← Quay lại trang sách

Truyện 6: Tiền rừng

Út Tình là em rể Bảy Biển. Thứ bảy, chồng tên Biển nên gọi vậy. Bảy quê Tiền Giang, lên bến phà Hai Lẻ Sáu, trong tay một đồng hồ Citizen và một con gái. Hai mẹ con tìm nhà Năm Tính. Năm Tính là anh Út Tình. Từ Đồng Nai, Tính xuống Tiền Giang thăm bà con, tình cờ quen vợ chồng Bảy Biển. Quen sơ trong bàn nhậu thôi, có đãi bôi rằng, nếu lên Đồng Nai cứ gặp tui. Bảy và con gái đây, còn Biển đâu?

Vắn dài nước mắt Bảy kể rằng. Số mẹ con cô đúng ăn mày. Chồng chỉ được cái đẹp trai, còn ăn nhậu là số dách. Nhậu xong đem vợ ra làm cái bao tập đánh bốc. Vì sao? Rượu vào là Biển ghen, ghen kiểu khùng điên, bao nhiêu tiền làm ra Biển giữ chặt, tự đi chợ, sợ đưa tiền vợ sẽ đem cho... trai. Một ngày chỉ một cữ nhậu, nhưng từ sáng đến tối. Chán quá, Bảy phải đủ thứ mò cua bắt ốc kiếm thêm. Bên ruột không ngó vì cho đáng đời cái thứ mê trai đẹp. Bên chồng cũng không vì tưởng nó đẻ cháu trai, ai ngờ gái, kệ luôn. Như vậy làm sao sống hả trời?

Chồng vậy. Gia đình vậy. Bảy lên trạm xá xã. Phong trào kế hoạch hóa gia đình đang phát động. Đặt vòng, thuốc tránh thai, bao cao su, đàn ông thắt ống dẫn, còn đàn bà triệt sản. Ai thắt được hỗ trợ chừng đó tiền. Ai triệt sản chừng này tiền. Bảy làm thủ tục lên bàn cho chuyên gia cắt buồng trứng. Đẻ chi nữa, thêm con chỉ khổ cho mình. Bảy ngủ một giấc, tỉnh dậy thấy trong túi có mớ tiền. Về chòi, chồng lè nhè nói:

- Triệt sản rồi thì về đây chi, từ nay tao với mày hết tình nghe, con quỷ cái.

Đã có chủ ý, Bảy lên xe dông tuốt lên miền Đông. Tìm đường đến bến phà Hai Lẻ Sáu. Năm Tính trố mắt một hồi. Nói chung hễ thấy đẹp là đàn ông trố ra nhìn. Bảy đã đẹp lại một con. Trố một hồi đồng tử tụ lại, Tính à lên:

- À... Cô Bảy Biển, đi đâu đây? Ổng đâu?

Gốc ngọn được trưng ra, vậy ra lên đây kiếm cái làm ăn. Tưởng gì, làm chơi thì khó chứ làm ăn đây vô thiên lủng ngành nghề. Năm Tính làm nghề chẻ tăm nhang, sáng vô rừng lấy mớ lồ ô, về ra đoạn rồi chẻ nhỏ. Nói chung cũng đủ sống.

- Cô biết không – Tính nói – cái lồ ô nầy mà đem được xuống Dĩ An-Bình Dương là ngon lắm. Một lời một đó cô.

- Sao anh Năm không mang đi?

- Phải có vốn lơn lớn tí, thêm cái giấy phép khai thác của lâm trường, không có hai thứ nầy thì đành chịu.

Cả hai thứ Bảy cũng không có. Trên cổ tay lại có cái Citizen. Thuở mà thiên hạ nhìn mặt trời, hoặc đo bóng để định giờ, có cái đồng hồ là bảnh ác liệt luôn. Mà ở đâu có vậy? Thì triệt sản xong, Bảy trích một nửa mua để dành. Ba Kỉnh, chủ một xe Kamaz hỏi Bảy:

- Mấy giờ rồi cô ơi?

Bảy ngước mặt. Nhìn nhan sắc Ba Kỉnh chơi vơi. Có câu reo nhì máy bảy em chê, bò-ma ka-mát em mê chỗ nằm. Kỉnh ta lân la trò chuyện rồi ra tay giúp thân gái dặm trường chuyện làm ăn. Tính, Kỉnh, Bảy bàn một hồi ra một kế hoạch nhỏ. Tính rủ anh em vô rừng khai thác trộm lồ ô. Kỉnh đưa đi bằng Kamaz. Bảy áp tải. Phải bán cái đồng hồ để anh em thợ rừng có cái làm ăn. Xe qua lâm trường. Bảo vệ kéo barie hỏi giấy phép khai thác, chuyện nầy với Ba Kỉnh đâu có lớn, đưa cho em trai tí đỉnh là xong, xui cái bữa đó giám đốc lâm trường có mặt, ông ta còn ghé mắt xem thử xe chở gì, vậy là hàng bị tuôn xuống. Chủ xe và chủ hàng vào văn phòng cơ quan lập biên bản. Bảy vắn dài than thở. Giám đốc bảo:

- Hai giờ chiều cô quay lại, nộp phạt tôi sẽ cho xe đi. Hàng khai thác lậu là tịch thu.

Đúng giờ Kỉnh và Bảy có mặt, nhưng giám đốc chỉ tiếp chủ hàng. Ba Kỉnh ra quán cà phê dài cổ chờ. Hơn tiếng sau mới thấy Bảy ra. Vẻ mệt mỏi, Bảy đưa cho Kỉnh một giấy phép đọc qua là hết hồn. Giấy phép khai thác Mây Tre Lá. Ra giám đốc cám cảnh nghèo, nên tế độ vớt kẻ lầm than. Năm Tính mừng hơn bắt được vàng. Tuy giấp phép chỉ cấp sáu tháng, nhưng sáu nầy sẽ có sáu khác, đúng không? Bây giờ ta đang không có gì mà được vầy, ba bữa có tí tí rồi, sẽ khác đi. Y như rằng. Bộ ba Bảy Tính Kỉnh chỉ hai năm sau ngày gặp gỡ, lên như diều gặp gió. Bảy được lâm trường cấp cho một lô nửa sào tây ngay khu vực phà. Hai bên mọc lên hai dãy chòi lợp lá kè, đó là nơi trú ngụ cho lính lác. Dưới trướng Bảy trên dưới ba trăm thợ rừng. Phà Hai Lẻ Sáu luôn luôn có mặt năm mươi thợ về dưỡng quân. Bộ mặt vốn dĩ túng thiếu của bến giật mình khởi sắc. Đó là nhờ tay Bảy. Tất nhiên có sự giúp đỡ tận tình của người anh kết nghĩa là giám đốc lâm trường.

Nhà của Bảy tọa lạc tại trung tâm lô đất, lưng tựa mé sông. Biển - chồng Bảy - tạo một giàn phong lan vô cùng hoành tráng đằng trước sân. Ủa, sao lại có Biển dính vô đây? Có chi đâu. Vợ chồng mà, giận nhau tí chút thôi. Làm người khi túng quẫn ai chẳng có tí không hay. Dù gì cũng có đứa con gái làm cầu nối cho cha mẹ. Trong căn nhà ấy chứa hầu hết hai bên nội ngọai. Hai Đầu Bạc - anh trai Biển - chuyên điều xe vào rừng. Hai Bướu - anh trai Bảy - là kế toán. Cái sân ấy còn chứa cả hai chiếc Kamaz, và ba chiếc Zin ba cầu, hai chiếc Zin 130. Tất nhiên nó là sở hữu của bà Bảy Biển uy lừng thiên hạ phà Hai Lẻ Sáu.

Ba trăm lính khai thác Mây Tre Lá đặt mình dưới sự điều khiển của năm cai thầu. Muốn làm cai thầu - một cái nghề hốt bạc chẵn ngon lành tầm cỡ - tiêu chuẩn cần có là phải thật sành rừng, phải truy cho bằng được nơi nào có thật nhiều lồ ô, đỉnh cao hay vực sâu cũng được, miễn sao Zin, hoặc máy cày John Deer có thể xuống để lôi lên mà về xuôi. Phải lội rừng đến mỏi mòn hơi thở, truy cả tuần, cả tháng chưa chắc đã ra một vị trí thích hợp để có thể đổ quân. Mỗi vị trí chí ít cũng ba mươi mạng, trụ trong sáu tháng. Rừng Hai Lẻ Sáu ở miền Đông Nam Bộ, bạt ngàn lồ ô, nhưng nó nằm trên đỉnh cao đồi Đất Đỏ. Cái đỉnh đó chỉ có ba cầu sáu máy mới lên nổi, lên được rồi là đèo cao, suối sâu. Kiếm được một cụm rừng, để một cánh quân có công ăn việc làm là cai thầu ấy ung dung sống. Bình quân ba mươi quân cho một bãi, muốn ba trăm quân có nơi ăn chốn ở ổn định trong thâm sơn cùng cốc phải mười bãi. Đứng đầu trong danh sách cai thầu là Năm Tính. Tính sở hữu một trăm quân. Lính của Tính được mệnh danh Hoàng Gia Quân. Toàn dân vai u, thịt bắp, ôm rừng sống trọn cả năm không thèm về phố thị. Tính thực sự tài năng, không hề tựa vô cái uy quen biết lớn với bà chủ - người mà nếu không có Tính là mãi mãi trong bóng tối đói nghèo, bị chồng, gia đình chồng lẫn cả gia đình mình ruồng bỏ. Tính giỏi đạp rừng lắm, dân bắt ong, lấy mật thiện chiến, rừng như lòng bàn tay chẳng có chi là lạ.

Thuở đói rách, dân thất nghiệp lấy rừng làm mạch sống. Cây, củi, lò than, so với khai thác lồ ô là một vực, một trời. Vì sao? Vì lồ ô được quyền khai thác hợp pháp, còn tất cả những món khác, nhúng tay vô là lậu, tất cả được liệt vào dạng lâm tặc, mọi thứ làm ra đều về bến đỗ là ban chỉ huy lâm trường. Mây Tre Lá là Một La Mã in hoa.

Ta bà đôi ba chục tỉnh gộp lại trong ba trăm nhân mạng, ai cũng khoái được là lính của Năm Tính. Dưới trướng của cai nầy, không bao giờ thiếu cây để làm, một cặp, ngày chục bó niền là không lớn, hai ngày một xe tuyển là chậm. Một tháng ra bến phà gặp chị Bảy Biển tính sổ, người dư chỉ vàng là dạng biếng lười. Những cai thầu khác như Chín Nà, Bảy Bầu Cua, Châu Đèo, tuy có kém hơn Năm Tính tí chút, nhưng cũng ngon lành lắm trong nghiệp khai thác lồ ô, và sản phẩm của nó là niền và tuyển.

Niền và tuyển?

Chả có chi khó hiểu. Vào rừng rồi, mỗi cặp thợ - thường là một cặp vợ chồng - được cai thầu chỉ định cho một cụm để ra tay, phải làm cho sạch cụm đó mới được chỉ cho nơi khác mà khai thác. Mỗi vị trí sẽ được dọn sạch gọi là Mà. Mà là nơi tập trung lồ ô cây, sau đó cưa bỏ mắt, chỉ lấy thân, mỗi đoạn dài bốn mươi phân, mỗi ống chẻ ra làm bốn, xếp đều vô một vòng tròn được thắt bằng vỏ lồ ô non có đường kính cũng bốn mươi phân, nêm lại cho thật chặt là ta có một bó. Mỗi bó như vậy được gọi niền. Zin ba cầu mỗi chuyến chở được trăm rưởi cục. Tất cả được tập trung về sân nhà Bảy Biển. Sau đó được bốc lên Kamaz đường dài, mỗi xe là năm trăm cục xuôi về Dĩ An, Bình Dương, và dân xứ đó sẽ ra tăm nhang để xuất khẩu đi các nước. Nước nào? Đó là những quốc gia mà tôn giáo chính là Phật. Ngày nay tín đồ Công giáo cũng thắp hương, e rằng tăm nhang của rừng Hai Lẻ Sáu Việt Nam cũng được nắm trên tay Đức Giáo Hoàng chuyển lời cầu nguyện về hòa bình thế giới lên các đấng tối cao. Mỗi bó niền chị Bảy trả cho cai năm ngàn, cai trả cho thợ bốn ngàn. Ngó nhỏ nhưng mà lớn. Một ngày một cặp thợ là mười cục. Mười lăm cặp, Tính bỏ túi trăm rưởi ngàn, chỉ bốn ngày Tính bỏ túi chỉ vàng. Mà không. Tính có một trăm quân. Là năm mươi cặp. Ngày chỉ vàng, Trời ạ. Ông bà nói tiền rừng bạc bể có sai đâu.

So Năm Tính với Bảy Biển thử coi. Mỗi Kamaz năm trăm cục, về đến bến cuối cùng, vốn của nó là hai mươi nghìn, và bán với giá bốn mươi nghìn, ngày hai Kamaz. Đều dặn một tháng sáu mươi chuyến, nếu xe cộ có trục trặc, phải thuê xe khác. Làm ăn lớn phải đúng hẹn, trễ phải bồi thường, cà chớn là hủy hợp đồng, hiểu chưa? Vậy nên sau hai năm chị Bảy không nên bà mới lạ, và bà con cô bác nội ngoại hai bên, tâng con bé Hoàng Trinh - cô con gái duy nhất của Bảy và Biển - lên hàng công chúa. Em gái của Bảy là Hoàng Cúc, nhỏ nhỏ cái dáng, xinh xinh cái mặt. Nàng cũng được đưa lên hàng thượng thượng. Thợ rừng đông như kiến cỏ, nhưng chả ai dám mơ thiên kim em bà chủ. Có mơ cũng không được vì nàng nhung lụa nên thích cái đẹp trai, và Út Tình, em trai Năm Tính có cái điều kiện đó.

Cả hai yêu nhau. Em cai thầu, em bà chủ. Tình sâu và nghĩa nặng, còn chi hộ đối hơn?

Để lo cho em trai một tương lai ổn định. Năm Tính xé một toán Hoàng Gia, thêm một cụm rừng toàn lồ ô tuyển, thăng em trai lên cai thầu. Để giúp đỡ em rể, bà Bảy Biển cho Út Tình một đặc ân, được quyền điều xe đi bất cứ nơi đâu. Nếu đoạn đường quá khó, cứ cho ba xe vô cùng một lúc mà giải quyết sự cố. Và thế là bãi Út Tình được mệnh danh hai con cắn một con. Toàn khai thác lồ ô tuyển.

Tuyển?

Làm tuyển đơn giản hơn niền, nhưng thu nhập gấp hai lần. Dân rừng tuyển lồ ô từ ba năm tuổi đi lên, tầm cổ chân, dài sáu mét. Tập trung lại và mỗi chiếc Zin ba cầu chở ít nhất sáu trăm cây. Hãy so sánh, bảy cây lồ ô cho ra một bó niền, người thợ phải làm các công đoạn cưa, chẻ, bó lại được bốn ngàn. Còn tuyển chỉ ra cây, xếp đống là xong, mỗi cây được bảy trăm đồng, cai ăn đi một trăm. Vị chi thợ có bốn nghìn hai. Làm tuyển đã có giá lại khỏe hơn nên ai cũng muốn tham gia. Khai thác tuyển phải được chỉ định, thí dụ, tuần nầy cai Châu Đèo được giao năm xe tuyển, tuần sau đến Bảy Bầu Cua... Cứ thế mà xoay tua. Sau đó, toàn bộ miếng cơm trắng nầy được bàn giao cho phò mã Tình. Đặc ân đó khiến thợ rừng tìm mọi cách được đầu quân dưới trướng phò gia.

Có thể nói trong tất cả các nghiệp cai thầu, không thứ nào ngon bằng lãnh vực khai thác lồ ô. Khi đã đạp ra rừng, đã có đường cho xe lên xuống, cai chỉ còn việc thong dong ôm rựa đi dạo để ngắm cảnh hoặc kiếm lấy giò lan, đôi ba gốc hoặc gõ, hoặc cẩm đã lụt làm kiểng khô, bứng vài gốc mai chiếu thủy ra cái kiểng sống. Rồi trên con đường thong dong ấy, ta đạp tiếp khoảnh rừng khác lo cho cái ngày mai.

Ngoại trừ kiếm được ở đầu cây, đầu bó, cai còn lượm nhiều khoản khác từ người thợ rừng. Lương ăn cũng là một món hời không kém. Mỗi thợ khi vào rừng được nhận, gạo, thịt, khô khan các cái từ cai của mình. Ăn khoản nầy là một nghệ thuật muối mặt tầm đặc biệt. Mười người sẽ được cai chia đều một bao gạo năm mươi kí. Giữa rừng đâu có kí mà cân, cứ cổ điển ta chia. Bốn lon sữa bò cho một kí. Út Tình nổi danh toàn cõi Lẻ Sáu với nghệ thuật đong gạo. Hãy xem. Cái lon được nhẹ nhàng - cực kì nhẹ nhàng - đưa vô bao, rõ ràng trước mặt ba quân nó vun đầy những gạo, tay kia Tình cầm một đoạn lồ ô gạt nhẹ. Đủ hai mươi lon là năm kí. Mười người nhận xong thì trong bao còn ít nhất cũng chừng đó lon, phần của phò mã. Thật kinh dị. Những cai khác cũng chơi chiêu nầy, nhưng đạt đến trình độ năm mươi ra năm lăm kí, duy có Tình. Mỗi thợ sẽ được nhận một kí thịt cho một tuần. Mấy chủ bàn thịt ở phà đã có bổn phận, mười kí phân ra mười một phần, tất cả các cái đều như vậy, ngoại trừ rượu, vì khi nhậu chả ai không mời cai một tiếng. Nói chung phần ăn của cai được xé ra từ anh em thợ. Người thợ khi bắt một con vắt no máu từ trong người mình ra, đặt lên gốc cây, vung rựa chặt đôi con vắt mà rằng:

- Đù má thằng Út Tình.

Thợ nhún vai mà rằng mười nuôi một chẳng lớn lao chi, nhưng rõ ràng năm mươi trong một thì thật sự lớn. Cái lớn ấy lâu ngày đọng lại trên cổ trên tay hai vợ chồng Tình những vàng là vàng. Và vàng luôn làm kiêu hãnh tâm tính người. Kiêu hãnh có bộ mặt khỉnh khỉnh rất dễ ghét, cái miệng luôn phun câu khoe mẽ. Có tí đỉnh, tám phần thiên hạ dưới gầm trời nầy luôn luôn tự cho mình là kẻ có tài. Út Tình vậy cũng có chi đâu lạ. Tất nhiên là thợ rừng, người bán mồ hôi, nước mắt cả máu để kiếm miếng cơm, ghét Tình cũng có chi đâu lạ.

Những con người xem rừng là nhà. Trời ơi. Tội nghiệp lắm. Vợ chồng trong một căn chòi là chuyện thường, mang cả con cái theo nữa kìa. Đứa lớn tám tuổi, ru đứa ba tuổi cho em bú sữa bò, em ngủ rồi nó mang đồ xuống suối giặt cho mẹ, nấu cơm chờ cha mẹ về ăn. Buồn không? Ồ, không đâu, cả bầy thiếu nhi giữa rừng, chúng cũng hát hò vui lắm. Vậy rồi không sợ bệnh tật sao? Không sao, cảm vặt nghĩa địa gì cả sốt cũng không sợ, đã có thuốc bên chòi chú Út Tình. Út phân từng liều vào túi nilon, người lớn, con nít đâu ra đó rõ ràng. Ai lấy bao nhiêu Tình ghi sổ bấy nhiêu, ở rừng khoản lợi nhuận từ thuốc trị sốt, trị nhức mỏi cũng là một khoản thu hoành tráng. Mấy tiệm thuốc tây ở bến phà, xem mấy cai thầu của Bảy Biển là thần tài chính hiệu. Bệnh, nhất là sốt rét rừng, phải điều trị theo lịch, có chỉ dẫn của y bác sĩ, làm ăn kiểu nầy là nguy cho tính mạng con người lắm à. Tất nhiên là ai không biết vậy, nhưng ai cũng gửi thân mình vô ba liều thuốc của Tình là tại sao? Dễ lí giải lắm. Nghèo mà, liều chả ai bằng. Với lại thuốc điều trị Tình cũng phân như mấy mẹ, mấy cha bán lẻ ở phà, mà mấy cha mẹ đó có bảng hiệu là dược sĩ hẳn hoi, ta sợ chi nào? Còn nặng nữa, ăn uống không vô, ta ra phà, lên trạm xá xã, xem như giải lao mươi bữa nửa tháng. Tệ nữa bay lên bệnh viện huyện thăm phố phường, xem nhịp sống tươi vui.

Buồn lắm kẻ ở rừng. Chết vì sốt không kịp chuyển viện thường lắm. Chết vì bị đọt lồ ô đâm mới thê lương. Thê lương lắm, hỡi cao xanh.

Muốn chặt cây lồ ô, trước tiên người thợ phải đi đọt. Một câu liêm cán dài sáu mét, vói tay hết tầm, lựa thế, lựa chiều và xoẹt. Đọt lìa thân và cành nhánh của nó sẽ giữ ngọn lại trên cao. Lồ ô khác với tre nhà, rất nhiều cây chẳng có tay (nhánh). Thợ khoái nhất đi những cây nầy, xoẹt, ngọn phập xuống đất, đi chừng mười ngọn, thợ ngưng lại rồi dùng rựa ra cây. Đã có tài tử, vung tay đi đọt, và một đọt phản chủ xuyên một nhát từ trước ra sau. Hơn một cái chết như vậy đã xảy ra, về sau không ai dám đi một nhát, họ thò câu liêm lên, nhấp nhẹ, ngọn ngã ra, nhát thứ hai mới dám cho ngọn lìa thân.

Một nhát lìa thân, có vẻ phim Tàu quá. Thật vậy, nghe sao mà thần thoại. Mía, với tầm dao trước mặt có cây còn hai nhát, nói chi tre. Nhưng khi nhìn cái câu liêm của dân lồ ô là tâm phục khẩu phục liền. Nó được tạo từ loại thép tốt nhất, tôi luyện và tạo dáng từ những người thợ vài mươi năm kinh nghiệm của nghề rèn. Thép một lưỡi rựa hạng một so với thép để tạo câu liêm chỉ là loại hai. Loại gì vậy? Đó là bộ lò xo phuộc nhún của xe Jeep lùn.

Cả cái lưỡi cưa để ra niền cũng không hề tầm thường. Thiên hạ dùng dây thiều của cưa máy cầm tay dập ra lưỡi. Để sử dụng được phải là tay rửa (giũa) cưa chuyên nghiệp, chỉ cần một mũi cao, hoặc thấp bị xóc là khỏi xài. Ở bãi niền, cai thầu nào cũng là tay rửa cưa thiện chiến, họ rảnh rỗi nên chuyên, và cai nào cũng làm với giá: năm lần rửa là một cục niền, mỗi lần là một li cà phê đen cho thầy sáng mắt. Chớ sao, sáng, rửa mới tinh.

Kẻ sáng ắt người tối. Tối tăm luôn phủ lên đời thợ. Cả bầu đoàn thê tử ở rừng đương nhiên cả bầu cùng sốt. Dư ư? Có bi nhiêu cũng không đủ viện phí. Còn độc thân thì vui tính, cô đơn giữa rừng ta dụng rượu giải sầu. Sốt kèm rượu, xơ gan có chi đâu lạ. Mỗi lần về bến, ta ra phố kiếm xóm chị em, ở đó có quyền hát cho em nghe câu cô đơn cô đơn nỗi đau. Cõi lòng lạc lõng như... Hết tiền lại vào rừng ngâm Ta sống dở và ta chết dở. Giữa núi rừng cao ngất ngàn năm.

Tối tăm luôn làm cho người ta sầu hận. Không có tay thợ rừng nào không coi trời bằng vung, tỉnh thì không nói chi, nhưng có men vô là chửi tất tần tật. Bị chửi khi vắng mặt, mỉa mai khi có mặt nhiều nhất là cai. Cũng phải thôi, ăn quá mà. Đồng loại dưới trướng mà anh ăn đến cái gấu quần thế kia thì con chi nhân nghĩa? Bọn tôi lén lút chửi bới cũng gỡ bớt phần nào tội lỗi cho anh, bằng không tội tích lại, anh có trả một thiên niên kỉ dưới a tỳ cũng đố mà hết. Vợ anh bảnh tỏn trong lụa là và tung tăng ở phố, toàn máu và nước mắt của vợ chồng con cái tôi... Bên chén tiêu sầu trong đêm hun hút sâu, rừng buông hơi thở buồn hòa điệu cùng thở than, hằn học.

Cũng có những tay thợ không lén lút, họ chửi thẳng vô mặt cai thầu, nhưng hậu quả là cai đuổi thẳng, không cho anh gia nhập trong đội ngũ của tôi. Bãi của tôi toàn dân làm ăn, anh vào quậy phá, gây mất trật tự, mời anh ra khỏi bãi. Sản phẩm của anh bao nhiêu về phà tôi thanh toán bấy nhiêu. Đuổi hả? Không làm cho mày tao làm cho Bảy Bầu Cua. Mày liệu hồn đó, chỉ cần một xe cây lậu của mày ra rừng là bà nội mày chắc chắn đội chuối khô à...

Gì mà hăm he nhau vậy? À vụ nầy bí mật à. Nói nhỏ nghe chơi thôi, nghe xong rồi bỏ dùm cái. Cai nào cũng tranh thủ kiếm thêm tí tí từ lộc rừng. Họ triệu tập thợ cưa, vào hạ những cây quý mà trong quá trình đạp rừng đã phát hiện, những cẩm lai, gõ đỏ mồ côi, lạc loài dưới đáy U Linh Cốc. Cưa, ra ván, tập trung lại một điểm rồi cho lên đáy thùng Zin ba cầu, bên trên chất niền hay lồ ô tuyển. Nếu trời biết, ta cho trời tí đỉnh. Có câu hoàng thiên hữu nhãn, có mắt ắt có tai và có miệng. Có cái miệng nào trên thế giới nầy không ăn? Xôi chùa luôn ngọng miệng.

Là em rể, lại chưa có nhà. Bảy Biển nhắm mắt cho Út Tình ra cây. Cột là gõ mật, căm xe vài trăm năm tuổi. Ván sao để tấp vách, một lóng cây chỉ với độ dài hai mét là một khối. Sau ba năm nên gia thất, Tình cho ra năm nếp nhà mà vẫn chưa có chỗ ra vô. Vì sao vậy? À, định kêu thợ về dựng nhưng lần nào cũng gặp vấn đề nên phải bán rẻ để lo. Thôi để ăn Tết xong vô rừng kiếm nếp khác, với lại vợ chồng còn son trẻ, đâu lo gì. Nghe cũng có lí.

Mà sao bước qua năm thứ tư mà vẫn son? Vậy cũng hỏi. Chuyện con cái thời nầy đâu phải thời xưa mà ta không chủ động. Khi sự nghiệp trong tay đã ửng màu gấc chín, lúc đó con cái ra đời sẽ bước trên thảm đỏ mà đến tương lai, đúng không? Tình và Hoàng Cúc đã đắc co cái rụp rằng sau năm năm ta sẽ là cha mẹ. Thời hiện đại đủ thứ để tạm ngưng. Khoa học mà, muốn là được. Đâu như mấy tay thợ rừng, đã nghèo rớt còn chăm bẵm đẻ. Con mới ba tháng tuổi đã na vào rừng vừa địu vừa vác lồ ô, vắt đeo mẹ đã đành còn hút cả máu con. Thảm vậy mà còn lí luận cùn:

- Có đứa con là tất cả chú Tình ơi. Trời sanh trời dưỡng lo gì, mà hết bĩ rồi lại thái, bây giờ khổ mai sau sướng, phải không chú?

Tình nghe và gật gật. Nhìn cái gật ấy, mấy tay thợ kháo nhau:

- Nó thất đức cỡ đó, có con cũng sẽ là đại phá gia, mà chắc gì có con. Trời đâu có dung gian, tin tao đi, làm ác sẽ có ác. Rừng linh hiển lắm, không nghe ăn của rừng rưng rưng nước mắt sao?

Dân rừng ngó lam lũ vậy chứ không đùa dược đâu nghe. Toàn dân có trình độ không đó. Thời gian khó nên họ đành thôi vậy. Có anh ngợi ra vẻ lắm, nào thế xuân thu thế chiến quốc gặp thời thế thế thời phải thế. Lại ngâm cả đoạn rằng: “Ta đứng giữa một vòng vây mộng ước. Với một hồn đầy ắp những thương đau. Với hoang mang của một kẻ đi tìm. Với đớn đau một gia tài đã mất. Trong sương chiều ta có thấy gì đâu?” Dữ a? Cũng chẳng có chi, toàn dân trào cũ cả thôi. Nhiều nhiều anh rớt tú tài ra trung sĩ. Có anh đậu tú tài nhưng lại đơ dem cùi bắp. Hỏi sao, anh kể rằng tao trốn lính dẫn người yêu đi chơi bị cảnh sát bắt, nó tống vô quân trường nên ra cái binh đơ, may mà đơ chứ tao là sĩ quan chắc cải tạo mút mùa lệ thủy. Vậy thôi mầy ơi hữu trung vô họa hữu họa vô trung, biết ngõ nào mà lần, giàu nghèo nhanh hơn cú lật bàn tay, tao xưa kia nhà ba tấm, mà nay ở chòi rách. Chẳng sao cả. Sống là một nghệ thuật thượng đẳng. Đang giàu tuột xuống cái bang, khó lắm, đang uy quyền bỗng bị sai phái như nô lệ cũng khó luôn. Để qua được phải đạt đạo, phải biết quỳ xuống, hai tay giơ lên nâng trời cao, tạ ơn thượng đế đã cho con nếm mùi gian khó và đơn độc, để con yêu và biết quý trọng cuộc sống nầy... khà khà khà... vô đi... uống xong chén nầy mà huynh còn muốn uống thêm chén nữa thì ta chơi tới sáng luôn... đời phù du có nghĩa chi... nào dzô...

- Tin tao đi. Cát bụi sẽ trở về cát bụi, quả báo trước con mắt chúng ta. Ông bà đã dạy rằng của làm ra là của trong nhà, của ông bà của ngoài sân của phù vân nó có chân nó chạy. Bọn thợ như mình toát mồ hôi trán mà còn đau thương, huống chi ngồi mát ăn bát vàng như lũ cai trong bãi niền Hai Lẻ Sáu nầy, nhưng tụi cai nầy cũng không bằng một góc lẻ của bà Bảy và thằng chồng vô dụng Biển, nếu không có cái váy của mụ Bảy, chắc nó chết mục với ba xị đế, làm chi có whisky hay Napoléon mà nốc để đấu láo. Từ cái Citizen mà nay cả một cơ ngơi hùng hậu kể ra nghệ thuật giường chiếu của mụ cũng loại thượng thừa. Khà khà khà...

- Cho con xin đi ông con, ông lấn sân nghệ thuật rồi đó. Đừng có xâm qua Bảy Biển, suy cho cùng nhờ mẻ mà mình có công ăn việc làm... Hỏi ông câu nầy, sao đang làm cho Bảy Bầu Cua ông lại bò qua đây?

- Rồi, gác Bảy Biển lại để nói sau, Bảy Bầu Cua hả? Tao chưa thấy ai táng tận lương tâm như mẹ con bà nội nầy. Tệ nhất là thằng Thành con trai bả, nó cướp trắng vợ thằng Đức, mày nghe vụ đó không?

- Có nghe, nhưng làm gì mà cướp trắng? Khi anh không đủ tình tiền và tình dục cho em thì em bỏ ông thôi, ở đó mà cướp với chả trộm, thợ rừng nghèo khổ và thằng cai bảnh tỏn, tất nhiên em chọn cai. Đời mà... hề hề hề, nói vụ Bảy Bầu Cua cá cọp dùm đi ông ngoại.

- Bà nội nầy, dốt đặc cán mai nhưng có một trí nhớ siêu hạng và tính nhẩm giỏi kinh hồn...

Từ Sông Bé, Bảy Bầu Cua mang qua năm mươi quân thượng hảo hạng, đầu quân cho Bảy Biển. Biết Hai Lẻ Sáu là đất lành nên Bảy Bầu Cua mua một sào đất làm thổ cư, dựng chòi cho anh em trú khi từ cao xanh về dưỡng quân. Đó cũng là một cách để giữ chân thợ suốt kiếp làm nô bộc cho mình. Bảy Bầu Cua có hai trai và một gái, con trai lớn chết vì rắn độc cắn ở rừng Tân Uyên. Bảy Bầu Cua mang Thành và Xuyến tha phương kiếm cái ăn. Làm cai cho Bảy Biển, Bầu Cua ta lên như diều gặp gió. Thành - con trai Bảy - đạp rừng giỏi thượng đẳng. Năm mươi quân được giao Thành quản lí, lương ăn Bầu Cua lo. Mỗi toán hăm lăm quân ngự trị trong hai cụm rừng. Cái đầu Bảy Bầu Cua thật kì lạ. Hai mươi lăm phần lương ăn cho mỗi kì, Bảy giao mà không cần một mảnh giấy để ghi chép, có biết chữ đâu mà ghi với chép. Vậy mà khi tính tiền, ai lấy chi? Món gì? Cân lượng bao nhiêu, từ lạng cà phê, nửa kí đường, cả ổ bánh mì cho con thằng nầy, thằng nọ Bảy nhớ không sót một li lai. Bảy đọc tới đâu, thợ lật sổ ra y xì đến đó. Nghe danh Bảy Bầu Cua, ai nấy cũng lắc đầu lè lưỡi. Bảy thua Út Tình ở nghệ thuật đong gạo, nhưng hơn Út khoản gian lận qua trí nhớ. Rất nhiều vụ cãi nhau đại loại kì đó tui lấy nửa kí đường sao bà nói một kí? Ê, lộn của tui năm kí gạo rồi má Bảy à... Nhưng đâu ai cãi qua cái mồm loa mép giải của Bầu Cua, đành thôi vậy. Với lại chả đáng gì, thợ tự an ủi mình. Nhưng mà mỗi người một chút, tích tiểu thành dây chuyền, cà rá to đùng chớ chơi sao.

- Hôm đó bả tính lộn của tao một lạng cà phê, có tí rượu tao cãi lại. Thằng Thành nóng mũi đòi thoi tao, bực lên, tao cho nó một chai ba xị vô đầu, máu me tùm lum, tao điểm mặt nói mày là thằng cướp vợ kẻ khác, má mày ăn cướp cơm chim của dân khố rách, mẹ con mày không tồn tại đâu... hề hề hề, tao vác ba lô lên vai ra phà, Út Tình rủ tao vô đây.

- Ông Sông Bé qua, làm cho Bảy Bầu Cua lâu năm, sao bả có cái danh đó vậy?

- Là trùm cờ bạc. Tứ sắc không một ai qua nổi bả đâu, có thể nói hai mươi con bài trên tay, ai đánh đến nước thứ ba là bả đã đoán được rồi, chơi với bả là chết đến bị thương, nhưng tích lũy cả năm, đến Tết cúng lại cho bầu cua. Cờ bạc thua cả nhà luôn, chồng bả tức quá bị tăng xông chết cái rụp. Vậy mà cờ bạc không chừa, lên xứ nầy cũng vậy, ngày nào cũng xòe với vợ chồng Bảy Biển và Năm Tính... Vậy... dzô đi... còn mày đang làm cho Chín Nà sao lại bò vô đây?

- Đù má... Thằng Dũng Heo con rể cha Chín ăn cắp của tao một chai mật ong, tao điên lên đánh nhau với nó một trận, vậy là bai?

- Mật ong đâu mày có?

- Tao đi bắt với Năm Tính.

- Nghe nói Năm Tính siêu đẳng bắt ong hả?

- Khỏi chê hắn ta tiếng nào đi, phải nói hắn gan cùng mình, mày biết không... Bãi Năm Tính có mấy thằng dưới miệt U Minh, kể rằng dưới đó lấy ong bằng cách vào rừng tràm đặt kèo, định hướng gió ngon lành là ong đóng tổ, ta chỉ việc chờ đến ngày thu... Còn ở rừng miền Đông, ong đã dữ thì chớ, còn đóng tổ trên cao cả hai mươi mét.

Hôm đó tao đạp rừng đi kiếm ươi. Gặp được một cây cả hai người ôm, đang phát cho sạch gốc, bỗng nhiên nghe ù ù trên đầu, ngước mặt lên, mẹ ơi, một tổ ong Thế to bằng cả nửa tấm chiếu đang treo trên một nhánh ươi, mày biết đó, ong Thế cực dữ dằn, nghe động gốc cả tảng ong sa xuống vù vù trên đầu, sợ quá tao quăng mình bỏ chạy. Về trại, Năm Tính biểu tao dẫn đến chỗ. Biết chỗ rồi, hôm sau tao, Năm Tính, Út Tình cùng Hoàng Mập đi bắt. Nhìn bộ đồ nghề bắt ong của Năm Tính là biết ngay chuyên nghiệp. Có khoảng năm mươi cây đinh, dài bốn mươi phân, to bằng ngón tay trỏ, được rèn bằng thép lò xo phuộc nhún của Jeep lùn. Năm Tính đeo vô thắt lưng một dây cáp chuyên trèo trụ điện. Cứ vừa tầm chân, Tính nện một cây đinh bằng búa ba kí. Cứ thế Tính trèo lên. Theo tao như vậy thì mình cũng làm tốt, nhưng quan trọng là ong lại không tấn công từ khi bắt đầu đến lúc tàn cuộc. Chỉ với ba cây nhang đại trên tay, Tính quơ đến đâu ong dạt ra đến đó, cái tổ ong đó chỉ lấy một nửa thôi mà được mười lăm lít mật hảo hạng. Năm Tính cho tao một lít, để trong chòi bị Dũng Heo chôm mất, tao khùng lên thoi cho nó một trận. Chia tay Chín Nà luôn.

- Tao nghe nói Năm Tính có bùa lỗ ban, nên giỏi vụ đạp rừng với bắt ong. Theo mày thì hắn ta có bùa thiệt không?

- Thiên hạ đồn thôi. Tại thấy hắn siêu quá. Nghe vậy, Tính cũng im im ra vẻ ta đây có bùa để thiên hạ sợ chơi, sau này Minh Tàn vô bãi mới hay chả có bùa biếc gì ở đây.

- Minh Tàn cặp kè với bà Mai vợ Tư Hòa đó hả?

- Đừng nói hắn cặp với bà Mai đó nghe, không phải đâu, là bà Mai thích Minh Tàn thôi.

- Chồng sờ sờ đó sao lại thích kì khôi vậy?

- Tại Tư Hòa bệnh tật nên thua vụ giường chiếu. Minh Tàn vô bãi tướng tá ngon cơm nên ẻm khoái. Nhưng Minh Tàn đâu có ăn bá láp. Tao thân với Minh nên biết.

- Nói tiếp cái vụ bùa ngải đi.

- Hôm đó đang nhậu. Bọn tao ngồi kể chuyện Năm Tính có bùa Lỗ Ban, sai khiến được âm binh. Có đứa nói âm binh chỉ cho Năm Tính chỗ nào nhiều lồ ô, lại bảo vệ cho khi trèo cây lấy mật. Minh Tàn cười mà rằng: Bùa ngải chi ở đây, trèo cây hai mươi mét tầm cao thì gan một chút là được, còn ong luôn sợ khói, khói đặc biệt một chút thì sợ hơn. Vậy thôi. Lúc đó có mặt Năm Tính. Tính nói khói đặc biệt là khói gì, nếu Minh Tàn gốc ngọn được, Tính sẽ cho Tàn mười lít mật ong.

- Rồi sao?

- Minh Tàn nói tôi chả cần mười lít mật của anh, nếu tôi nói trúng chỉ cần anh chi chầu nhậu này thôi. Tính ta chịu chi luôn hai chầu, muốn gì cũng được. Minh Tàn bảo rằng trước đây hắn ta đi trầm hương. Ba cây nhang đại mà Tính dùng để đuổi ong được trộn bằng hỗn hợp của Hắc Kỳ, Thanh Kỳ và Hoàng Kỳ gọi tắt là Kỳ Nam chung với mạt cưa hoặc lá cây bù lời xay nhuyễn. Ong không thể chịu nổi mùi hương ấy nên tránh. Nghe xong Tính ta tâm phục khẩu phục liền.

- Vậy chả bùa ngải khỉ mẹ gì. Mình Tàn ngu quá, sao không lấy mười lít mật?

- Tao có hỏi nhưng Minh bảo rằng: Làm chi có mật thiệt. Từ trên cây đưa xuống chưa chắc đã thật, nói chi chung độ.

- Vậy sao?

- Ừ. Minh nói Năm Tính hay bất cứ thằng nào đi lấy mật trong rừng mà không gian giảo. Một lít mật giá trị lắm, nó là tinh hoa của núi rừng. Thiên hạ nuôi ong mật, cho ăn đường. Dân ăn ong rừng, mua cả sáp, tàng ong, lén lút đem vô rừng, cũng trèo cây ra vẻ lắm, chiều mang ra toàn mật đường. Ai mua là dính chấu.

- Tại sao Minh Tàn bỏ Chín Nà đầu quân cho Châu Đèo?

- Do vụ giũa cưa.

- Kể nghe coi.

- Thì ông Chín giũa cưa cho thợ ăn công bằng niền. Cứ năm lần giả lấy công một cục, nhưng giả điếm lắm, một cây cưa, mới ba ngày đã làm lại. Minh Tàn là dân chuyên cưa líu nên sành điệu vụ nầy, hắn giũa ngon hơn Chín Nà, lại còn không công cho anh em. Tức quá Chín cự lộn với Minh. Minh Tàn điểm mặt Chín mà rằng: Nè ông Chín, anh em thợ khổ lắm, ông ăn vừa thôi, ăn quá thần rừng bẻ họng ông à. Nói xong vác ba lô qua Châu Đèo. Minh đi, kẻ mừng nhất là Tư Hòa. Hòa sợ vợ mình giao hàng cho Minh Tàn lắm. Khà khà khà, sợ cũng bằng thừa, sau nầy bà Mai giao cho Ba Thế, bỏ Tư Hòa luôn.

- Con Mai nhẫn tâm thiệt, bỏ chồng đã đành bỏ luôn con theo thằng Thế, thiệt là...

- Trách sao được. Em trẻ trung, hừng hực xuân tình, bên thằng chồng liệt vị, phải chia tay thôi. Như mày vợ không làm ăn gì được mày có đi kiếm chị em ta không? Kệ thiên hạ đi. Không hiểu sao, trong số tất cả các cai ở bãi nầy, Châu Đèo và Năm Tính đối xử với anh em thợ điệu lắm, không gian lận tiểu tiết mà Minh Tàn cũng không chơi được?

- Vụ đó hỏi tao nè.

- Biết nói nghe chơi. Tao khoái Minh Tàn, ưng thì anh tôi ngon lành, không ưng cả Bảy Biển nó chửi luôn.

- Châu Đèo không gian lận kiểu Út Tình, Bảy Bầu Cua hoặc Chín Nà, nhưng nó ăn cắp kiểu khác. Minh Tàn đánh cho nó được bốn xe tuyển, hai ngàn sáu trăm cây, lúc ra tính tiền chỉ có hai ngàn cây, mất sáu trăm. Minh Tàn hỏi tại sao? Châu nói lồ ô non bị trừ.

- Đù má... sao ác quá vậy? Ăn vậy còn độc hơn thịt vịt xiêm à.

- Thì tính đi, sáu trăm cây là bốn trăm hai, hai ngàn cây kia mỗi cây một trăm nữa vị chi nó nuốt của Minh Tàn trên chỉ vàng, không riêng Minh Tàn, thằng nào cũng bị hết. Cả niền nó cũng ăn kiểu đó, năm chục cục ra bãi còn bốn lăm. Bữa đó lấy tiền xong Minh bá vai Châu Đèo ra quán vợ chồng Dũng Nương sương suơng ba xị. Minh Tàn điểm mặt Châu Đèo yêu cầu trả lại cái đã bị ăn chặn. Minh quăng con rựa đốn lồ ô ra... đù má... mày chơi với Minh Tàn hồi giờ có thấy cái lưng của nó chưa? Ít cũng năm vết chém. Nó nói, có gan ăn thì phải có gan chém, nếu không trả thì chém nó thêm nhát nữa, nó sẵn sàng bỏ qua... Ê rót tao li coi, mày cầm li hơi lâu à.

- Nè... nốc đi cha, lẹ đi, rồi sao nữa, thằng Châu làm sao?

- Mặt thằng Châu xanh như đít nhái, tao cũng xanh xao luôn. Con Nương chủ quán sợ quá, chạy đi kêu con Đèo. Khà khà khà, vợ chồng nó phải lột vàng chung đủ. Minh Tàn lấy tiền xong kêu mấy nhỏ bán vé số đến mua sạch rồi phát cho mỗi người một tờ. Bữa đó bến phà vui dậy sóng luôn.

- Rồi có trúng số không?

- Trúng gió thì có.

- Minh Tàn đúng chịu chơi. Mà sao nó chém Năm Tính?

- Là do vụ cục nu ở bãi Chòi Ba Mả.

- Sao gọi chòi ba mả?

- Tại ở đó có ba cái mả của bộ đội chết trong chiến tranh. Năm Tính phát hiện một cây gõ đỏ có nu to bằng cái bàn.

- Nu là sao hả mày?

- Là cái bướu trên cây. Nói chung rất nhiều cây có bướu, nhưng quý nhất là cẩm lai, gõ đỏ. Cục nu cây gõ đó ở tầm cao mười mét. Nếu hạ nó kiểm lâm phát hiện được là tù mọt gông. Gỗ nhóm Một là tài sản quốc gia. Cây có nu giá trị gấp một chục lần gỗ thường. Phải bắc giàn giáo cực kì kiên cố để xẻo cục nu. Minh Tàn chịu trách nhiệm bắc giàn, tao theo làm đệ tử. Bắc xong là một chục ngày. Mày biết không, cái giàn đó kiên cố hơn cái nhà mình ở, vì phải có hai người đứng trên độ cao mười mét, dùng cưa để kéo cho nu rơi xuống đất. Công việc cực nguy hiểm. Tao theo với tư cách làm thuê cho Năm Tính. Không một thợ cưa nào triệu tập đến với giá cao mà dám trèo lên, nhiều thằng gan mật cỡ Kinh Kha cũng lắc đầu. Cuối cùng Năm Tính và Minh Tàn ra tay. Cục nu khi lìa thân rơi xuống đất, chỗ rộng nhất tao đo được một mét hai, chỗ hẹp là chín tấc. Bề dày của nó khi ra ván được tám mươi tấm dày tám li. Mày biết mỗi tấm của nó trị giá bao nhiêu không? Trung bình năm chỉ vàng một tấm.

- Ha ha ha, mày quăng cả bom nguyên tử luôn... xạo vừa thôi, chừa chỗ cho anh em xạo với. Ván gì mà một tấm năm chỉ vàng?

- Mày đúng là ếch ngồi đáy giếng. Cả một đời mày thêm đời nữa chưa chắc đã thấy một tấm nu, nên đâu biết thế nào là giá trị. Nó đẹp mê hồn. Tao tin chả một họa sĩ nào, tầm tưởng tượng cao thấu trời cũng không vẽ nổi một bức tranh toàn hảo như mẹ thiên nhiên sau vài nghìn năm tồn tại. Cho mày hay, tao chỉ phụ thôi mà công cán trong hai mươi ngày Năm Tính cho tao ba chỉ vàng.

- Mẹ ơi... Còn Minh Tàn?

- Li kì là chỗ này để cho ra bàn tay của Năm Tính còn hai ngón. Toàn bộ ván được chất dưới Zin ba cầu, bên trên chất lồ ô tuyển. Chiều hôm sau ra phà để lấy phần của mình. Minh Tàn và tao được Năm Tính mời vô quán Tư Hên giải quyết. Năm Tính báo cáo rằng chuyến hàng đã bị kiểm lâm hốt cốt, mất tất cả và xe đang bị tạm giữ. Tính mong Minh Tàn thông cảm cho. Lúc nầy tao mới biết tám mươi tấm nu đó được chia làm tám phần. Giám đốc lâm trường hai. Bảy Biển hai. Năm Tính hai. Minh Tàn một, còn một chung cho bảo vệ rừng. Năm Tính xin Minh Tàn nhận dùm năm chỉ, gọi là bù lỗ, trả công tao ba chỉ. Tính còn nói phải móc của nhà chung, lại than rằng Bảy Biển phải chạy cho cái xe đang nhốt. Còn giám đốc thì phủi tay... Nghe xong Minh Tàn vui vẻ cho qua.

- Vậy nguyên nhân gì nó chém Năm Tính?

- Minh đâu có tin xe bị bắt. Nó rủ thằng Đại tài xế đi xóm cây bã đậu kiếm chị em ta. Cho thằng Đại uống Hennessy với em đẹp nhất cà phê ôm Đường Sơn Quý. Đại bị sa trận mê hồn, Minh Tàn ôm máy ảnh chụp cảnh chàng và nàng đang cụp lạc. Đại phải khai thật vì sao cái xe nằm ở Hạt kiểm lâm. Lúc đó mới lòi ra ván đã được tải đi bằng đường sông, xe nằm trong Hạt chỉ đơn giản là gỗ tạp. Nghe xong Minh tàn cho Đại cả cuộn phim... Khà khà khà, cuộn phim đó mà vào tay con Thắm thì thằng Đại có mà đội chuối khô đi âm phủ, mày biết con Thắm ghen cỡ nào...

- Dẹp ghen tuông lại đi, tiếp cái sự chém dùm cái.

- Sáng đó Năm Tính đang ở trong nhà Bảy Biển. Minh Tàn vào yêu cầu ra nói chuyện. Mày thấy đó, dân bốc xếp niền ở phà đều về phe Năm Tính. Ỷ thế đó nên Tính lớn tiếng thách. Minh Tàn ra tay đấm đá liền, bọn bốc xếp nhào vô binh chủ, ra một trận hỗn chiến kinh hồn. Một mình Minh chiến đấu với năm thằng, nó giỏi võ ác liệt luôn, bất ngờ nó nhảy lên Kamaz đang bốc niền, trên xe có một con rựa, đã giỏi võ, trong tay có thêm vũ khí, bọn bốc xếp lui ra. Có lẽ nghĩ rằng Minh Tàn chỉ hù nên Năm Tính lớn giọng thách chém. Minh Tàn nói, phần của tôi là năm cây, anh chung năm chỉ, còn bốn mươi lăm chỉ anh phải nhả. Nói xong vung rựa chém xuống. Hốt hoảng, Năm Tính đưa tay đỡ, vậy là ba ngón tay giữa, áp út và út của bàn tay phải ra đi. Tính khuỵu xuống. Minh Tàn nhào tới, giật sợi dây chuyền trên cổ Năm Tính rồi ôm rựa nhảy chạy xuống sông, ùm một phát... Nó trôi luôn... Vậy đó, rót tao một li coi... Mày làm cái gì mà thao láo mắt vậy?