← Quay lại trang sách

- 14 - 66

Megan Sixsmith ngồi trên một băng ghế thấp trong Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Buenas Yerbas, nhìn chăm chú vào một bức họa chân dung khổng lồ vẽ gương mặt một bà già trông như gấu, ngẫm nghĩ về những đường nét xám và đen trên nền vải trắng. Là bức tranh vẽ người duy nhất trong một căn phòng đầy tranh của Pollocks, de Koonings và Miros, bức chân dung gây sửng sốt một cách lặng lẽ. “Hãy nhìn,” bà ta nói, “vào tương lai cô. Khuôn mặt cô một ngày nào đó cũng sẽ giống ta,” Megan nghĩ ngợi. Thời gian đã đan lớp da của bà ta thành những mạng nhện nhăn nheo. Cơ thịt chỗ thì chùng xuống, chỗ lại căng ra, mi mắt sụp xuống. Sợi chuỗi ngọc trai của bà ta hẳn thuộc loại thứ phẩm, còn mái tóc thì rối bù, hậu quả của một buổi chiều đi gom lũ cháu về. Nhưng bà ta thấy những điều mà mình không thấy.

Một cô gái trạc tuổi ngồi xuống cạnh cô. Cô ta cần được tắm rửa, thay quần áo. “Megan Sixsmith?”

Megan liếc nhìn sang bên. “Luisa Rey?”

Cô gật đầu về phía bức tranh chân dung. “Từ trước đến giờ tôi vẫn luôn thích bà ấy. Bố tôi đã gặp bà, ý tôi là ngoài đời thực ấy. Bà là một người sống sót sau thảm họa diệt chủng, đã đến định cư ở BY. Mở một nhà trọ ở Little Lisbon. Bà là chủ nhà của họa sĩ, trước khi ông ta nổi tiếng.”

Lòng can đảm mọc lên ở bất kỳ đâu, Megan Sixsmith nghĩ ngợi, như cỏ dại.

“Joe Napier nói cô mới bay đến đây hôm nay từ Honolulu.”

“Ông ấy có ở đây không?”

“Người ở sau lưng tôi, mặc áo jean, đang giả vờ xem tranh của Warhol đấy. Ông ấy đang canh chừng cho chúng ta. Tôi e rằng nỗi lo sợ của ông ta là rất có căn cứ.”

“Vâng. Tôi cần biết cô chính là người mà cô đang tự nhận.”

“Tôi rất vui khi nghe điều đó. Cô có ý tưởng gì không?” Bí ẩn đầu tiên về Luisa Rey

“Chú tôi thích nhất bộ phim nào của Hitchcock?” Cô gái tự xưng là Luisa nghĩ ngợi một lúc, rồi mỉm cười. “Chúng tôi có nói về Hitchcock trong thang máy – tôi đoán là ông ấy đã viết thư kể cho cô chuyện này – nhưng tôi không nhớ ông có nói tên bộ phim yêu thích hay không. Ông thích đoạn không lời trong Vertigo, khi Cary Grant theo gót người phụ nữ bí ẩn đến bến tàu với cảnh nền là San Francisco. Ông cũng thích xem Charade – tôi biết đấy không phải là phim của Hitchcock, nhưng nó làm ông thấy buồn cười, vì cô gọi Audrey Hepburn là đầu bong bóng.”

Megan ngả người ra ghế. “Phải, bác tôi nhắc đến cô trong một tấm thiệp do ông gửi từ khách sạn sân bay. Nó rất căng thẳng, và đáng lo, đầy những đoạn như ‘Nếu có chuyện gì xảy ra với chú’ – nhưng đó không phải là thư tuyệt mệnh. Không gì có thể khiến bác Rufus làm điều mà cảnh sát nói. Tôi biết chắc như vậy.” Hãy hỏi cô ấy, và cố đừng run rẩy nữa, vì Chúa. “Cô Rey – cô có nghĩ rằng bác tôi đã bị ám sát không?”

Luisa Rey đáp, “Tôi được biết ông đã bị hại. Tôi rất tiếc.”

Sự quả quyết của cô nhà báo xóa tan ngờ vực. Vậy là không phải mình đang bị điên. “Tôi biết về công việc bác ấy làm cho Seaboard và Bộ Quốc phòng. Tình hình là tôi chưa từng xem toàn bộ bản báo cáo, nhưng tôi đã kiểm tra số liệu của nó khi tôi thăm bác Rusfus hồi tháng Sáu. Chúng tôi hiệu đính tài liệu cho nhau.”

“Bộ Quốc phòng à? Ý cô không phải là Bộ Năng lượng sao?”

“Quốc phòng. Một sản phẩm phụ của lò phản ứng HYDRA-Zero chính là uranium dùng để sản xuất vũ khí. Chất lượng tối ưu, nhiều vô kể.” Megan để cho Luisa Rey tiếp thu những ẩn ý mới này. “Cô cần gì?”

“Công trình của ông cô. Bản báo cáo, chỉ có bản báo cáo, mới có thể đánh bại Seaboard trước công chúng và pháp luật. Và, nhân tiện, cứu mạng tôi.”

Tin người lạ này hay đứng dậy bỏ đi?

Một hàng rồng rắn học sinh xúm lại quanh bức chân dung người đàn bà. Megan thì thầm, nhỏ hơn giọng thuyết trình của người phụ trách bảo tàng, “Bác Rufus cất toàn bộ tài liệu học thuật, dữ liệu, ghi chú, bản nháp, vân vân trên Starfish – chiếc du thuyền của bác ấy– để tham khảo về sau. Đến tuần sau chúng tôi mới cử hành tang lễ, việc chứng thực di chúc sẽ chưa bắt đầu cho đến lúc đó, vì vậy nơi cất giấu này chắc là vẫn chưa bị sờ đến. Tôi dám cá là bác cất một bản báo cáo trên thuyền. Người của Seaboard hẳn đã lục soát chiếc thuyền, nhưng bác ấy có nguyên tắc là không nhắc đến Starfish ở nơi làm việc...”

“Bây giờ chiếc Starfish đang neo ở đâu?”

67

MŨI YERBAS MARINA ROYALE

TỰ HÀO LÀ QUÊ HƯƠNG CỦA PROPHETESS

CHIẾC THUYỀN BUỒM ĐƯỢC BẢO QUẢN TỐT NHẤT THẾ GIỚI!

Napier đỗ chiếc Ford thuê cạnh câu lạc bộ thể thao, trước đây là nhà thuyền. Những ô cửa sổ sáng trưng cho thấy một quán bar đầy mời gọi bên trong, cờ hàng hải gợn nhẹ trong gió chiều. Tiếng cười đùa vang lên, những chú chó được đưa xuống từ cồn cát trong lúc Luisa và Napier băng qua sân vườn của câu lạc bộ thể thao, rồi đi xuống những bậc thang dẫn đến một bến thuyền khá lớn. Một chiếc tàu gỗ ba cột in bóng lên phương đông đang lịm nắng, sừng sững giữa đám du thuyền bằng sợi thủy tinh nhỏ nhắn neo đậu xung quanh. Vài người đang đứng trên cầu tàu và du thuyền, nhưng không nhiều. “Starfish được neo tại cầu tàu xa nhất từ câu lạc bộ thể thao,” Luisa xem lại bản đồ của Megan Sixsmith, “đi qua chiếc Prophetess.”

Chiếc tàu thế kỷ mười chín kỳ thực đã được phục chế rất đẹp. Dù đang bận việc, nhưng Luisa vẫn mê mẩn trước sức hút kỳ lạ khiến cô phải dừng lại một lúc để nhìn ngắm những chi tiết trên tàu, lắng nghe tiếng khung gỗ kêu cót két.

“Có chuyện gì thế?” Napier thì thầm. Bên trong quá tối nên ông không nhìn rõ nét mặt cô.

Có chuyện gì nhỉ? Vết chàm của Luisa đập thình thịch. Cô níu lấy những đầu mối bên kia của khoảnh khắc co giãn này, nhưng chúng biến mất vào quá khứ và tương lai. “Không có gì.”

“Nếu cháu sợ cũng không sao. Bác cũng đang sợ đây.”

“Vâng.”

“Đi nào. Chúng ta sắp đến nơi rồi.”

Starfish nằm ở đúng nơi đánh dấu trên bản đồ của Megan. Họ leo lên tàu.

Napier nhét một cái kim kẹp vào cửa lên tàu rồi chèn thêm que kẹo mút vào khe trống. Luisa đứng canh bên ngoài. “Cháu cá là bác không học mánh này trong quân đội.”

“Cháu thua rồi. Những tên trộm là những người lính tháo vát đấy, mà Ban Tuyển Quân cũng không kén chọn lắm đâu...” Một tiếng tách. “Được rồi.” Khoang tàu gọn gàng không có quyển sách nào. Một chiếc đồng hồ điện tử nhấp nháy từ 21:55 sang 21:56. Ánh đèn pin mỏng mảnh của Napier dừng lại trên một chiếc bàn hàng hải gắn trên một tủ hồ sơ mini. “Trong đấy thì sao?”

Luisa mở ngăn kéo ra. “Nó đấy. Bác rọi đèn vào đây đi.” Một chồng hồ sơ và bìa còng. Một bìa còng, màu kem, khiến cô chú ý. LÒ PHẢN ỨNG HYDRA-ZERO – MỘT MẪU ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG – TRƯỞNG DỰ ÁN TIẾN SĨ RUFIS SIXSMITH. “Được rồi. Nó đây. Joe? Bác không sao chứ?”

“Ừ. Chỉ là... đã đến lúc một chuyện gì đó diễn ra suôn sẻ, thật đơn giản.”

Vậy là Joe Napier có thể mỉm cười rồi.

Có chuyển động ở lối vào khoang tàu; một người đàn ông đứng chắn ánh sao.

Napier nhận ra nét mặt hoảng hốt của Luisa và quay ngoắt lại. Trong ánh đèn pin, Luisa thấy một đường gân trong cổ tay gã cầm súng giật giật, hai lần, nhưng không có tiếng súng phát ra. Chốt an toàn bị kẹt à?

Joe Napier phát ra tiếng nấc, khụy xuống, va đầu vào chân bằng thép của chiếc bàn hàng hải. Ông nằm bất động.

Luisa mất hết mọi giác quan, trừ cảm giác mơ hồ nhất về chính mình. Đèn pin của Napier lăn nhẹ, và ánh sáng của nó thay nhau chiếu lên thân người rách toạc của ông. Máu ông tuôn nhanh rợn người, màu đỏ tươi rợn người, bóng loáng rợn người. Dây treo rung trong gió, những tiếng chuông không lời.

Kẻ sát nhân đóng cửa khoang tàu lại. “Đặt bản báo cáo lên bàn đi, Luisa.” Giọng thì thầm của hắn nghe rất tử tế. “Tôi không muốn nó dính máu.” Cô phục tùng. Khuôn mặt hắn bị che lại. “Cô chuẩn bị đi chầu ông bà đi.”

Luisa nắm lấy cạnh bàn. “Ngươi là Bill Smoke. Ngươi đã giết Sixsmith.” Bóng tối trả lời, “Những thế lực to lớn hơn đã giết tất cả bọn mi. Ta chỉ gửi đạn đi thôi.”

Tập trung. “Ngươi đi theo chúng ta, từ ngân hàng, trong tàu điện ngầm, đến bảo tàng mỹ thuật...”

“Cái chết lúc nào cũng khiến mi nói dông dài thế à?”

Giọng Luisa run rẩy. “Ngươi nói ‘lúc nào cũng’ là có ý gì?”