← Quay lại trang sách

Chương bốn

Ngồi trên băng ghế gỗ mộc mạc, kê chung quanh miếng đất của đình làng, Clara chờ khai mạc buổi nhảy múa Barong. Nàng nghĩ ngợi rất nhiều về những lễ phục dành cho những người tham dự, chúng được sáng tạo ra từ trong đại đa số dân cư Bali. Biểu lộ từ ngày được sinh ra cho đến ngày chết của họ, cuộc sống hòa vào trong những nghi thức tôn giáo, sản xuất ra đồ cúng tế, những bài kinh kệ và những lời khấn cầu thần linh. Một nụ cười lướt nhẹ trên vành môi, khi nàng nhớ lại giai thoại của Gareth Carter đã kể lại cho nàng, liên quan đến “ngày lành” để khai trương khách sạn của ông ta. Có thể nào người ta gọi một cách đúng đắn đây là sự mê tín của những kẻ theo đa thần giáo được không? ngược lại, họ đã biểu lộ một sự kính phục sâu sắc dành cho xu hướng thần bí, và vào Thế Giới Bên Kia.

Ngay tại hàng ghế đầu, Hugues Nowell và các bạn đồng nghiêp đang bàn bạc với nhau, chắc chắn họ đang bận tâm về một chi tiết trong những câu chuyện thần thoại. Theo như bản chất của nàng, Clara thích được ngồi biệt lập với nhóm bạn đồng nghiệp, tìm cách hòa mình vào trong dân chúng, ở phía sau khoảng trống để dành của khuôn viên. Những tiếng ồn ào rộn lên chung quanh nàng, chúng phát ra từ những tiếng reo vui của trẻ con, những tiếng cười cười, nói nói; và những niềm vui gặp lại nhau của các gia đình trong dịp này. bất ngờ, vị Gamelan, người điều khiển dàn nhạc, gồm có chập choảng và trống cơm Indonésia, bắt đầu diễn tấu. Nín thở, đám đông quay mắt về một cổng lớn được làm bằng cạc-tông, nơi đó đột ngột xuất hiện vị thần Barong, cùng với người đồng hành xấu xí – chuyên nhại lại những cử chỉ của vị thần này - họ diễn rất thực. Trăng sáng vằng vặc tỏa xuống trên mọi vật bằng những tia sáng huyền ảo. Góc đối diện với sân đình làng, mái nhọn hoắt của một ngôi đền tỏa sáng những mảng nghiêng nghiêng vào trong màn đêm. Nàng cũng bị những điệu nhảy múa này lôi cuốn theo, giống như những người dân làng đang đứng bên cạnh nàng, những người dân nghèo và những kẻ mù chữ, Clara la lên vì sợ rồi thở mạnh vào thật sau, không rời mắt khỏi hai hình dáng khổng lồ đang nhảy múa vận động, kêu gào, băng ngang ngọn lửa, và nàng cũng bị mê hoặc, thôi thúc bởi những nhịp trống dồn dập. Dần dần, nàng không còn nhận thức được thời gian và không gian nơi nàng đang hiện diện, và cũng không quay mặt một nhân vật vừa đến ngồi xuống bên cạnh nàng.. Lòng cảm hứng của nàng tăng lên đến mức không còn nhận ra được thực hư trước những điệu múa kỳ ảo của Barong. Quên đi sự dè dặt, nàng la lớn:

-Làm sao tôi dám ngờ là sinh vật này không hiện thực? Tôi ngưỡng mộ sự hóa trang khéo léo của hai diễn viên này. Tôi hy vọng Hugues có thể lột tả được buổi biểu diễn này trong quyển sách của ông!

Bất ngờ, qua khóe mắt, nàng nhận ra Charles đang ngồi cạnh nàng. Đôi má nàng ửng đỏ lên, và nàng cảm ơn ánh sáng lờ mờ đã che giấu sự bối rối của nàng. Vừa quay qua, nàng vừa xin lỗi:

-Em không nhìn thấy anh, em cứ ngỡ chỉ có một mình…

Chàng không một mảy may nào tỏ ra cử chỉ phê phán. Chỉ có sự hiện diện của chàng làm hỏng nỗi vui thích của nàng, nàng ra nhận ra điều ấy khi biết có mặt chàng bên cạnh trong buổi diễn. Nhưng tại sao nàng lại thừa nhận chàng có vai trò quan trọng như vậy chứ? Nàng đã quá hiểu người đàn ông gầy gò và day dứt này, không còn và mãi mãi không còn đóng vai trò gì nữa trong đời sống của nàng, từ khi họ gặp lại nhau. Bởi vì lý do gì chàng đến dự ngày lễ này? Chắc có lẽ chàng đã thấy nàng nhiều lần và nhiều lần? Có thể sự cô độc đè nặng lên con người của chàng suốt buổi tối, khi những gót chân của chàng khua vang lên giữa tòa nhà rộng mênh mông và trống vắng…Bất ngờ chàng hỏi:

-Tại sao cô không ngồi chung với các bạn đồng nghiệp của mình, ngay hàng ghế đầu? Cô thích ngồi riêng một mình à?

Ngạc nhiên, Clara lắc đầu phủ nhận:

-Không, không đúng như vậy đâu…

Charles liếc nhanh mắt nhìn nàng, sau đó lại quay lên sân khấu. Một sự im lặng nặng nề đè nặng lên trên quần chúng tham dự. Vị thần Rangda - vị hung thần xấu xí – hình như sắp sửa giành được chiến thắng về phần mình. Tự mãn, vị này vui mừng la hét bằng những nụ cười khành khạch thuộc về thế giới bên kia, móng vuốt dài thượt của vị ấy cong khoằm, bấu chăt vào cổ đối thủ của mình. Bị bủn rủn, khán giả nín thở. Nếu vị thần đạo đức này bị thất trận, làng mạc của họ sẽ chịu đựng những thói nhiễu loạn của vị hung thần Rangda, những tai ương không thể tưởng tượng nổi sẽ đeo đuổi họ.

Clara tự nhủ:

-Không thể tin được!

Nàng ngạc nhiên thán phục niềm tin của quần chúng. Họ đã thường tham dự - kể từ lúc còn rất bé – vào tình tiết câu chuyện này. Vậy mà, vào lúc này, họ vẫn luôn lo ngại điều thiện không chiến thắng nổi điều đó. Một nhóm nghệ nhân múa, trang bị bằng những thanh kiếm dài, bất ngờ lạo vào giải cứu cho người thầy của họ, vị thần Barong. Nhưng thế lực của Rangda rất lớn, sử dụng đến trò ma thuật, để đánh nhào họ, khiến họ bắt đầu tự đâm vào thân thể mình bằng những thanh gươm của họ. May mắn thay, người phù hộ của họ đã làm cho da thịt họ trở nên rắn chắc, khiến cho những lưỡi kiếm sắc bén không thể xuyên qua được. Nghiến răng, xấu hổ, vị hung thần hối hả mở một con đường rút lui.

Clara la lên:

-Sao…những người này không có ai bị thương à?

Bình tĩnh, Charles báo cho nàng biết:

-Họ đang ở trong trạng thái nhập hồn.

-Nhập hồn à?

-Hẳn vậy rồi. Cô quá biết chuyện này rồi, nhờ vào các công trình của các vị đó – các bạn của cô và cô đó.

-Vâng, dĩ nhiên, và em và họ có trao đổi với nhau về vấn đề này, nhưng … em không thể tin nó có thực…

-Nếu cô sống tại Bali, cô sẽ hiểu ngay chuyện đó xảy ra rất bình thường, cũng như nhiều chuyện khác, chúng cũng không kém phần quái đản…

Clara không quan tâm đến những điều Charles vừa cho biết cũng như vừa hướng dẫn, nàng không còn thấy hào hứng để tiếp tục câu chuyện. Trên sân khấu, nhà sư rẫy nước phép vào những người biểu diễn, để đưa họ trở về trạng thái bình thường. Tiếp theo đó, ông tiến hành dâng tế một con gà mái tơ đang sống lên bàn thờ, rồi tuyên bố chấm dứt buổi diễn. Đám đông dân làng từ từ rút lui. Trong nhóm của nàng, Hugues và các bạn cộng sự, bình luận một cách hăng say về buổi tham dự này. Họ từng bước, đi xa dần, nhưng Clara không một chút động đậy. nàng không hiểu được ai là người đã cầm giữ nàng lại trên chiếc ghế này, bên cạnh Charles. một nỗi buồn sâu thẳm và không hiểu được từ từ choán lấy tâm hồn nàng. Sau những tiếng cười và sự náo nhiệt của sân khấu, đời sống riêng tư của nàng hầu như là một cánh đồng ủ dột âm u… Mặt trăng bị che khuất sau một đám mây, trong chốc lát, đã làm cho bóng tối trở nên dày đặc hơn. Qua khóe mặt, nàng dò xét ánh mắt nhìn nghiêng khắc khổ của vị hôn phu cũ của mình, rất khó phân biệt được trong đêm tối. Một sự rùng mình chạy khắp người nàng. Hiện tại, nếu bị làm vợ người đàn ông này, thì đối với bất kì người phụ nữ nào cũng sẽ cảm thấy đó là địa ngục, kể cả người ít bị xúc động nhất… Cảnh giác về sự im lặng và bất động của nàng, chàng xoay người về phía nàng, ánh mắt họ gặp nhau. Những nếp nhăn hằn ngang trán chàng, giống như dấu vết của một cái chùy để lại trên tảng đá thạch anh rất cứng rắn. Nét mặt của chàng phản ánh một sự thù hiềm to lớn hơn bình thường. Mặc dầu vậy, họ cùng ngồi chung với nhau trên một băng ghế, thật gần, và trong lúc này không còn một khoảng cách nào chia cắt họ, nhưng, quá khứ không còn đáng tin cậy nữa. Chàng suy nghĩ về một cô thiếu nữ ngày xưa, xa vắng. Tâm hồn của họ chẳng nhìn thấy nhau, và bản thân Clara là nạn nhân của sự bối rối khủng khiếp, Charles biến mất đâu rồi, Charles thật đấy chăng?

Bắt ngờ chàng hỏi bằng một giọng hoàn toàn khác lạ:

-Tại sao cô không đi đi?

-Dạ em? Em xin lỗi, em đang suy nghĩ…

-Về cái gì?

Câu hỏi quất mạnh vào nàng như một ngọn roi vào trong sự im lặng.

-À, …Nghĩ về những điệu múa Barong – Nàng nói dối, cụt ngủn.

-Thật hả? Ồ, đúng là yêu nghề! Cô sẽ đem quan điểm của mình ra so với các bạn đồng nghiệp chứ?

-Đúng vậy, Hugues sẽ rất thích thú được góp nhặt các ý kiến của các cộng sự của ông ta.

Bị bối rối, nàng đứng lên và bồn chồn tìm cách chạy chữ để có thể cáo lui. Sau cùng, nàng hỏi:

-Anh còn ngồi lại đây hả?

Nhưng nàng lại không muốn rời bỏ chàng – trên nơi hoang vắng này - đối diện với những pho tượng kỳ quái đen nhánh có những chiếc răng dài thượt, và đang trong vẻ dữ tợn. Chàng không trả lời. Mặt trăng lại chiếu sáng đôi má hốc hác của gương mặt xanh xao đó. Không thể tránh khỏi, nàng so sánh chàng với những người đàn ông mà nàng đã có dịp quen biết; so sánh giữa những người mà nàng đã thề nguyền trung thành với những kẻ đã cầu hôn nàng hàng chục lần mà vẫn bị từ chối. Hiện tai, Charles không còn gì để cho nàng chấp nhận lấy làm chồng nữa, dẫu cho chàng có van xin.

Nàng ngập ngừng mở lời:

-Anh ở lại đây một mình nghe? À, em chúc anh ngon giấc…

Chàng chậm rãi gật đầu, giống như có cả một sức nặng to lớn đè lên đôi vai. Chàng chào lại nàng bằng một giọng mệt mỏi:

-Xin chào.

Clara đứng bất động trong một hồi lâu, hy vong nhìn được ánh mắt của chàng. Nhưng chàng cứ khăng khăng nhìn chằm chằm xuống đất, nàng đành phải bước đi. Nàng băng qua sân đình làng từng bước chậm rãi, sau đó, trước khi hòa mình vào trong bóng đêm, nàng quay lại một lần cuối cùng. Charles vẫn ngồi bất động, hình dáng cô độc, chàng trầm mặc trong đêm tĩnh mịch.

Họ không gặp nhau suốt tuần lễ kế tiếp. nhưng, Clara suốt ngày đều nghĩ đến chàng. Nàng tự hỏi cách nào chàng sống cho hết thì giờ trong những chuỗi ngày dài của mình. Vào một buổi chiều, Hugues Nowell cử một mình nàng đến làng Batubulan. Những ngôi đền của làng này đều có ghi tên trong danh sách những ngôi đền đẹp nhất và cuốn hút nhất trên đảo. Nàng nhận nhiệm vụ tham quan, và ghi chú được càng nhiều càng tốt, về những cách trang trí, và lối kiến trúc của chúng. Nàng gọi một chiếc taxi, rồi thoải mái dựa lưng vào chiếc gối dựa của chiếc xe hơi Mỹ cũ kỹ, chú ý quan sát những phong cảnh nối đuôi nhau, phản chiếu trong tấm kính chiếu hậu. Những phụ nữ trong những chiếc váy xarông nhiều màu sặc sỡ, nhưng hài hòa, đội nón cổ truyền hình tháp trên đầu, đi trên bờ ruộng lúa xanh mềm mại, ẻo lả. Một con chó becgiê, chạy theo một bầy vịt hàng trăm con, băng ngang đường.

Cuối cùng, họ đến được ngôi làng. Nàng vui vẻ hướng dẫn tài xế đi theo lộ trình của mình, và lái thẳng đến ngôi đền đầu tiên, ngôi đền Para Dalem.

-Sự trừng hợp kỳ lạ…chúng ta bị buộc phải gặp nhau mọi nơi…

Nàng quay mặt lại ngay. Gương mặt của nàng đỏ run lên dữ dội:

-Charles…Anh làm gì ở đây?

Cuộc gặp gỡ tình cờ này đã không đem lại cho nàng một chút hài lòng nào. Thói ngạo nghễ cộc cằn của vị hôn phu cũ đã không giảm bớt chút nào, kể từ khi họ gặp nhau lại lần đầu tiên.

Bằng một giọng cộc lốc, chàng cho nàng biết:

-Tôi có những người bạn trong làng này, và tôi đến thăm họ. Còn về phần tôi, tôi đã không hạch hỏi cô, cớ sao cô lại hiện diện nơi đây?...Cô đã được người chủ cử đi do thám những việc làm và những hành động của người Bali hả?

Nàng cãi lại:

-Tuyệt đối là không! Dĩ nhiên Hugues có cử tôi đi đến đây, nhưng tôi, như một người khách du lịch bình thường, tôi không nhìn và cũng không nghe thấy gì ngoài ra...

Charles nhếch môi vừa khinh khỉnh vừa hoài nghi, không tin. Không bao giờ nàng có thể tưởng tượng mình có thể thấy trên gương mặt của người yêu ngày xưa một vẻ ti tiện như vậy. Nhưng cuộc đời và những thử thách đối với chàng đã rõ ràng hủy hoại toàn bộ tính cách hào hiệp và tốt lành căn bản của chàng, không còn gì có thể cứu vãn được nữa!

Chàng truy đuổi tới tấp:

-Cô đi dò xét, lục lọi tất cả mọi hóc hẻm của hòn đảo này, cứ như là chưa bao giờ nghe nói về nó. Rồi một quyển sách sẽ được viết ra, ca ngợi những vẻ đẹp của nó, và ngấm ngầm khích lệ những kẻ sáng lập địa ốc sẽ xây dựng ngay tại đây những khách sạn, những khu ăn chơi, siêu thị; tôi còn biết tới gì nữa kia. Và rồi Bali sẽ bị hủ hóa một cách dễ dàng, và sẽ không thể nào quay trở lại được…

Chàng dằn từng lời, đôi mắt quắc lên giận dữ. Tuy cũng chia sẻ những lo ngại về việc bảo tồn Bali, nhưng Clara không thể không gay gắt trả lời bài thuyết giáo chối tai này:

-Chính anh cũng là một chủ nhân khách sạn, một cái hang động dành cho du khách, Charles…

-Khách sạn Kapalan rất bé nhỏ, và chỉ tiếp nhận những con người khao khát sự yên tĩnh và cảnh đẹp thiên nhiên, những con người không đánh giá cao vẻ hào nhoáng và những trò tiêu khiển đương thời.

Khiếp sợ trước vẻ hung hăng của chàng, Clara thấy tốt nhất không nên tiếp tục đề tài này nữa. Nàng rút ra từ trong túi xách của mình một cây viết chì và một quyển sổ tay; nàng bối rối giải thích trước sự im lặng nặng nề của người bạn:

-Em chỉ cần phải miêu tả những nét nổi bật căn bản về nghệ thuật điêu khắc. Sự khéo tay và trí tưởng tượng của những nghệ nhân Bali thật là nổi danh trên toàn thế giới…

Gương mặt của Charles nở một nụ cười méo mó. Không biết vì sao chàng đã đối xử với nàng một cách cao ngạo và nhầm lẫn như vậy? Chàng trách nàng về điều gì chứ? Chắc chắn một điều là chàng chẳng hề nhận thấy sự trìu mến và lòng tôn kính nhẹ nhàng của nàng… Nhận thức này làm thương tổn nặng nề cho nàng, mặc dù nàng không còn nghĩ đến việc gắn bó với chàng nữa, nhưng dù sao, nàng cũng đã mang trong tâm hồn những kỷ niệm về một tình yêu say đắm trong tám năm trời ròng rã. Nàng cúi đầu che giấu những xúc động đối nghịch đang dằng xéo trong tim. Không một lời, chàng quay gót và bắt đầu bước ra xa. Nàng tức tưởi gọi:

-Charles!

Chàng dừng lại đột ngột và quay mặt đối diện với nàng; nàng thầm nói rất nhanh:

-Anh có thể giúp em ít điều hiểu biết về ngôi đền này không? Em sẽ rất biết ơn anh về việc này…

Mặc dù không định nhưng giọng nói của nàng vẫn mang âm hưởng nài xin. “Tại sao?”, nàng thầm trách mình, “Mình yêu cầu chàng hỗ trợ sao?”. Chỉ giây phút trước đây, chính nàng đã sốt ruột mong chàng bỏ đi, nhưng khi chàng vừa cất bước, nàng lại cố níu kéo chàng ở lại bên cạnh nàng…

Chàng cật vấn cộc lốc:

-Cô muốn biết cái gì?

-À…Vai trò chính của ngôi đền này là những gì?

Trước sự ngạc nhiên của nàng, Charles lại tỏ ra không lẩn trốn hoặc tránh né những lời giải thích thô kệch và tầm thường, ngược lại, chàng có vẻ sẵn lòng nói cặn kẽ về những bí ẩn của tôn giáo người Bali. Biết đâu, đây lại không là cách chàng giải khuây nỗi lòng cô độc của chàng?... Xúc động, Clara quan sát chàng, bên cạnh lòng thương cảm, nàng nhận thấy mình được một sự an ủi khó tả về việc không còn sự liên hệ với người đàn ông bí ẩn đang bị một gánh nặng hối tiếc đè lên. Chàng nói một cách chậm rãi, chọn lựa từng chữ, và nàng khó mà làm quen được với giọng nói tách bạch chi li, trong khi tai nàng còn vang vọng giọng nói quyến rũ trầm ấm và dịu dàng của chàng...

- Có lẽ cô cũng đã biết rằng một ngôi làng, luôn luôn có ít nhất ba ngôi đền, dĩ nhiên là không tính đến những bàn thờ tại các gia đình. Còn như nếu có một dòng suối hay một dòng sông chảy ngang qua nó, thì ngôi đền thiêng liêng thứ tư sẽ được xây dựng ngay trên cạnh bờ, để thờ những vị thần sông nước. Đối với người dân Bali, họ cần phải có một sự giao lưu thường nhật với những vị thần họ sùng bái. Đức tin của họ rất lớn và những lễ vật của họ nhằm mục đích để tạ ơn hoặc làm nguôi cơn giận của các vị thần.

Clara thích thú cắt ngang:

- Đúng vậy, nhưng tôn giáo này cũng mang những màu sắc huyền bí. Đồng thời họ cũng tin tưởng một cách tuyệt đối vào các tay phù thủy và các yêu tinh...

- Đúng. Trong suốt những đêm không trăng, có những con chó thường hay sủa bóng ma người chết, và sáng hôm sau, có một người trong bọn họ sẽ kể lại sự xuất hiện của một cái đầu lâu khổng lồ, một con khỉ răng vàng hoặc một quái vật có những con mắt đỏ như cục than hồng xuất hiện ở bìa rừng...

Chàng nói với một thái độ rất nghiêm trang. Clara không dám để lộ ra sự hài lòng. Rõ ràng, chàng kính nể niềm tin của dân tộc này, dân tộc đã tiếp nhận chàng một cách nhiệt tình. Chàng yêu thích và hiểu rõ tính cả tin ngây thơ, xét cho cùng thì cũng rất đáng yêu, tính chất này là đặc điểm của họ từ rất lâu đời. Sau một hồi trầm ngâm im lặng, chàng xoay về đề tài thần Leyaks – một vị thần lang thang. Vị này tựa như ma cà rồng của vùng Trung Âu, chúng chuyên hút máu những người ngủ say và bắt cóc trẻ con để chuẩn bị cho một đêm yến tiệc thịt người.

Nàng tiếp tục hỏi thăm Charles:

- Những Leyaks này tiếp nhận rất nhiều lễ vật. Ngay cả những người trung tín cũng tin rằng điều đó sẽ làm thay đổi được dục vọng của các vị này nhắm vào con cái của họ...

Một nụ cười ngắn ngủi đột nhiên làm gương mặt chàng rạng rỡ; Clara nín thở, trong khoảnh khắc, một sự rung động làm sống lại tình yêu thưở trước của nàng, làm cho nó hồi sinh trong chốc lát rồi cũng đột nhiên như một tiếng vang, thực tại nặng nề khép kín lại tiếng kêu xa vắng ấy.

Charles tiếp lời.

- Dĩ nhiên, tôi không thể xác định là không có, ngoại trừ chính những người dân Bali đó, họ không bao giờ gặp một trong những con quái vật này vào lúc màn đêm buông xuống...

Clara hỏi:

- Tất nhiên... Mong anh giải thích về những sự mê tín này, chúng như thế nào, Charles?

- Tôi không cố để giải thích chúng. Tôi tiếp nhận nó. Tôi thấy hình như làm vậy là bất công trong việc phê phán, trong khi chúng ta chỉ là những người ngoại quốc, ở đây..

Clara cúi đầu, ân hận vì đã làm phật lòng chàng, đồng thời lại thấy bị chạm tự ái vì sự cự tuyệt thẳng thắn đó. Nàng không muốn bị đánh đồng như một nữ du khách thô lỗ, không hiểu biết và kính nể những truyền thống của đất nước đã ân cần tiếp đón nàng. Nàng hơi xẵng giọng chân ngang lời nói của chàng:

- Được rồi, em cám ơn anh, những thông tin của anh sẽ rất đắc dụng đối với em. Xin chào và rất cảm ơn anh.

Chàng gật đầu ngắn gọn đáp lại, rồi sải bước ra hướng cổng chính của ngôi đền, không một lần ngoái đầu lại. Clara lặng yên đưa mắt dõi theo, chết lặng. Nàng muốn biết ai đã dẫn chàng đến ngôi làng này. Những người bạn của chàng là ai? Những kẻ giàu sang hay là những người nông dân hèn mọn? Không thể nào đoán ra được... Một sự bí ẩn mịt mùng bao trùm lấy người đàn ông này, và nó không bao giờ hé mở ra cho nàng. Nạn nhân của nỗi sầu muộn, Clara tựa người vào chiếc cột của gian giữa ngôi đền thờ. Tại sao số phận cay đắng cứ mãi đeo đuổi nàng? Nó đã đền bù gì cho nàng sau tám năm trời ròng rã kiên tâm chờ đợi, một sự thực tàn nhẫn? Thở dài não nuột, nàng cắn răng quyết từ bỏ những ý nghĩ đau buồn này, đi về phía cuối đền, nơi có những hình nhân chạm trổ phi thường. Nàng ghi chép, chuẩn bị cho một báo cáo cho Hugues Nowell, hết sức chăm chú vào công việc của mình. Thời gian và sự ẩm thấp của khí hậu đã phủ mờ những lớp rêu phong lên bộ mặt nhăn nheo của những tượng thần bằng gỗ chạm trổ. Những lễ vật hoa quả bày ra ngay dưới đất trước các tượng thần, trên những cánh lá cọ to lớn. Đối diện với những bàn thờ, là một cái cửa có hai cánh rộng mênh mông, để cho ánh sáng mặt trời rọi sâu vào tận bên trong, nơi đây những nụ bông sứ tỏa ngát hương thơm ngọt ngào. Một nhà sư già, gương mặt nhăn nheo đen nhẻm, đang dâng những bát cơm ngát mùi gia vị lên những vị thần kém quan trọng hơn. Khi Clara bước đến gần ông ta ngước đầu lên và mỉm cười thân mật với nàng, không một con chim nào dám lợi dụng giây phút lơ đễnh này để đánh cắp vài hạt cơm và bay đi.

Nàng chào ông ta:

- Xin chào.

Vị sư già đưa tay chúc phước nàng. Nàng chú ý đến đôi tay và chiếc cổ gầy khẳng khiu của ông. Đời sống quá khổ hạnh của ông cũng như các đồng đạo phải chịu đựng là để phục vụ cho việc dâng cúng tại ngôi đền... Thống kê đã chứng minh cho thấy, người dân Bali công nhận có quá nửa những người gầy yếu của họ là do hậu quả của việc cung cấp kinh phí cho những ngày lễ hội, nghi thức và lễ vật tôn giáo. Nhưng không một ai có thể ngăn chặn được những chi tiêu khổng lồ này, để lo cho một nơi ăn chốn ở được tiện nghi hơn... Với một vẻ tò mò hiền hòa, nhà sư thăm hỏi Clara, xem nàng hiểu được gì qua các cuộc nói chuyện nơi khách sạn hoặc với các trẻ con trên bãi biển. Trước hết nhà sư già muốn biết rõ nơi nàng đang nghỉ trọ. Clara trả lời:

-Tại khách sạn Bali Beach. Ông có biết Sanur không?

- Có. Tôi cũng biết cả khách sạn Kapalana và người chủ của nó nữa...

- Thật chứ?

- Ông Millard có cảm tình nồng hậu với một đứa con gái của một người bạn của tôi và...

Nhà sư đột ngột bỏ lửng câu nói, nhíu mày chìm đắm vào suy nghĩ. Clara không dằn được tính tò mò, nàng dò hỏi, nín thở:

- Ông Millard và tôi là hai người bạn cũ với nhau. Chúng tôi đã từng... quen biết nhau tại Anh quốc, khi ông ta còn sinh sống tại đó. Người con gái mà ông vừa nói... có phải là một phụ nữ Bali không?

Nhà sư từ từ gật đầu trả lời:

- Phải. Tên cô ta là Nimade và sắc đẹp của cô ấy đã từng làm cho cha mẹ cô ta hãnh diện. Cô ta chỉ mới 18 tuổi... Nếu ông người Anh này muốn cưới cô ta làm vợ, ông ấy phải đợi chờ.

18 tuổi... Một đợt sóng kỷ niệm nổi lên trong lòng Clara. Nàng đã đính hôn với Charles đúng vào độ tuổi này...

Nàng dịu dàng hỏi tiếp nhà sư:

- Ông ta đã dạm hỏi Nimade làm vợ chưa?

Sự ngạc nhiên đã chuyển thành sự tò mò đơn thuần trong lòng nàng, thật khác xa với

lòng ghen tuông. Charles đã chịu từ bỏ đời sống cô độc đeo đuổi chàng đã quá lâu. Tất cả mọi việc đều tốt lành. Có thể sự dịu dàng của cô vợ trẻ này sẽ đem lại cho chàng niềm vui thú với cuộc sống.

Nhà sư trả lời:

- Không, nhưng cô ta lại rất say đắm ông ấy. Tôi không nghĩ là cha mẹ của cô gái này từ chối, nếu ông Millard thật sự ngỏ lời cầu hôn.

Một giờ sau khi đi thăm thêm hai ngôi đền khác, Clara quay trở về. Trong chiếc taxi lướt nhanh trên con đường về Sanur, nàng hồi tưởng lại những điều nhà sư vừa tỏ lộ ra cho nàng. Nếu như Charles cưới cô gái Bali làm vợ, chàng sẽ đối xử với cô ta như thế nào, trong khi cô đó hãy còn là một đứa trẻ con? Chàng có tránh né được thái độ dữ dằn và sự hung bạo thường lộ ra trên gương mặt đối với cô gái đó hay không?

Nàng hất đôi vai với một vẻ mặt kiên nhẫn. Tại sao nàng lại phải quan tâm đến đời sống riêng tư của một người đàn ông đã không còn muốn liên hệ gì với nàng nữa? Nàng đến Bali chỉ để làm việc, và nàng quyết định sẽ chỉ công nhận công việc nghề nghiệp để phục vụ cho tương lai.