòa nhà này?”

“Bà hứa cho tôi 20 euros khi đưa bà đến đây”

“Ok. Ok.” Chị Giang đưa cho cậu ta tiền như đã hứa. “Bây giờ có tiền rồi đi hỏi dùm nhé?”

Chú bé chạy ra nói chuyện với hai phụ nữ nọ bằng tiếng Ý. Cả hai người đàn bà đi về phía Hân và chị Giang đang đứng chờ. Một bà thì mắt hơi đục chắc vì mắt cườm, bà kia phải chống gậy.

Cậu bé nói với Hân và chị Giang như một thông dịch viên:

“Họ nói có ông Mỹ mua tòa nhà này năm ngoái. Ông ta muốn mở phòng triển lãm và bán tranh”

Hai bà già Ý dường như hiểu những điều chú bé nói với Hân và chị Giang vì họ nhún vai xì xồ chắc có lẽ cho rằng nơi đây đầy những gian phòng triển lãm hội họa, cần gì phải có người Mỹ nào mở thêm nữa!

Chị Giang hỏi:

“Trước khi người Mỹ mua thì ai ở đây?”

Chú bé chỉ bà già chống gậy:

“Bà ấy nói là gia đình bà ta ở đó nhiều năm rồi. Sau chiến tranh ba bà ấy mua tòa nhà này”

Hân tìm trong túi xách quyển sách nhạc. Nàng lấy ra bản nhạc Incendio rồi chỉ vào tên nhạc sĩ, tác giả bản nhạc và hỏi:

“Hỏi xem bà ấy có bao giờ biết hay nghe tên người này không?”

Bà già chống gậy, những ngón tay cong queo chắc vì bệnh tê thấp lại gần nhìn bản nhạc rồi tên một hồi lâu. Bà ta sờ vào bản nhạc rồi nói bằng tiếng Ý.

Hân hỏi cậu bé:

“Bà ấy nói gì vậy?”

“Bà ấy nói họ đi hết rồi và không thấy trở lại”

“Họ là ai?”

“Những người sống trong tòa nhà này trước chiến tranh”

Bà già chợt nắm tay Hân và lôi nàng đi. Bà ta chống gậy đi trước ra hiệu cho chị Giang và Hân theo sau đi vào một con ngõ. Mặc dù tuổi tác và phải chống gậy nhưng bà ta còn đi nhanh hơn chị Giang và Hân. Bà ta đi vào một con đường đông đúc hơn. Lúc đó Hân mới nhận ra là cậu bé biến đâu mất. Làm sao để hỏi bà ta là đang đưa mình đi đâu? Có thể là bà ta hiểu lầm và không chừng lại dẫn Hân và chị Giang về tiệm của bà ta. Ở đây chỗ nào cũng là cửa hàng, hết cửa tiệm này đến cửa tiệm khác. Hai người đi theo bà ta qua cầu, đi ngang một nơi như công trường nhỏ, rồi chỉ tay vào vào một bức tường.

Khắc trên một bảng gỗ, chi chít những tên người.....

Người đàn bà nói lớn tiếng:

“Lorenzo!!”

Chị Giang là người nhìn thấy đầu tiên, chị kêu lên:

“Hân ơi! Đây rồi! Tên ông ta đây rồi!” Chị chỉ tên khắc trên bảng gỗ: Lorenzo Todesco, 24.

Bà ta nhìn Hân nói. Hân chẳng hiểu bà ta nói gì.

“Hân à, đây là một tấm bảng khắc tên lưu niệm. Chị nghĩ những tên người này dính líu đến một chuyện gì đó xảy ra ngay tại đây”

Mặc dù toàn bằng tiếng Ý nhưng Hân có thể đoán ra phần nào. Hai trăm bốn mươi sáu người Ý gốc Do Thái bị đưa ra khỏi thành phố. Trong đó có một người thanh niên trẻ tên là Lorenzo Todesco.

Hân nhìn quanh công trường. Một bảng khác đề: “Campo Ghetto Nuovo”. Ồ ra đây là vùng của người Do Thái. Nàng băng ngang công trường đến một tòa nhà cũng gắn bảng bên ngoài, nhưng là bảng đồng có để hình ảnh cảnh bắt và đưa đi trại tập trung. Có hình ảnh xe lửa chở người. Hóa ra khi nãy người đàn bà nói với Hân và chị Giang: “L’utimo treno” có nghĩa là chuyến xe lửa cuối cùng đã đưa gia đình ở căn số 11 đi vào những trại tập trung.

Hân thấy nhức đầu quá sức và còn hơi bị chóng mặt trước cái nóng của buổi chiều ở đây. Nàng nói với chị Giang:

“Em cần ngồi xuống một chút”

Hân tìm một băng ghế công cộng bên dưới một tàn cây lớn và ngồi xuống. Nàng đưa tay xoa bóp hai bên thái dương và nghĩ đến người thanh niên 24 tuổi Lorenzo Todesco. Quá trẻ. Nơi đây không xa căn nhà số 11 bao nhiêu. Có thể ngày xưa cũng có lúc Lorenzo ngồi đây như Hân đang ngồi, cũng đi ngang những con đường như nàng vừa đi qua. Biết đâu cũng chính nơi này những ý nhạc của bài Incendio đã đến trong đầu người nhạc sĩ trẻ.

“Bảo tàng viện Do Thái bên kia!” Chị Giang chỉ cho Hân “Trong đó thể nào cũng có người nói được tiếng Anh. Để chị hỏi xem có ai biết gì về gia đình Todesco hay không”.

Trong khi chị Giang đi về phía bảo tàng viện, Hân vẫn ngồi ở băng ghế gỗ, đầu nàng nhức kinh khủng và như có hàng triệu con ong đang bay o o trong tai nàng. Những du khách đi ngang qua nhưng Hân chỉ nghe thấy tiếng o o lấn át hết mọi tiếng động khác. Nàng không thể không nghĩ đến Lorenzo, người nhạc sĩ trẻ và thế giới của Lorenzo, một người Do Thái lúc đó sống trong một thế giới điên khùng với những đám mây đen che kín không còn lối thoát.

“Hân!” Chị Giang trở lại. Đi cùng với chị là một phụ nữ xinh đẹp, tóc đen.

“Đây là Francesca, cô ấy làm việc trong bảo tàng viện Do Thái. Chị có nói cho cô ấy biết lý do vì sao chúng ta có mặt ở đây. Cô ấy muốn nhìn thấy bản nhạc Incendio”

Hân lấy bản nhạc trong ví và đưa cho cô ta. Francesca nhíu mày hỏi Hân:

“Cô mua bài nhạc này ở Rome?”

“Tôi tìm thấy trong một tiệm bán đồ cổ. Tôi đã trả 100 euros cho bản nhạc này”

“Loại giấy của bài nhạc này không có xưa lắm. Nhưng tôi nghi rằng người nhạc sĩ này thuộc gia đình Todesco đã từng sống ở đây”

“Vậy là cô có nghe về gia đình Todesco?”

Cô ta gật đầu:

“Chúng tôi có hồ sơ lưu trữ mọi gia đình Do Thái ở đây bị đưa đi những trại tập trung. Bruno Todesco là một người làm đàn rất nổi tiếng ở Venice. Tôi nhớ không lầm trong hồ sơ có nhắc đến ông ta có 2 người con trai và một người con gái. Tôi sẽ xem lại hồ sơ, nhưng có thể là họ đã ở Calle del Forno”

“Có thể người nhạc sĩ ký tên trong bản nhạc này là L. Todesco là một trong hai người con trai của ông Bruno Todesco. Bản nhạc này được kẹp vào trong một quyển sách nhạc với địa chỉ ở Calle del Forno”

Francesca lắc đầu:

“Tất cả những sách vở giấy tờ của gia đình này đều bị đốt hết bởi những người phát xít. Như chúng tôi biết, không gì còn tồn tại. Nếu gia đình Todesco tìm cách cất giữ thứ gì để khỏi bị hủy hoại thì sau đó cũng bị đốt trong trại tập trung mà thôi. Cho nên bài nhạc này.. không thể hiện hữu được..”

“Nhưng cô thấy đây.. Tôi đã trả 100 euros cho tập nhạc và bản nhạc này”

Francessca vẫn chăm chú xem xét bản nhạc Incendio. Cô ta giơ lên về phía có ánh sáng để nhìn rõ hơn những nét bút chì của bản nhạc. Cô ta hỏi Hân:

“Tiệm bán đồ cổ ở Rome có nói họ tìm thấy bài nhạc này ở đâu không?”

“Mua lại từ một tài sản của một người đàn ông tên Capobianco”

“Capobianco?”

“Đó là lời của người cháu gái ông chủ tiệm viết thư cho tôi”

Hân tìm trong ví của mình lá thư của Anna Maria Padrone và đưa cho cô ta, nói tiếp:

“Ông Capobianco sống ở một thành phố thuộc Casperia, không xa Rome bao nhiêu phải không?”

Francessca đọc lá thư đầu tiên, rồi đọc sang lá thư thứ hai. Đột nhiên Hân nghe như tiếng cô ta chắt lưỡi rồi thở ra một hơi thật mạnh. Khi cô ta đọc xong rồi nhìn Hân, có vẻ như rất chú ý đến vấn đề không còn lơ là như trước. Francessca hỏi Hân:

“Người chủ tiệm bán đồ cổ bị giết?”

“Chỉ vài tuần trước đây. Nghe đâu là tiệm bị trộm”

Cô ta lại chăm chú nhìn bài nhạc Incendio. Đôi lông mày nhíu lại, mặc cô ta có vẻ căng thẳng làm như đang cầm một vật gì nguy hiểm.

“Tôi có thể giữ bài nhạc này một lúc được không? Tôi muốn để người chúng tôi thẩm định bài nhạc. Cả những bức thư này nữa”

“Người của cô là ai?”

“Những học giả nghiên cứu những tài liệu. Tôi cam đoan với cô họ sẽ rất cẩn thận giữ gìn bài nhạc. Nếu bài nhạc này xưa như thế thì không nên để tay người đụng vào nhiều. Cho tôi biết các chị ở khách sạn nào, tôi sẽ gọi điện thoại cho các chị ngày mai”

Chị Giang nói với Hân:

“Ở nhà mình có bản copy của bài nhạc này. Không có lý do gì mà mình từ chối không để họ xem xét và thẩm định bài nhạc”

Hân nhìn bản nhạc Incendio và nghĩ đến những điều đã và đang xảy ra cho cuộc đời nàng. Nó đã hủy hoại gia đình nàng, bỏ thuốc độc vào tình yêu của nàng dành cho con gái bé bỏng.

“Đây lấy đi! Tôi không bao giờ muốn nhìn thấy bài nhạc này nữa”

Hân cảm thấy dễ chịu là bài nhạc Incendio không còn là gánh nặng của mình nữa. Bây giờ nó nằm trong tay những người biết sẽ phải làm gì với nó. Tuy vậy đêm đó Hân không ngủ được với bao nhiêu câu hỏi mà chưa có giải đáp. Trong lúc chị Giang ngủ say bên giường bên kia, Hân vẫn thao thức nằm trên giường nhìn vào bóng đêm và tự hỏi liệu Francessca có tìm được nguồn gốc bài hát hay không hay lại bị cất vào một xó trong tủ vì tìm không ra nguồn gốc, hay để chờ một học giả nào khác trong tương lai đi tìm câu trả lời.

Nằm mãi không ngủ được, Hân rón rén dậy thay quần áo, ra khỏi phòng.

Dưới phòng tiếp tân của khách sạn, người thư ký trực đang ngồi đọc truyện nhìn lên khi thấy Hân và gật đầu. Ngoài đường ồn ào với tiếng cười nói xôn xao. Một giờ sáng mà thành phố vẫn còn thức.

Hân không có ý định đi lòng vòng ngoài phố. Thay vì vậy nàng đến quầy tiếp tân và hỏi người thư ký trực:

‘Cô giúp tôi được không? Tôi cần gặp một vài người ở đây nhưng tôi không có số điện thoại của họ. Cô có niên giám điện thoại cho tôi mượn để tôi tìm”

“Dĩ nhiên chúng tôi có chứ. Họ sống ở đâu cô biết không?”

“Ở một thành phố tên Casperia. Tôi nghĩ là nơi đó gần Rome. Tên họ là Capobianco”

Cô thư ký nhìn vào computer bấm vài nút rồi hỏi:

“Có 2 người cùng với họ là Capobianco. Một người là Filipo Capobianco, còn người kia là Davide Capobianco. Cô muốn lấy số điện thoại của người nào?”

“Tôi không biết”

Cô thư ký nhìn Hân với cặp mắt kỳ lạ:

“Cô không biết tên người cô đi tìm?”

“Tôi chỉ biết gia đình đó ở Casperia”

“Vậy thì tôi viết cho cô số điện thoại của cả hai người”

Cô ta cúi xuống hí hoáy viết số điện thoại của cả hai người vào giấy và đưa cho Hân.

“Có thể nào..”

“Cô cần chi?”

“Có thể họ không nói được tiếng Anh, nên không biết tôi có thể nói chuyện với họ được hay không. Cô có thể gọi giúp tôi được không?”

“Nhưng bây giờ là 1 giờ sáng”

“Không, tôi muốn nói là ngày mai. Nếu phải trả thêm tiền điện thoại viễn liên, tôi sẽ trả, bao nhiêu cũng được. Cô có thể để lại lời nhắn dùm tôi được không?”

“Cô muốn nhắn gì?”

“Nói với họ tên tôi là Hân Adams. Tôi muốn đi tìm một gia đình tên là Giovanni Capobianco. Về một bài nhạc mà ông ta đã sở hữu trước đây. Bài nhạc viết bởi một người nhạc sĩ tên là Lorenzo Todesco”

Cô ta viết xuống lời nhắn rồi nhìn lên hỏi Hân:

“Cô muốn tôi gọi cả hai người?”

“Đúng vậy. Tôi muốn chắc chắn là tôi tìm đúng người”

“Và nếu họ muốn nói chuyện với cô thì sao? Cô sẽ ở trong khách sạn này bao lâu? Tôi hỏi như vậy để tôi có thể cho cô biết là tôi liên lạc với họ có được không và kết quả ra sao”

“Tôi ở đây 2 ngày” Hân lấy bút của người thư ký và viết xuống số điện thoại cũng như địa chỉ điện thư của nàng rồi nói tiếp “Sau 2 ngày họ có thể liên lạc với tôi ở Mỹ”

“Tôi sẽ gọi vào buổi sáng, trước khi tôi rời khỏi đây”. Cô ta gắn một tờ giấy ngay trên bàn.

Hân biết là những yêu cầu của mình cũng kỳ quặc mà không biết cô ta có làm theo đúng như vậy không. Nàng không có cơ hội để hỏi cô ta vì đến sáng khi nàng đến quầy tiếp tân, một phụ nữ khác đã ngồi ở chỗ cô ta và tờ giấy nhỏ không còn thấy trên bàn. Không có ai để lại tin nhắn gì cho nàng. Chỉ trừ có chồng Hân là Rob đã gọi cho Hân qua điện thoại cầm tay của nàng.

Hân xem lại những lần Rob gọi trong điện thoại. Một lần lúc 2 giờ sáng, lần kế tiếp 5 giờ sáng giờ ở Boston. Tội nghiệp cho chồng nàng! Vậy là Rob mất ngủ, và lỗi tại Hân! Nàng nhớ lại đêm đi sanh Lily. Rob đã ngồi bên cạnh giường nàng suốt đêm, nắm tay nàng an ủi, dỗ dành. Nàng nhớ gương mặt không cạo râu phờ phạc của Rob. Lúc này có lẽ Rob cũng như thế! Nàng thấy mình nợ chồng một câu trả lời, một lời giải thích. Hân bấm câu trả lời ngắn gọn:

“Anh đừng lo! Em cần phải làm xong chuyện này. Sau đó em sẽ về nhà”

Nàng nhấn nút để gửi đi và hình dung Rob sẽ yên tâm khi nhận được. Hay chàng sẽ khó chịu? Hân có còn là người phụ nữ mà Rob yêu hay nàng chỉ còn là những rắc rối cho chàng?

Từ phòng ăn sáng bước ra, chị Giang kêu lên:

“À, em đây rồi!”

Khi thấy Hân cầm điện thoại, chị hỏi tiếp:

“Em nói chuyện với chồng em chưa?”

“Em để lại lời nhắn”

Chị Giang tươi nét mặt:

“Tốt! Tốt lắm!”

“Chị có nghe tin gì về Francessca không? Về bài nhạc?”

“Còn quá sớm. Phải cho cô ta thì giờ nghiên cứu chứ. Trong lúc đó chị nghĩ mình nên dạo chơi ở đây đi. Em muốn đi đâu?”

“Em muốn trở lại Cannaregio. Vùng của người Do Thái”

Chị Giang ngần ngừ, hoàn toàn không muốn trở lại nơi đó. Chị góp ý:

“”Sao mình không đi tới công trường San Marco đã? Chị muốn đi mua sắm ít đồ và thèm một ly rượu Bellinis. Mình đang ở Venice mà. Mình phải làm như những du khách khác đi em!”

Thế là cả Hân và chị Giang lang thang suốt ngày, ghé hết chỗ này chỗ khác.

Buổi chiều muộn mới đến chân cầu Cannaregio. Hân đã quá mệt mỏi với việc chen lấn trong đám đông suốt cả ngày. Đến đây thì yên tĩnh hơn nhiều và ít du khách qua lại. Vào đến khu của người Do Thái, qua những con đường nhỏ hẹp nay đã rợp bóng chiều. Sự im lặng của khu vực không làm Hân phiền lòng mà trái lại còn dễ chịu.

Nhưng khi đi được khoảng nửa con ngõ nhỏ hẹp, Hân đột nhiên dừng lại và nhìn sau lưng. Không thấy ai cả, chỉ có những cái bóng của nhà cửa. Không có gì phải cảnh giác nhưng không biết tại sao nàng lại nổi da gà. Làm như giác quan thứ sáu của nàng cảnh báo những rình rập sắp xảy đến.

Chị Giang thấy Hân khác lạ mới hỏi:

“Sao vậy Hân?”

“Em tưởng em nghe có ai đi sau lưng mình”

“Chị đâu có thấy ai đâu?”

Hân vẫn liên tục quan sát chung quanh với sự cảnh giác cao độ. Nàng tìm xem có bóng người nhưng chỉ thấy mấy dây quần áo phơi đồ trước mặt. Ba chiếc áo và khăn đang bay phần phật trước gió.

Chị Giang nói:

“Không có ai ở đó đâu. Đi thôi!”

Hân không có lựa chọn nào khác là đi theo chị Giang bởi vì nàng không muốn bị bỏ lại ở đây. Hai người tìm đường trở lại khu Do Thái nơi mà Hân lại bị lôi cuốn bởi tấm bảng có khắc tên những người Do Thái bị đưa vào trại tập trung. Tên Lorenzo Todesco nằm ở đó. Trong khi Francessca không tin Lorenzo là tác giả bài nhạc Incendio, Hân thì lại chắc chắn Lorenzo Todesco là tác giả. Nhìn thấy tên Lorenzo được khắc trên bảng đó chẳng khác gì một cuộc gặp gỡ mặt đối mặt với một người mà nàng biết đã lâu nhưng bây giờ mới gặp mặt.

“Trễ rồi. Mình đi về chứ?” Chị Giang nhắc Hân.

“Chưa muộn lắm mà”

Hân đi sang phía bảo tàng viện. Nơi đây đã đóng cửa. Qua cửa sổ, Hân nhìn thấy một người đàn ông đang xếp dọn. Hân gõ cửa kính. Ông ta nhìn ra rồi lắc đầu và chỉ vào mắt đồng hồ đeo tay của mình ra hiệu hết giờ.

Khi Hân gõ cửa lần nữa, ông ta ra mở cửa với vẻ mặt khó chịu.

“Francessca có đây không?”

“Cô ta đi về rồi. Đi gặp một nhà báo”

“Ngày mai cô ta có đến đây không?”

“Tôi không biết. Muốn biết thì cứ trở lại”

Nói xong ông ta đóng cửa lại không để Hân hỏi gì thêm.

Tối đó Hân và chị Giang ăn tối ở một tiệm ăn mà hai người cùng chọn. Đây là một trong những tiệm bán pizza và đồ ăn Ý gần công trường San Marco để phục vụ những người du khách không bao giờ trở lại. Bàn nào cũng có người. Hân và chị Giang ngồi sát với một gia đình thuộc vùng Địa trung hải. Họ ăn uống và nói chuyện ồn ào. Hân chẳng muốn ăn, nàng phải tự bắt buộc mình để ăn một đĩa nui quá dở!

Chị Giang thì có vẻ vui vẻ và thoải mái. Chị nâng ly rượu chát nói với Hân:

“Chị thấy mình đã hoàn thành nhiệm vụ. Mình đã đến đây, mình đã hỏi, mình có câu trả lời. Bây giờ thì mình biết ai là tác giả bản nhạc”

“Francessca có vẻ như không tin”

“Cái tên cũng trùng hợp. Địa chỉ cũng đúng. Chắc chắc tác giả là Lorenzo Todesco. Có vẻ như cả gia đình đã chết cả nên chị nghĩ chuyện mình thu lại bài nhạc không có vấn đề tác quyền gì cả. Khi về lại Mỹ, mình sẽ tập chơi bài đó với cả ban nhạc”

“Em không biết nữa chị Giang à. Em thấy thu lại bản luân vũ này không được làm sao đó!”

“Tại sao không được?”

“Làm như vậy chẳng khác gì mình xâm phạm đến tác giả và kiếm lợi từ một thảm kịch của ông ta. Bài hát này có một lịch sử kinh khủng quá! Em có cảm tưởng nhắc đến bài nhạc này là mình đang chờ những sự không may”

“Hân à, đây chỉ là một bài luân vũ”

“Chị không thấy người đàn ông bán bản nhạc này cho em đã bị giết chết sao? Làm như có một lời nguyền từ bản nhạc để hễ ai đụng đến nó hay nghe bản nhạc này đều gặp những chuyện không may. Ngay cả con gái em cũng vậy”

Chị Giang im lặng một lúc. Chị uống một hớp rượu rồi đặt xuống bàn nói với Hân:

“Chị biết vài tuần qua em đã trải qua nhiều khó khăn, nhất là những vấn đề với Lily. Em ngã xuống cầu thang. Nhưng chị không nghĩ những điều đó dính dáng gì tới bản nhạc Incendio. Nhưng quả thật bài nhạc này quá đặc biệt và có nhiều đoạn rất khó nghe. Bài hát rất rắc rối nhưng mạnh mẽ và đi với một lịch sử bi thảm, nếu không muốn nói là thảm kịch. Nhưng đó chỉ là những nốt nhạc trên giấy và những nốt nhạc đó cần được người ta nghe đến. Đó là cách chúng ta vinh danh người nhạc sĩ Lorenzo Todesco bằng cách chia sẻ bản nhạc này với thế giới. Ông ta xứng đáng để được trở thành bất tử với bản luân vũ này”

“Còn con gái em thì sao?”

“Lily? Chị không hiểu em muốn nói gì?”

“Bản nhạc này thay đổi con gái em. Em biết chắc chắn như vậy”

“Có thể là có vẻ như vậy. Khi mọi sự trở nên không đúng, người ta thường đi tìm tìm sự giải thích nhưng cũng có thể chẳng có câu trả lời nào thỏa đáng”

Chị Giang đưa tay nắm tay Hân rồi nói tiếp:

“Đi về nhà. Nói chuyện với chồng em. Cả hai cần phải giúp nhau vượt qua những khó khăn này”

Hân nhìn thẳng vào mặt chị Giang nhưng chị ấy tránh không nhìn Hân. Tại sao mọi sự tự dưng lại thay đổi giữa Hân và chị Giang? Làm như chị Giang không còn đứng về phe với Hân nữa. Nàng chỉ còn đứng có một mình.

Cả hai yên lặng khi rời khỏi tiệm ăn trở về khách sạn. Mặc dù đã khuya nhưng những con đường ở Venice vẫn không ngủ và náo nhiệt. Buổi tối vẫn còn nóng, những người trẻ vẫn tràn ra đường đùa dỡn, cười đùa vui vẻ. Nhưng Hân và chị Giang chỉ yên lặng đi bên nhau, chẳng ai nói với nhau lời nào.

Lúc này thì chồng Hân đã biết vợ mình ở đâu. Những lần Hân rút tiền tại những máy ATM ở Venice là Rob đã biết rồi. Nghề của chồng Hân là kế toán viên và Rob rất giỏi, cứ lần theo con đường của tiền là biết ngay Hân hiện đang có mặt ở Venice. Nàng thấy áy náy vì không trả lời điện thoại của chồng nhưng nàng sợ nghe những lời mà Rob sẽ nói với mình. Hân sợ nghe chồng mình sẽ nói là chịu đựng hết nổi. Sau 10 năm kết hôn với một cuộc hôn nhân đẹp đẽ yên ấm cho đến khi.. Liệu Hân có mất chồng không?

Ở cuối ngõ cả hai đã nhìn thấy ánh đèn yếu ớt của bảng hiệu khách sạn. Khi gần đến nơi, Hân vẫn nghĩ đến chồng mình. Nàng sẽ phải nói với Rob ra sao. Làm sao cả Rob và Hân có thể qua được những khó khăn này? Mải suy nghĩ nàng không để ý đến một người đàn ông đang đứng ở cửa khách sạn. Cái bóng của người đàn ông đó càng lớn dần khi y đi đến gần Hân và chị Giang và ngăn không cho hai người vào khách sạn.

“Hân Adams?” y hỏi bằng tiếng Anh với giọng Ý.

Chị Giang hỏi lại:

“Ông là ai?”

“Tôi đi tìm bà Hân Adams”

“Đi tìm người với thái độ như vậy sao? Bộ ông muốn dọa nạt cô ấy hay sao?”

Y vẫn tiến đến gần hơn. Hân lùi lại cho đến khi người đụng vào bức tường phía sau.

Chị Giang kêu lớn tiếng:

“Ngừng lại! Ông làm cô ấy sợ! Chồng cô ấy không có nói làm như vậy”

“Chồng cô ấy”? Chỉ với 3 chữ đó thôi mà đã làm cho mọi sự sáng tỏ. Hân sững sờ nhìn chị Giang “Chị.. chồng em..”

“Cưng ơi, sáng nay Rob gọi điện thoại cho chị trong lúc em đang ngủ. Chồng em đã giải thích tất cả. Nào là em bị hoảng loạn, rồi bác sĩ tâm thần. Mọi người muốn đưa em về để vào bệnh viện. Rob hứa sẽ không làm em hoảng hốt hay khó chịu. Nhưng bây giờ Rob lại gửi cái thằng khốn nạn này tới đây”

Chị Giang đứng giữa Hân và gã đàn ông lạ mặt. Chị Giang nói giận dữ:

“Lùi lại, nghe chưa? Nếu chồng cô ấy muốn cô ấy về nhà thì chính chồng cô ấy phải tới đây và..”

Tiếng súng nổ làm Hân tê cứng cả người. Chị Giang ngã xô vào Hân. Hân ôm lấy chị, nhưng người chị như không còn hơi sức và gục xuống đất. Máu của chị thấm vào cánh tay Hân.

Đột nhiên cửa khách sạn mở ra, Hân nghe có tiếng hai người đàn ông cười nói khi đi ra khỏi khách sạn. Gã bắn chị Giang nhìn và bị phân tâm.

Đó là lúc Hân bỏ chạy.

Nàng chạy về phía có đèn sáng và đám đông để tìm sự an toàn. Nàng nghe thấy có tiếng súng nổ nữa và tiếng gió rít sát tai mình. Thấy có quán cà phê gần đó với nhiều thực khách đang ăn uống, Hân chạy nhào tới đó. Nàng muốn la to kêu cứu nhưng cổ họng như có ai bóp nghẽn, không có tiếng nào thoát ra khỏi cửa miệng Hân. Nàng chắc chắn là hắn ta đang đuổi theo nên Hân càng ra sức chạy. Người ta nhìn nàng nhưng Hân vẫn chạy. Có nhiều người nhìn thấy, nhiều nhân chứng, nhưng ai là kẻ đứng giữa nàng và những viên đạn?

Chiếc cầu trước mặt là đường ra khỏi khu vực này. Một khi nàng thoát qua khỏi chiếc cầu đó là Hân có thể nhập vào đám đông ở San Marco. Nàng nhớ ở San Marco có trạm cảnh sát.

Chiếc cầu đó là con đường thoát của nàng.

Khi chỉ còn vài bước là đến chân cầu thì có bàn tay của ai đó nắm và lôi nàng lại. Hân định chống trả và nhận diện kẻ đó, nhưng bàn tay kia thuộc về một phụ nữ trẻ. Francesca! Người phụ nữ làm việc trong bảo tàng viện Do Thái!

“Bà Adams, chúng tôi đang đi tìm bà” Cô ta ngừng lại khi nhìn thấy vẻ mặt hoảng sợ của Hân “Có chuyện gì vậy? Tại sao bà phải bỏ chạy?”

Hân liếc nhìn phía sau lưng và chung quanh nàng đi tìm kẻ sát nhân.

“Có người đàn ông kia.. định giết tôi!”

“Bà nói sao?”

“Y chờ ở khách sạn. Chị Giang.. bạn tôi bị y bắn.. Chắc chị bạn tôi chết rồi!”

Hân nói xong và òa lên khóc.

Francesca quay lại nói bằng tiếng Ý với một người đàn ông trẻ để râu đang đứng đàng sau cô ta. Với túi xách và cặp kính cận, trông anh ta ra vẻ một sinh viên. Cậu ta nghiêm mặt gật đầu và vội vã đi về phía khách sạn mà Hân và chị Giang đã thuê ở đó.

“Anh bạn tôi sẽ xem tình trạng bạn của bà ra sao. Bây giờ bà đi với tôi ngay. Ra khỏi đây ngay”