← Quay lại trang sách

Chương 9 NGƯỜI VÔ HÌNH

Các nhà kinh tế giả định rằng con người được thúc đẩy bởi những gì họ gắn mác là “sở thích” hay “lợi ích”, nhu cầu về nguồn lực hay hàng hóa vật chất. Nhưng họ quên đi thymos, một phần của linh hồn mong muốn sự công nhận của người khác, hoặc là isothymia, sự công nhận bình đẳng về phẩm giá của mình với người khác, hay megalothymia, sự công nhận [mình] nổi trội. Phần lớn những gì chúng ta thường coi là động lực kinh tế, được thúc đẩy bởi nhu cầu hay ham muốn vật chất, trên thực tế là ham muốn có tính thymos cho sự công nhận phẩm giá hoặc địa vị.

Lấy vấn đề trả lương bình đẳng cho công việc như nhau, điểm cốt lõi của phong trào nữ quyền trong nhiều thập niên, làm ví dụ. Trong khi phụ nữ đạt được nhiều thành tựu lớn trong lực lượng lao động năm mươi năm qua, sự chú ý đáng kể lại hướng tới giới hạn vô hình khiến phụ nữ không thể tiếp cận vị trí quản lý cấp cao, hoặc gần đây hơn, không đạt tới vị trí cấp cao trong công ty công nghệ ở Thung lũng Silicon. Phần lớn chương trình nghị sự về nữ quyền hiện đại được tạo ra không phải bởi phụ nữ thuộc tầng lớp lao động hy vọng có được các công việc như lính cứu hỏa hoặc lính thủy đánh bộ, mà bởi phụ nữ có chuyên môn được giáo dục tìm cách tiến gần hơn tới nhóm trên cùng trong hệ thống phân cấp xã hội.

Trong nhóm này, động lực thực sự thúc đẩy nhu cầu về mức lương công bằng là gì? Nó không có tính kinh tế theo bất kỳ lẽ thường nào. Việc nữ luật sư không được cho làm thành viên hợp danh hay được cho làm phó chủ tịch nhưng với mức lương thấp hơn 10% so với đồng nghiệp nam cùng vị trí không có ý nghĩa gì về mặt thiếu hụt kinh tế: cô vẫn có thể nằm ở nhóm nhỏ trên cùng trong phân vị thu nhập quốc gia và rất ít khi phải đối mặt với thiếu thốn kinh tế. Nếu cô và đồng nghiệp nam cùng vị trí đều được trả lương gấp đôi theo con số tương đối, vấn đề vẫn như vậy.

Đúng hơn, sự tức giận có thể cảm nhận được trong những tình huống trên không thiên quá nhiều về vấn đề nguồn lực mà là vấn đề về công lý: tiền lương cô nhận được từ công ty rất quan trọng không phải vì nó cung cấp nguồn lực cần thiết, mà vì tiền lương là chỉ dấu của phẩm giá và công ty muốn nói với cô rằng cô đáng giá thấp hơn đàn ông mặc dù trình độ và đóng góp của cô ngang bằng hoặc thậm chí vượt trội hơn. Mức lương là vấn đề của sự công nhận . Cô vẫn cảm thấy tức giận như vậy nếu cô được trả cùng mức lương, nhưng bị bảo rằng cô không bao giờ có được chức danh đáng ao ước đơn giản vì cô là phụ nữ.

Cha đẻ của kinh tế chính trị học hiện đại, Adam Smith, với cuốn sách Lý thuyết về Cảm nhận Đạo đức (The Theory of Moral Sentiments), hiểu rõ mối liên hệ giữa lợi ích kinh tế và sự công nhận. Ngay ở Anh cuối thế kỷ 18, ông nhận thấy người nghèo có được nhu cầu cơ bản và không bị thiếu thốn toàn diện về vật chất. Họ tìm kiếm sự giàu có vì lý do khác:

Để được để ý, được tham gia, được chú ý với lòng cảm thông, tự mãn và sự thừa nhận, là tất cả lợi thế mà chúng ta có thể thấy từ điều này. Đó là sự phù phiếm, không phải sự thuận tiện hay niềm vui mà chúng ta quan tâm tới. Nhưng phù phiếm luôn được thiết lập dựa trên niềm tin rằng chúng ta là đối tượng của sự chú ý và thừa nhận.

Người giàu cảm thấy vinh quang trong giàu có, bởi vì anh ta thấy rằng giàu có thu hút sự chú ý của cả thế giới về phía anh ta, và nhân loại đó được sắp xếp để đi cùng anh ta trong tất cả những cảm xúc vui sướng, cùng với đó, lợi thế từ địa vị ấy sẵn sàng truyền tiếp cảm hứng cho anh ta… Người nghèo, trái lại, xấu hổ về tình cảnh nghèo khó. Anh ta cảm thấy rằng điều đó hoặc khiến anh ta bị tách ra khỏi loài người, hoặc, nếu họ để ý tới anh ta, thì họ cũng hiếm khi có bất kỳ sự đồng cảm nào với tình cảnh khốn cùng và kiệt quệ anh ta phải chịu1.

Người giàu “vinh quang trong giàu có”. Nếu ai đó nghĩ về tầng lớp tỷ phú trên toàn cầu và hỏi điều gì khiến họ rời khỏi giường mỗi sáng, câu trả lời không thể là họ cảm thấy thiếu thốn nhu cầu thiết yếu nào đó mà không thể có được nếu họ không kiếm thêm được 100 triệu USD trong những tháng tới. Họ cũng chỉ có thể có một số hữu hạn những ngôi nhà, thuyền và máy bay trước khi họ không thể nhớ nổi số lượng. Đúng hơn, họ muốn thứ khác: sở hữu bộ sưu tập tranh đồ sộ nhất của Francis Bacon, hoặc là đội trưởng đội đua thuyền buồm nhẹ đoạt cúp America’s Cup, hoặc lập ra quỹ từ thiện lớn nhất. Những gì họ tìm kiếm không phải là con số tuyệt đối nào đó về lượng tài sản, mà là địa vị tương đối với các tỷ phú khác.

Một điều tương tự có thể được nhắc tới đối với tình trạng nghèo khổ ở quốc gia giàu có như Hoa Kỳ, Đức hay Thụy Điển. Khi nhóm bảo thủ không bao giờ cảm thấy mệt mỏi trong việc chỉ ra rằng, người sống dưới mức nghèo ở Hoa Kỳ được hưởng mức độ giàu có về vật chất vượt trội, cao hơn nhiều so với người nghèo ở châu Phi hạ-Sahara: họ sở hữu tivi, ô tô và giày nhãn hiệu Air Jordans, họ thường không bị suy dinh dưỡng mà bị béo phì vì họ ăn quá nhiều đồ ăn vặt.

Tất nhiên vẫn có sự thiếu thốn vật chất ở Hoa Kỳ, trong việc thiếu tiếp cận giáo dục hoặc chăm sóc sức khỏe tốt. Nhưng nỗi đau của nghèo khó thường được cảm nhận nhiều hơn chính là mất phẩm giá: như Smith lưu ý, địa vị của người nghèo “khiến anh ta bị tách ra khỏi loài người”, như thể nhân loại không có bất kỳ sự đồng cảm nào với anh ta. Đây là cái nhìn sâu sắc cơ bản trong tiểu thuyết kinh điển của Ralph Ellison, Người Vô hình (Invisible Man), về người đàn ông da đen chuyển từ miền Nam Hoa Kỳ đến sống ở Harlem. Sự sỉ nhục thực sự của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở miền Bắc đó là người Mỹ gốc Phi là vô hình đối với người da trắng, không nhất thiết bị ngược đãi mà đơn giản chỉ là không được xem như đồng loại. Hãy để ý ở lần tới khi bạn đưa tiền cho người vô gia cư, nhưng không thèm nhìn vào mắt người đó: bạn đang xoa dịu nhu cầu thiết yếu về vật chất, nhưng không thừa nhận tính người chung giữa người ăn xin và bạn.

Tính kết nối của thu nhập với phẩm giá cũng cho thấy lý do tại sao chính sách như mức thu nhập đảm bảo chung, vốn được coi là giải pháp cho tình trạng mất việc làm do tự động hóa, không thể mua nổi hòa bình xã hội hoặc khiến mọi người hạnh phúc. Có việc làm hàm ý không chỉ về nguồn lực, mà còn là sự công nhận từ phần còn lại của xã hội rằng tôi đang làm điều gì đó có giá trị cho xã hội. Một người được cho tiền để không phải làm gì chẳng có cơ sở gì để tự hào.

Nhà kinh tế học Robert Frank nói về mối liên hệ giữa của cải và địa vị và chỉ ra rằng địa vị thường được mọi người khao khát có được không phải vì giá trị tuyệt đối mà là giá trị tương đối của nó. Ông gọi đó là “hàng hóa theo địa vị”: Tôi muốn một chiếc Tesla không phải vì tôi quan tâm quá nhiều đến sự nóng lên của trái đất, mà vì nó hợp thời trang và đắt tiền, và người hàng xóm của tôi vẫn lái BMW. Hạnh phúc của con người thường có liên hệ mật thiết với địa vị tương đối hơn là địa vị tuyệt đối. Frank chỉ ra rằng trong các cuộc khảo sát, người có thu nhập cao hơn biểu đạt mức độ hạnh phúc lớn hơn. Nhìn chung, mọi người có thể nghĩ rằng vấn đề này liên quan đến mức thu nhập tuyệt đối, ngoại trừ những người có địa vị tương đối tương đương, biểu đạt mức độ hạnh phúc tương đương không liên quan gì tới sự giàu có tuyệt đối: người Nigeria có thu nhập cao cũng hạnh phúc như người Đức tương ứng, mặc dù khoảng cách kinh tế khác xa nhau. Mọi người so sánh chính bản thân mình không phải trên khía cạnh toàn cầu với một số tiêu chuẩn tuyệt đối về của cải, mà là tương đối với nhóm người dân địa phương nơi họ có quan hệ xã hội2.

Rất nhiều bằng chứng được đưa ra từ ngành khoa học tự nhiên cho thấy mong muốn về địa vị - megalothymia - có nguồn gốc sinh học trong người. Con linh trưởng có sự thống trị hay địa vị alpha đực trong hệ thống phân cấp đàn thường được nhìn nhận có mức độ chất dẫn truyền thần kinh serotonin cao hơn. Serotonin gắn với cảm giác hạnh phúc và phấn chấn ở loài người, đó là lý do tại sao một số chất ức chế tái hấp thụ serotonin nhất định như Prozac và Zoloft được sử dụng rộng rãi trong điều trị trạng thái trầm cảm và tự ti3.

Một bằng chứng thực tế tâm lý học sâu xa hơn cho thấy một số vấn đề nhất định trong chính trị đương đại liên quan đến địa vị hơn là nguồn lực. Một trong những phát hiện rõ ràng từ kinh tế học hành vi thực nghiệm là mọi người nhạy cảm với khoản lỗ nhiều hơn khoản lãi. Tức là, họ thường dành nhiều công sức hơn trong việc tránh mất 100 USD so với nhận thêm 100 USD trong thu nhập4. Điều này có thể giải thích hiện tượng lịch sử được Samuel Huntington ghi lại, cụ thể, nhóm bất ổn chính trị nhất thường không phải là người nghèo cùng cực, mà là tầng lớp trung lưu, những người cảm thấy họ đang mất đi vị thế so với các nhóm khác. Ông trích dẫn Alexis de Tocqueville, người lưu ý rằng Cách mạng Pháp không phải được kích hoạt bởi nông dân bần hàn, mà bởi tầng lớp trung lưu đang trỗi dậy, những người đột nhiên nhìn thấy viễn cảnh kinh tế và chính trị của họ chìm dần ở thập niên trước cuộc Cách mạng. Người nghèo thường thiếu tính tổ chức về mặt chính trị và luôn bận tâm đến cuộc mưu sinh ngày qua ngày. Ngược lại, người nghĩ mình thuộc tầng lớp trung lưu có nhiều thời gian hơn cho hoạt động chính trị và có trình độ học vấn tốt hơn và dễ tập hợp hơn. Quan trọng hơn, họ cảm thấy địa vị kinh tế cho phép họ quyền nhận được sự tôn trọng: họ làm việc chăm chỉ với công việc có ích cho xã hội, họ nuôi gia đình và họ thực hiện trách nhiệm xã hội như nộp thuế. Họ biết mình không nằm ở nhóm cao nhất trong xã hội về mặt kinh tế, nhưng họ cũng tự hào vì không bần hàn hoặc dựa dẫm vào trợ cấp của chính phủ để tồn tại5. Người thuộc tầng lớp trung lưu không cảm thấy mình ở bên lề xã hội, thay vào đó, họ thường cảm thấy mình là phần cốt lõi của bản sắc dân tộc.

Việc mất đi địa vị tầng lớp trung lưu dường như giải thích cho một trong những hiện tượng phân cực chua chát nhất trong chính trị đương đại, xuất hiện ở Thái Lan. Đất nước này bị chia rẽ trong bạo lực bởi sự phân cực dữ dội giữa “phe áo vàng” và “phe áo đỏ”, nhóm trước gồm những người ủng hộ chế độ quân chủ và quân đội thuộc tầng lớp thượng lưu; nhóm sau gồm những người ủng hộ Đảng Người Thái yêu người Thái, do Thaksin Shinawatra lãnh đạo. Cuộc xung đột này, khiến phần lớn khu vực của thủ đô Bangkok ngừng hoạt động trong năm 2010 và dẫn đến cuộc đảo chính quân sự được trợ giúp bởi phe áo vàng; nếu nhìn theo một cách khác, là cuộc chiến về ý thức hệ dựa trên chương trình tái phân phối mà Thaksin và em gái ông Yingluck, thủ tướng từ năm 2011 đến 2014, hỗ trợ cho người Thái vùng nông thôn, hoặc nếu không, là một cuộc chiến liên quan tới tham nhũng. Tuy nhiên, Federico Ferrara lập luận rằng nó nên được xem như là cuộc chiến của sự công nhận. Xã hội Thái Lan truyền thống được phân tầng một cách cứng nhắc dựa trên nhận thức “Phẩm chất Thái”, (Thai-ness) sự khác biệt địa lý và ngôn ngữ dân tộc của người dân đối với tầng lớp tinh hoa ở Bangkok. Những thập niên tăng trưởng kinh tế nâng tầm cho nhiều cử tri ủng hộ Thaksin, những người bắt đầu khẳng định bản sắc của địa phương với những cách khiến giới tinh hoa Bangkok tức giận. Thông thường, chính nhóm người Thái thuộc tầng lớp trung lưu trở thành nhóm hoạt động chính trị tích cực nhất, và điều này giải thích tại sao cuộc xung đột được coi là vì vấn đề kinh tế hóa ra lại là trò chơi tổng-bằng-không bắt nguồn từ thymos6.

Tiếp đến, mối nguy có thể cảm nhận được đối với địa vị của tầng lớp trung lưu dường như giải thích cho sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc dân túy ở nhiều nơi trên thế giới trong thập niên thứ hai của thế kỷ 21.

Ở Hoa Kỳ, tầng lớp lao động, được định nghĩa là người có trình độ học vấn trung học phổ thông trở xuống, không có cuộc sống đủ tốt trong thế hệ trước. Điều này được phản ánh không chỉ trong sự trì trệ hoặc giảm thu nhập và mất việc làm được đề cập trong chương trước, mà còn trong sự đổ vỡ xã hội. Điều này bắt đầu vào những năm 1970 đối với người Mỹ gốc Phi di cư lên phía Bắc trong những năm sau Thế chiến II đến các thành phố như Chicago, New York và Detroit, nơi nhiều người trong số họ làm việc trong ngành công nghiệp đóng gói thực phẩm, thép hoặc ô tô. Khi các ngành này suy giảm và đàn ông bắt đầu mất việc do phi công nghiệp hóa, một loạt vấn đề xã hội đi kèm, bao gồm tỉ lệ tội phạm tăng, nạn ma túy đá tràn lan và cuộc sống gia đình trở nên khó khăn hơn khiến nghèo đói dịch chuyển từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp7.

Trong thập niên vừa qua, kiểu xói mòn xã hội này lan sang tầng lớp lao động da trắng, theo như ghi chép của hai nhà khoa học xã hội có quan điểm nằm ở hai đầu đối nghịch trong phổ lập trường chính trị, Charles Murray và Robert Putnam8. Nạn sử dụng thuốc giảm đau gây nghiện (opioid) bùng phát ở cộng đồng vùng nông thôn và tầng lớp lao động năm 2016 khiến hơn sáu mươi nghìn người chết vì sử dụng ma túy quá liều, nhiều hơn số người Mỹ thiệt mạng trong các vụ tai nạn giao thông mỗi năm. Hậu quả, tuổi thọ của đàn ông da trắng giảm, một điều đáng chú ý đối với một đất nước phát triển9. Số trẻ em lớn lên trong gia đình đơn thân tăng lên đáng kể; tỉ lệ trẻ em da thuộc tầng lớp lao động hiện nay là 35,6%10.

Nhưng có lẽ một trong những động lực lớn cho chủ nghĩa dân tộc mới ở Hoa Kỳ đưa Donald Trump vào Nhà Trắng (và nước Anh ra khỏi Liên minh châu Âu) là nhận thức về sự vô hình . Hai nghiên cứu gần đây của Katherine Cramer và Arlie Hochschild về cử tri bảo thủ tương ứng ở Wisconsin và Louisiana, chỉ ra sự phẫn nộ tương tự nhau. Đông đảo cử tri vùng nông thôn, những người ủng hộ thống đốc theo Đảng Cộng hòa Scott Walker ở Wisconsin, giải thích rằng giới tinh hoa ở thủ phủ Madison và các thành phố lớn ở ngoài bang này chỉ đơn giản không hiểu họ hoặc để tâm đến vấn đề của họ. Theo một trong những người thảo luận với Cramer, thì Washington, D.C., “là nơi chỉ phục vụ cho chính họ… Họ không có ý niệm gì về phần còn lại của quốc gia đang diễn ra như thế nào, họ quá say sưa nghiên cứu cái rốn của chính mình”11. Tương tự, cử tri của Đảng Tiệc Trà vùng nông thôn Louisiana nhận xét, “Các nhà phê bình theo chủ nghĩa tự do coi thường người như tôi. Chúng ta không thể dùng từ lóng khinh miệt người da đen (N-Word). Chúng ta không muốn vậy, nó là miệt thị. Vậy tại sao các nhà phê bình theo chủ nghĩa tự do lại cảm thấy thoải mái khi sử dụng từ lóng khinh miệt người da trắng (R-word) [redneck - đồ da trắng nhà quê]?”12

Những công dân bất hảo sợ mất đi địa vị của tầng lớp trung lưu thẳng thừng ngước lên buộc tội giới thượng lưu, những người coi họ như vô hình, nhưng cũng ngước xuống buộc tội người nghèo, những người mà họ cảm thấy không xứng đáng và được ưu đãi một cách thiên vị. Theo Cramer, “sự phẫn nộ đối với đồng bào là nhãn tiền và tâm điểm. Mọi người cảm thấy tình cảnh của họ do lỗi lầm của kẻ có tội và ít xứng đáng hơn họ gây ra, không phải là sản phẩm của vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị theo nghĩa rộng.”13 Hochschild đưa ra phép ẩn dụ về người dân thường kiên nhẫn chờ xếp hàng dài để đi qua cánh cửa GIẤC MƠ MỸ, và nhìn thấy người khác đột nhiên chen vào hàng đứng trước họ - người Mỹ gốc Phi, phụ nữ, người nhập cư - được hỗ trợ bởi chính giới tinh hoa đã phớt lờ họ. “Bạn là người lạ trên chính mảnh đất của mình. Bạn không còn nhận ra chính mình trong cách người khác nhìn bạn. Đó là cuộc đấu tranh để cảm thấy được nhìn nhận và tôn vinh. Và để cảm thấy được tôn vinh, bạn phải cảm thấy - và cảm thấy được người khác nhìn nhận rằng mình đang đi lên. Nhưng bằng việc chính bạn nhận mình không hề có lỗi, và theo những cách ngầm ẩn, bạn đang trượt về phía sau”.14

Các cá nhân thường không coi sự khốn quẫn về kinh tế là do thiếu hụt nguồn lực, mà là mất đi bản sắc. Làm việc chăm chỉ tạo ra phẩm giá cho cá nhân, nhưng phẩm giá đó không được thừa nhận - thực chất nó bị lên án trong khi người khác không sẵn sàng chơi theo luật lại được hưởng lợi thế không đáng có. Mối liên hệ giữa thu nhập và địa vị giúp giải thích tại sao nhóm bảo thủ theo chủ nghĩa dân tộc hoặc tôn giáo lại thu hút nhiều người hơn so với nhóm cánh tả truyền thống dựa trên vị thế kinh tế. Người theo chủ nghĩa dân tộc có thể chuyển thiệt hại trong vị thế kinh tế tương đối thành thiệt hại trong bản sắc và địa vị: bạn luôn là thành viên cốt lõi của đất nước vĩ đại này, nhưng người ngoại quốc, dân nhập cư và chính nhóm đồng bào thuộc tầng lớp tinh hoa âm mưu ghìm bạn xuống, đất nước của bạn không còn là của riêng bạn và bạn không được tôn trọng trên chính mảnh đất của mình. Tương tự, thành viên của đảng phái tôn giáo có thể nói thứ gần như tương tự: Bạn là thành viên của cộng đồng tín đồ vĩ đại, bị những kẻ không theo tín ngưỡng này phỉ báng; sự phản bội này không chỉ khiến bạn rơi vào cảnh bần hàn, mà còn là tội ác chống lại chính Chúa. Bạn có thể vô hình với đồng bào của bạn, nhưng bạn không vô hình với Chúa.

Đây là lý do tại sao nhập cư trở thành vấn đề đau đầu đến vậy ở nhiều nước trên thế giới. Nhập cư có thể có hoặc không có ích đối với nền kinh tế trong nước cũng như thương mại thường mang lại lợi ích tổng thể, nhưng không có lợi cho tất cả các nhóm trong xã hội. Tuy nhiên, nó hầu như luôn được coi là mối đe dọa đối với bản sắc văn hóa, đặc biệt khi dòng người xuyên biên giới ồ ạt như trong những thập niên gần đây. Khi thu nhập giảm được hiểu là mất địa vị xã hội, thật dễ hiểu tại sao nhập cư trở thành hình mẫu đại diện cho sự đổi thay về mặt kinh tế.

Tuy nhiên, đây chưa phải là câu trả lời hoàn toàn thỏa đáng cho lý do tại sao cánh hữu theo chủ nghĩa dân tộc trong những năm gần đây chiếm được cử tri trước đây từng bỏ phiếu cho đảng cánh tả, ở cả Hoa Kỳ và châu Âu. Theo truyền thống, châu Âu cuối cùng từng có câu trả lời thực tế thỏa đáng hơn cho vấn đề rối loạn kinh tế, gây ra bởi thay đổi công nghệ và toàn cầu hóa đi cùng mạng lưới an sinh xã hội bao trùm hơn. Hơn nữa, trong quá khứ, nhóm cấp tiến có thể thu hút bản sắc cộng đồng, xây dựng nó xung quanh trải nghiệm chung về sự bóc lột và phẫn nộ đối với giới tư bản giàu có: “Vô sản thế giới đoàn kết lại!” “Giành chính quyền về tay Nhân dân!” Tại Hoa Kỳ, cử tri thuộc tầng lớp lao động ủng hộ Đảng Dân chủ với con số áp đảo từ khi có Chính sách Kinh tế mới (New Deal) những năm 1930 cho đến khi Ronald Reagan trỗi dậy; chế độ dân chủ xã hội châu Âu được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa công đoàn và sự đoàn kết của giai cấp công nhân.

Vấn đề của cánh tả đương đại là hình thức cụ thể của bản sắc mà họ ngày càng muốn lựa chọn để vận động. Thay vì xây dựng sự đoàn kết xung quanh nhóm tập thể lớn như tầng lớp lao động hay nhóm bị bóc lột kinh tế, cánh tả tập trung vào nhóm rất nhỏ chịu thiệt thòi trong các trường hợp cụ thể. Đây là một phần của câu chuyện lớn hơn về số phận của chủ nghĩa tự do hiện đại, trong đó nguyên tắc về sự công nhận bình đẳng và phổ quát biến thành sự công nhận đặc biệt cho các nhóm cụ thể.

Adam Smith, The Theory of Moral Sentiments (Indianapolis: Liberty Classics, 1982), 50-51.↩︎

Frank, Choosing the Right Pond , 26-30.↩︎

Ibid., 21-26. Xem thêm Francis Fukuyama, Our Posthuman Future: Consequences of the Biotechnology Revolution (New York: Farrar, Straus and Giroux, 2001), 41-56.↩︎

Kahneman, Thinking, Fast and Slow , 283-285.↩︎

Ở Hoa Kỳ có rất nhiều sự nhầm lẫn về thuật ngữ tầng lớp trung lưu (middle class), vì phần lớn người Mỹ thích tự cho mình thuộc tầng lớp trung lưu, ngay cả khi họ là tinh hoa giàu có hay những người nếu ở châu Âu sẽ được coi là tầng lớp lao động hoặc thậm chí nghèo. Nhóm có liên quan đến chính trị nhất là nhóm trong thứ ba hoặc thứ tư trong ngũ phân vị thu nhập quốc dân, nhóm dễ bị tổn thương nhất đối với sự trì trệ hoặc dịch chuyển xuống trong mức thu nhập.↩︎

Federico Ferrara, “The Psychology of Thailand’s Domestic Political Conflict: Democracy, Social Identity, and the Struggle for Recognition” (bản thảo trình bày tại hội thảo quốc tế “Coup, King, Crisis: Thailand’s Political Troubles and the Royal Succession”, Shorenstein Asia-Pacific Research Center, Stanford University, 24-25 tháng Một, 2017).↩︎

Xem thêm tại William Julius Wilson, The Truly Disadvantaged: The Inner City, the Underclass, and Public Policy (Chicago: University of Chicago Press, 1988) và những tài liệu khác.↩︎

Charles Murray, Coming Apart: The State of White America, 1960-2010 (New York: Crown Forum, 2010); Robert D. Putnam, Our Kids: The American Dream in Crisis (New York: Simon and Schuster, 2015).↩︎

Anne Case và Angus Deaton, “Rising Morbidity and Mortality in Midlife Among White Non-Hispanics in the Twenty-First Century”, Proceedings of the National Academy of Sciences 112 (49) (8 tháng Mười hai, 2015); “Mortality and Morbidity in the Twenty-First Century”, Brookings Papers on Economic Activity , 23-24 tháng Ba, 2017.↩︎

U.S. Census Bureau, công cụ dữ liệu trực tuyến Current Population Survey .↩︎

Katherine J. Cramer, The Politics of Resentment: Rural Consciousness and the Rise of Scott Walker (Chicago: University of Chicago Press, 2016), 61.↩︎

Arlie Russell Hochschild, Strangers in Their Own Land: Anger and Mourning on the American Right (New York: New Press, 2016), 127.↩︎

Cramer, Politics of Resentment , 9.↩︎

Hochschild, Strangers in Their Own Land , 143.↩︎