← Quay lại trang sách

Truyện 8: Kỷ niệm

Đời cũng lạ, ai có tên cũng muốn sửa sang cho đẹp, Văn Dũng sửa thành Minh Dũng, Thị Hằng sửa thành Minh Hằng... còn đây tự cho mình là Tàn, kì cục không? Có đứa cắc cớ hỏi:

- Tàng là khùng khùng đó hả?

- Bậy mày. Tàn là tàn tạ dung nhan đó con, không phải “Tàng tàng chén cúc dở say” đâu.

Ai da... Đen thùi lùi, ốm nhách, chạy xe ba bánh chở xà bần mà cũng Kiều nầy Kiều nọ. Bụi đường và bụi đời phá ra cười:

- Lượm câu đó ở đâu vậy bố già?

- Sao lại lượm con trai? Đọc mới biết chứ.

Nói xong tóc muối tiêu xưng Minh Tàn ngâm nga vài câu trong Kiều. Cả bốn thằng tre trẻ lắng tai nghe. Một thằng nâng li:

- Được rồi bố, làm một li, lì một lam cho nó lên tinh thần.

Từ trong phòng một trẻ khác, lóc cóc cặp nạng, lê cái chân bó bột:

- Kêu tui hả? Chén đũa của tui đâu?

Già Minh Tàn vuốt bộ ria mép trên gương mặt khắc khổ:

- Đã xi cà que còn chén đũa đũa chén. Nhịn đi, chừng nào tháo bột rồi tính. Bây giờ vô ba sợi, ông bà già mày khép tụi tao tội danh dụ dỗ kẻ thương tật vào sa đọa.

Một trẻ lên tiếng:

- Kệ, cho nó một li đi bố. Xe tông nó còn không chết, ba giọt rượu mùi mẽ gì.

- Thằng Dũng Đen nói đúng đó bố, ngồi đi Phi Long.

Bố già chối:

- Vậy tụi mày uống đi, tao nghỉ.

Phi Long đáp:

- Không có bố thì vui vẻ gì. Thôi, không thì không. Con không uống đâu bố. Ngồi nghe chuyện cho vui thôi. Cả ngày chống nạng đi ra đi vô mỏi mòn luôn. Bữa nay chạy được nhiều không?

Dũng Đen mười chuyến. Thành Bụi mười hai chuyến. Phi Long hỏi:

- Bố già được mấy chuyến?

Minh Tàn quơ chân:

- Chân giò tao như vầy, bảy chuyến là ngon phải không mậy?

Họ cùng hành chung một nghề. Mỗi người một xe ba bánh đạp. Sáng tung đi các ngõ trong phố xá kiếm xà bần ở những nơi giải tỏa, rồi bán lại ở những nơi đang xây dựng. Chiều nào cũng tụ lại trước sân nhà trọ lai rai vài xị giải mỏi.

Phi Long là con chủ nhà trọ, phóng khoáng lắm, ai nó cũng chơi, và không bao giờ để họ chung tiền mỗi khi nhậu. Anh em trọ kẻ đông người tây, ai cũng khoái Phi Long ở khoản điệu này. Và ai cũng sợ khoản ham mê tốc độ của nó. Ông bà chủ cũng vắn dài nước mắt, và... nói thiệt tình, tất cả đều thở phào nhẹ nhõm khi hay tin Phi Long bó bột, là ít ra cũng có được vài ba tháng sẽ không bị dựng dậy nửa đêm vì tiếng nẹt pô.

Phi Long nhìn dĩa mồi:

- Nghĩ sao mà để bố già nhai khô đuối? Tụi nó định cho ông chết đó ông già.

- Kệ, tao mum mum được rồi, đỡ hao mồi.

Phi Long móc điện thoại ra gọi cho quán cháo vịt, nó mở loa để cả bọn nghe giọng của chủ quán cháo “Dạ gồi, nhà trọ Phi Long dĩa lớn thịch dịch, biết gồi”.

Cả bọn cười nắc nẻ.

Thịt vịt về, Phi Long mồi chài:

- Con làm một li nghe bố già?

- Mày mua thịt vịt để dụ tao hả? Ráng kiêng cữ đi, vết thương chưa lành có rượu vô tác hại lắm.

Nói rồi già Minh Tàn vỗ vỗ vào chân của mình:

- Mày thấy cái chân của tao không?

- Bố xi cà que vậy chắc hồi trẻ cũng quậy trăm tám há?

Cười khà khà:

- Trẻ ai cũng có tí lầm lỡ, nhưng tao vì khổ vì thời cuộc. Còn tụi mày sướng quá sinh hư.

Phi Long giơ hai tay lên trời:

- Lại cái câu đó... thôi cho con xin đi bố...

Dũng Đen tiếp lời:

- Bỏ qua cái vụ sướng quá sinh hư, bố kể tụi con cái vụ khổ vì thời cuộc đi. Hồi đó bố không đua xe như thằng Phi Long thì bố làm gì?

- Tao đua ngựa.

Cả ba thằng trẻ cùng há miệng “chà chà chà”.

- Hồi đó lính và gia đình của họ đi hết nơi nầy đến nơi nọ. Đang ở Duyên Hải thuyên chuyển về Tây Nguyên, cứ xà quần như lục bình, chẳng biết đâu là bến bờ.

- Sao không định cư một chỗ mà đi như vậy bố?

- Muốn định cư phải có tiền mua nhà. Đời lính sống nay chết mai, lương lậu không đủ nuôi vợ con, lấy đâu ra tiền.

- Sao con nghe nói thời đó đi lính lương ngon lắm mà.

- Ngon chỉ có vợ con của sĩ quan và hạ sĩ quan làm ở hậu cứ, còn “đơ dem cùi bắp” như ông già thì lương chỉ đủ trám mấy cái miệng. Đơn vị đi đến đâu, vợ con theo đến đó, phải dựng khu gia binh dã chiến cho ở.

- Đi theo vậy nguy hiểm quá bố, lỡ tên bay đạn lạc...

- Thì ráng chịu chứ sao. Hồi đó gia đình tao ở Kon Tum. Lúc đó từ quốc lộ 19 chạy lên An Khê, qua đèo Mang Yang - Pleiku - Kon Tum rừng núi bạt ngàn, cây cối mọc sát ra đến lộ. Ngày nay thằng Phi Long tụ tập đua xe, còn bọn con lính tụi tao hồi đó tụ tập đua ngựa...

- Ngựa ở đâu, bố?

- Của những buôn làng dân tộc thiểu số. Ngày nào bọn tao cũng la cà vô làm quen. Họ dạy cho cưỡi ngựa, bắn nỏ, cho ăn mật ong, Nhưng tao bị thọt không phải tại đua ngựa.

Ngừng, già Minh Tàn uống một hơi, khà, chắc lưỡi. Phi Long gắp vô chén Già Minh một miếng thịt vịt nhiều nạc:

- Tiếp đi bố.

- Thằng Ba Gà là thiên hạ đệ nhất chôm chỉa. Thượng vàng hạ cám, cái gì quy ra tiền là không thoát tay nó. Sau nầy khi Mỹ có mặt ở Kon Tum, nó ăn cắp và tổ chức ăn cắp thần khốc quỷ khấp luôn. Bữa đó bọn tao đang chia phe chơi đánh trận giả ở bìa rừng, chỗ bọn tao thường tổ chức đua ngựa.

Đang chơi, bỗng nghe cùng cùng cùng cùng cùng. Một chiếc HU1B lòng vòng, gió thổi bạt cả cánh rừng. Lần đầu tiên thấy máy bay, lại ngay trên đầu, nó gần đến nỗi bọn tao thấy rõ mấy thằng Mỹ đang ngồi trên đó. Sợ quá cả bọn lủi vô rừng núp dưới mấy gốc cây. Nó quần một hồi rồi hạ cánh. Hai thằng mũi lõ mắt xanh đạp xuống hai cuộn kẽm gai Sẹc ti nai quây thành một vòng tròn rồi tiếp tục bay. Lát sau một chiếc Sinuk câu tới một kiện hàng thả vào trong. Đợi chiếc Sinuk mất dạng bọn tao lục tục bò ra nhìn. Nhìn một hồi, thằng Ba Gà nói “Chắc súng đạn gì đây, chỗ nầy thành lập đồn Mỹ rồi”.

Bàn qua tán lại, mấy bà vợ lính cũng ra coi rồi mạnh ai nấy lôi con mình về. Quay đi, quay lại một hồi thấy thằng Ba Gà vạch kẽm gai chui vô. Cái kiện hàng đó được chằng bởi bốn đai kẽm lá. Khi thả xuống bị đứt một đai, thòi ra một thùng giấy bằng thùng sữa hộp. Ba Gà bưng cái thùng đó ra ngoài. Cả bọn trợn mắt nhìn, không thằng nào dám mó tay, sợ mở ra nó nổ cái “ành” là nhập thiên đường liền. Ba Gà ngẫm nghĩ một hồi rồi đá một phát thiệt mạnh, xong co giò bỏ chạy. Cả bọn hết hồn cũng đâm đầu chạy theo.

Chạy đã đời, ngừng lại vì chẳng có cái gì nổ hết.

Cái hộp bị đá banh càng lòi ra một gói giấy nylon màu nâu và ba hộp thiếc hình tròn. Một hộp dài có chữ B3 UNIT, hai hộp ngắn có chữ B1, B2. Cả bọn chuyền tay nhau lắc. Ba Gà xé gói giấy, bên trong có gói cà phê, gói đường, muối, hai viên kẹo sing gôm, một hộp thuốc lá bốn điếu, một cuộn giấy vệ sinh, có cả diêm quẹt nữa. Quan trọng là cái khui đồ hộp. Nói thiệt tình bọn tao đâu biết khui làm sao. Hồi đó bên Quân Tiếp Vụ cũng có bán nhu yếu phẩm như đường, sữa, thịt hộp, cá hộp, nhưng đâu có sử dụng dao khui.

Sữa hộp thì lấy dao mà đục, còn thịt hộp thì như xé miệng lon bia bây giờ. Tao cầm cái khui, múa đông, múa tây một hồi, đành phải chạy về nhà nhờ người lớn. Bà mẹ nó, đúng là dân ngu nên khu đen, cái đầu cũng đen luôn. Người lớn khui ra, toàn thứ ăn được, lại ngon nữa. Vây là bọn tao phá banh hàng rào, mạnh ai nấy vác. Một kiện “Rasong C” cả trăm thùng, mỗi thùng mười hai hộp, vợ con lính, cả mấy tay lính đang dưỡng quân cũng thi nhau lấy sạch nhách, còn lại bốn cái đai kẽm.

- Hồi đó không ai mua bán phế liệu hả bố?

- Giữa rừng mà mua phế liệu làm gì mậy? Rót tao một li coi.

Phi Long gãi đầu:

- Bộ không ai làm gì sao bố?

- Làm cái gì? Lấy xong là tuồn ra chợ thị xã liền, ai ngu gì để đồ chôm chỉa trong nhà.

- Rồi sau đó thì sao?

- Hôm sau máy bay đổ xuống một tốp lính da đen cùng nọc sắt kẽm gai, búa tạ. Trong một ngày, toán làm doanh trại, toán dựng hàng rào. Một cơ ngơi bề thế dựng lên nhanh hơn sao xẹt. Lại tiếp tục một kiện “Rasong C” khác thả xuống. Lần nầy nó nằm bên trong rào kẽm kiên cố.

Chiều đó ban An Ninh thông báo cho tất cả mọi người không được để con em phá phách hàng rào khu quân sự của đồng minh Mỹ. Họ cho biết bên trong là súng ống đạn dược, ai không nghe lỡ có gì thì ráng lãnh đủ. Còn cảnh báo, đừng đụng vô hàng rào, Mỹ đã bôi chất độc, xước vào tay chân là cắt bỏ. Tụi mày nghe ớn không?

Bọn tao thằng nào cũng xanh mặt. Nhưng thằng Ba Gà không sợ. Thiên hạ đệ nhất chỉa lanh hơn tép. Cả ngày nó đi coi tụi Mỹ làm hàng rào, lợi dụng sơ hở, ăn cắp được cái kềm cắt kẽm. Tối đó Ba Gà mò qua nhà tao rủ đi. Tao sợ bị bắn bể gáo, nhưng Ba Gà nói chắc như đinh đóng cột “Mày đừng lo, lúc bay tới nó trút xuống 14 thằng, lúc tụi nó leo lên máy bay lại tao đếm đủ 14, không còn ai đâu. Mày đứng ngoài cũng được, tao đưa ra hàng rào, mày chỉ việc vác về”. Vậy là hai thằng đội sương đêm ra đi. Đi được một khúc nhìn lại thì thấy từ đánh trận giả đến đua ngựa gần hai chục thằng đang theo sau.

Thằng Ba vác cái kềm cắt kẽm. Nó bén hơn dao cạo, thò vô cắt nghe cụp cụp, đã tay quá nó làm một lỗ rộng dư sức ra vô. Tối mịt mù, sương khuya dày đặc, chỉ có mắt trộm cỡ Ba Gà mới định được hướng. Ba Gà chạy vào doanh trại thăm dò. Đúng là không còn một Mỹ đen Mỹ trắng nào. Vậy là ung dung cắt luôn đai kẽm ràng kiện “Rasong C”. Đợi Ba Gà vác hàng ra là cả bọn xông tới. Hôm sau tụi Mỹ vá lại hàng rào, kéo thêm một vòng Sẹc ti nai xung quanh. Chiều đó Sinuk kéo tới cả hai kiện Rasong.

Lợi thế của Ba Gà là cái kềm cắt kẽm. Nó mà không đưa kềm ra là chịu sầu. Đi mua cũng không có. Thành ra thằng Ba Gà trở thành cục vàng của cả khu gia binh. Trước đây người ta chửi nó bao nhiêu thì bây giờ o bế nó bấy nhiêu. Mấy bà vợ lính thay nhau khen má thằng Ba Gà có phước.

Mười một giờ đêm hôm đó, cả bọn kéo nhau đi. Có cả mấy bà má theo để giữ hàng. Thằng nào vác ra là có người nhà tiếp nhận. Để thể hiện mình là ma cũ, tao xung phong cắt hàng rào.

Hàng rào gai đan mắt cáo ở vòng ngoài. Sẹc ti nai loại có ngạnh cá, bén như lưỡi lam ở bên trong. Khi tao thò kềm vô cắt vòng trong thì “phụt”. Ánh sáng bùng lên, cháy xèo xèo rực rỡ. Sau nầy mới biết Mỹ gài trái sáng. May mà trái sáng chớ lựu đạn thì phơi thây cả chục mạng.

Hốt hoảng tao quăng kềm bỏ chạy. Bên trong doanh trại ba bốn cái đèn pin loang loáng rọi. Tiếng lên đạn lách cách rồi đoàng, đoàng, đoàng... Một phát trúng cái chân này.

Dũng Đen rót đầy ly Già Minh rồi cười cười nhìn cái chân bó bột cứng ngắc của Phi Long:

- Không phải như mày đâu nghe Phi Long, bố là vì miếng cơm manh áo.

Già Minh tợp ngụm rượu:

- Bày đặt an ủi tao hả mậy? Hồi đó tao còn nhỏ, đâu phải lo chuyện cơm áo, thất học suốt ngày lêu lổng, cứ thấy có ăn thì nhào vô thôi. Nhưng cũng nhờ phát đạn đó mà ông già tao sợ có ngày tao bị bể gáo cho nên cấp tốc gởi tao về bà ngoại rồi tao mới được đi học mấy chữ. Đời mấy ai biết được chữ ngờ, hồi đó tao mộng làm thầy giáo đó nghe.

Trút cạn li vô cổ họng, già Minh ngâm:

Ta đã biếu ta niềm bất hạnh

Đong đưa đời trên đỉnh hư vinh

Để bây giờ chí cả bình sinh

Đựng không đầy một li rượu đắng.