Chương 10 DÂN CHỦ HÓA PHẨM GIÁ
Như chúng ta đã thấy, quan niệm về phẩm giá rẽ theo hai hướng trong thế kỷ 19, một nhánh hướng tới chủ nghĩa cá nhân tự do vốn được gắn với quyền chính trị trong các nền dân chủ tự do hiện đại, nhánh còn lại hướng tới bản sắc tập thể vốn có thể được xác định thông qua dân tộc hay tôn giáo. Sau khi đã xem xét sơ bộ những cách lý giải chung về bản sắc, giờ chúng ta sẽ quay lại với cách hiểu về chủ nghĩa cá nhân, hay là bản sắc khi nó xuất hiện trong các nền dân chủ tự do hiện đại ở Bắc Mỹ và châu Âu.
Trong nhóm các quốc gia châu Âu này, phẩm giá được dân chủ hóa khi các hệ thống chính trị dần trao quyền cho các nhóm cá nhân, các nhóm này ngày một mở rộng hơn. Tại thời điểm Hiến pháp Hoa Kỳ được phê chuẩn năm 1988, chỉ nam giới da trắng có tài sản mới có đầy đủ các quyền chính trị, tập hợp những người được trao quyền dần mở rộng, bao gồm cả nam giới da trắng không có tài sản, người Mỹ gốc Phi, người da đỏ bản địa, và phụ nữ. Theo cách nghĩ này, chủ nghĩa cá nhân tự do dần đạt đến kết quả, đó là trở nên dân chủ hơn. Nhưng trong quá trình đó, nó cũng phát triển theo một hướng chung, và hai xu hướng rốt cuộc hội tụ theo những cách thức đáng ngạc nhiên.
Khi chúng ta lần đầu bắt gặp thymos và khát khao được công nhận phẩm giá trong tác phẩm Cộng hòa của Plato, nó không được chia sẻ rộng rãi cho tất cả mọi người. Thay vào đó, đây là lĩnh vực độc quyền của tầng lớp giám hộ hay vệ binh, những người xứng đáng được công nhận bởi họ sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ cộng đồng lớn hơn bằng đấu tranh vũ lực. Chúng ta thấy rằng phẩm giá được phổ quát hóa theo truyền thống Kitô giáo bởi lẽ mọi người được cho là có năng lực đưa ra lựa chọn có đạo đức, năng lực mà theo tư tưởng Tin Lành là nằm sâu trong mỗi cá nhân. Khái niệm về phẩm giá phổ quát này tiếp đó được Kant thế tục hóa dưới dạng các nguyên tắc đạo đức duy lý. Rousseau thêm vào đó ý tưởng rằng nội ngã có đạo đức không chỉ có khả năng đưa ra lựa chọn đạo đức nhị phân, mà còn được làm đầy với một loạt cảm xúc và kinh nghiệm cá nhân vốn bị xã hội xung quanh ngăn trở; quyền tiếp cận những cảm xúc này chứ không phải những gì cản trở chúng trở thành một mệnh lệnh đạo đức cấp thiết. Phẩm giá giờ đây lấy tâm điểm là phục hồi bản chất nội tâm đích thực, và sự thừa nhận của xã hội đối với tiềm năng ẩn chứa trong mỗi thành viên trong xã hội. Xã hội tự do ngày càng được hiểu như là một trật tự chính trị chủ động khuyến khích hiện thực hóa đầy đủ nội ngã, chứ không chỉ là một trật tự chính trị chỉ biết bảo vệ một vài quyền tối thiểu của mỗi cá nhân.
Theo truyền thống Kitô giáo, nội ngã là nguồn gốc của tội tổ tông truyền, nhưng đồng thời cũng là nơi trú ngụ của lựa chọn đạo đức có thể giúp vượt qua tội lỗi. Phẩm giá dựa trên khả năng cá nhân của tín đồ tuân theo một loạt những nguyên tắc đạo đức - khi xét đến tình dục, gia đình, mối quan hệ với láng giềng và người cai trị - với cái giá phải trả là dục vọng tội lỗi bên trong. Cùng với sự xói mòn phạm vi đạo đức chung vốn được thiết lập bởi tôn giáo chung các nước phương Tây, việc chỉ trao phẩm giá cho những ai tuân theo quy tắc đạo đức Kitô giáo trở nên kém khả thi hơn. Tôn giáo thay vào đó được coi như một dạng thờ phụng thánh thần hoặc ý thức sai lầm; đúng hơn, sự công nhận dựa vào nội ngã hiện hữu thậm chí đôi khi vi phạm nguyên tắc tôn giáo.
Cách thức ý tưởng này được thể hiện trong nền văn hóa Mỹ thế kỷ 20 có thể được minh họa thông qua hoạt động của Nhóm hành động California nhằm Thúc đẩy Lòng tự trọng và Trách nhiệm xã hội của Cá nhân (California Task Force to Promote Self-Esteem and Personal Social Responsibility), đơn vị đưa ra báo cáo Hướng đến một Bang Tự trọng (Toward a State of Self-Esteem) năm 1990. Đơn vị này là đứa con tinh thần của nhà lập pháp của bang John Vasconcellos, người chịu ảnh hưởng từ phong trào tiềm năng con người nở rộ ở khu vực Vịnh California từ những năm 1960 trở đi1. Phong trào này tiếp nối ý tưởng của nhà tâm lý học Abraham Maslow, người nổi tiếng với “tháp nhu cầu”. Dưới đáy tháp là nhu cầu sinh lý cơ bản như thực phẩm và thức uống; ở giữa là nhu cầu xã hội như an toàn và đảm bảo; và trên đỉnh là thứ mà Maslow gọi là “nhu cầu tự hiện thực hóa”. Ông lập luận rằng hầu hết mọi người không nhận thức được phần lớn tiềm năng của họ, rằng lòng tự trọng mang tính quyết định với việc tự hiện thực hóa, vì mỗi cá nhân bị kìm hãm do đánh giá thấp khả năng của chính mình. Khái niệm hiện đại về bản sắc nhất quán với một ý tưởng: nhu cầu tự hiện thực hóa của cá nhân là nhu cầu cao hơn những gì xã hội rộng hơn yêu cầu2.
Nhóm hành động định nghĩa lòng tự trọng bằng thuật ngữ sau:
Tồn tại như một con người có ý nghĩa quan trọng tự thân, vốn được các tác giả của Tuyên ngôn Độc lập nhắc tới khi họ tuyên bố tất cả mọi người “được Tạo hóa ban cho những quyền không thể xâm phạm…” Nhận thức này liên quan đến phẩm giá của mỗi nhân cách, từ lâu đã là một phần của di sản đạo đức và tôn giáo của đất nước chúng ta. Mỗi cá nhân có ý nghĩa độc nhất, đơn giản bởi con người đã được trao tặng cuộc sống như một món quà quý giá và huyền bí. Đó là giá trị cố hữu mà không kẻ thù hay nghịch cảnh nào có thể tước đoạt3.
Bản báo cáo ghi nhận, “Hiểu rõ giá trị và tầm quan trọng của bản thân không phụ thuộc vào việc đo đếm số lượng hay chất lượng khả năng của mình so với người khác. Khả năng của mỗi người đều có giá trị và cần thiết. Mỗi chúng ta đều đóng góp được cho xã hội”. Báo cáo nói thêm, “Điểm cốt yếu không phải là trở nên có giá trị hay được chấp nhận, mà là nhận thức được giá trị đang tồn tại. Cảm xúc của chúng ta là một phần trong đó, và chấp nhận chúng giúp gây dựng lòng tự trọng… Mỗi chúng ta có thể tôn vinh chủng tộc, sắc tộc, và văn hóa đặc biệt của mình. Chúng ta có thể thấy cảm kích về cơ thể, giới tính, và hoạt động tình dục của mình. Chúng ta có thể chấp nhận các ý tưởng, cảm xúc, và tính sáng tạo của bản thân”.4
Chỉ trong một vài trang sách này, chúng ta có thể thấy sự biểu lộ một chuỗi dài các ý tưởng mà cuối cùng truy ngược về Rousseau: rằng mỗi chúng ta có một nội ngã chôn giấu sâu bên trong, nó độc nhất và là một nguồn của hoạt động sáng tạo; bản ngã trú ngụ trong mỗi cá nhân có giá trị tương đương với những cá nhân khác; bản ngã được bộc lộ không phải bằng lý lẽ mà bằng cảm xúc và sau cùng, bản ngã này là nền tảng của nhân phẩm được công nhận trong các văn kiện chính trị như Tuyên ngôn Độc lập. Tóm lại, đó là một tuyên bố rõ ràng về khái niệm bản sắc trong thời đại hậu-Rousseau.
Tuy vậy, báo cáo của nhóm hành động California thể hiện mâu thuẫn nội tại khổng lồ, mà bản thân nó phản ánh xung đột cơ bản giữa isothymia và megalothymia. Nó khẳng định mỗi cá nhân có một nội ngã sáng tạo và tài giỏi. Nó cố gắng không phán xét, bằng cách cảnh báo rằng chúng ta không nên so sánh bản thân với ai khác, hay cho phép bản thân bị đánh giá dựa trên tiêu chuẩn của người khác. Tuy nhiên, các tác giả của báo cáo này nhanh chóng đối mặt với vấn đề rằng nội ngã mà chúng ta tôn vinh có thể cũng độc ác, bạo lực, ích kỷ, hoặc thiếu trung thực. Hoặc chúng có thể đơn giản chỉ là lười biếng và hời hợt. Sau khi đã khẳng định nhu cầu về lòng tự trọng phổ quát, bản báo cáo ngay lập tức tuyên bố lòng tự trọng phải bao gồm cả “trách nhiệm xã hội” và “tôn trọng người khác”, trong khi lưu ý rằng tội ác là hậu quả trực tiếp của việc thiếu hụt sự tôn trọng. Một cấu phần của lòng tự trọng mà nó tôn vinh là “tính chính trực”, vốn được cấu thành từ những đức tính như trung thực, trắc ẩn, kỷ luật, cần cù, sùng kính, kiên trì, tận tâm, khoan dung, tử tế, dũng cảm, biết ơn, và nhã nhặn”. Nhưng không phải ai cũng có những đức tính trên, nghĩa là một vài người sẽ đáng được kính trọng hơn những kẻ khác. Chúng ta sẽ không bao giờ tôn trọng một kẻ hãm hiếp hay giết người như đối với một công dân liêm chính.
Quan điểm cho rằng lòng tự trọng dựa trên khả năng mỗi cá nhân tuân theo những nguyên tắc xã hội trọng yếu nhất định hay sở hữu đức hạnh - là quan niệm mang tính truyền thống hơn về nhân phẩm. Nhưng bởi không phải ai cũng là người đức hạnh, cách hiểu về lòng tự trọng này mâu thuẫn với ước vọng chứng tỏ giá trị nội hàm của bản thân nêu trong báo cáo nói trên. Mâu thuẫn này chỉ ra mối xung đột tiềm tàng giữa isothymia và megalothymia. Megalothymia không chỉ phản ánh tính phù phiếm của kẻ tham vọng, nó còn chứa đựng những giá trị ngay thẳng của người đức hạnh. Một số người cần được đánh giá cao hơn những người khác. Thực vậy, nếu một người không thể cảm thấy xấu hổ - nghĩa là, có ít tự trọng - khi làm những việc xấu đối với người khác, khó có thể thấy làm cách nào kẻ đó sẽ nhận trách nhiệm trước người khác. Dẫu vậy, bản báo cáo của nhóm hành động khuyến nghị trong hai điểm chính tiếp theo rằng hệ thống giáo dục của bang đồng thời “nhằm mục đích khai phóng hơn là thuần hóa”, nhưng cũng “khuyến khích nhân cách và các giá trị có trách nhiệm”. Ta hầu như có thể nghe thấy những thành viên tự do cấp tiến của nhóm hành động tranh cãi về tính bao hàm rộng hơn qua những trang báo cáo, những thành viên bảo thủ hơn thì lo lắng về hậu quả của việc này đối với trật tự xã hội, rồi đến lượt những thành viên tự do cấp tiến phản hồi rằng “chúng ta không thể phán xét người khác nếu như chúng ta muốn khuyến khích lòng tự trọng”.
Vào thời đó, bản báo cáo của nhóm hành động California bị nhiều người nhạo báng, trở thành mục tiêu công kích của loạt truyện tranh hài Donnesburg trong vài tháng. Nỗ lực thúc đẩy lòng tự trọng của mọi người trong khi không thể xác định điều gì có thể ước lượng được, cũng như không thể phân biệt giữa những hình thái hành vi tốt hơn và tệ hơn, dường như là nhiệm vụ bất khả thi - thực tế là lố bịch - đối với nhiều người. Nhưng trong những năm tiếp theo, bản thân hoạt động này định hình và trở thành mục tiêu của nhiều cơ quan xã hội như các tổ chức phi lợi nhuận, trường học, và đại học, và bản thân chính quyền bang. Một lý do khiến chính trị bản sắc gắn chặt vào lòng nước Mỹ và các nền dân chủ tự do khác chính là vì mối quan tâm ngày càng lớn về lòng tự trọng, và nhờ có cái gọi là “chiến thắng của liệu pháp”.
Thuật ngữ trên xuất phát từ một cuốn sách ra đời năm 1966 của nhà xã hội học Philip Rieff, người lập luận rằng: sự suy thoái của phạm vi đạo đức chung được xác định bởi tôn giáo đã để lại khoảng trống khổng lồ, [khoảng trống ấy] được lấp đầy bởi các nhà tâm lý học rao giảng về một thứ tôn giáo mới mang tên tâm lý trị liệu. Văn hóa truyền thống, theo Rieff, “là tên gọi khác của một dạng động lực hướng bản thân ra phía bên ngoài, hướng về những mục đích chung mà chỉ ở đó bản ngã mới được thừa nhận và thỏa mãn”. Như vậy nó đóng vai trò liệu pháp, mang lại mục đích cho mỗi cá nhân, kết nối họ với những người khác, và chỉ dạy cho họ vị trí của mình trong vũ trụ. Nhưng văn hóa bên ngoài đó bị lên án là chiếc lồng sắt cầm tù nội ngã; mọi người được dạy phải giải phóng nội ngã, trở nên “chân thật” và “tận tâm”, nhưng đồng thời lại không được dạy phải tận tâm với điều gì. Khoảng trống mà các thầy tu và mục sư để lại giờ được lấp đầy bởi các nhà phân tâm học sử dụng các kỹ thuật trị liệu với không có gì bị đe dọa ngoài nhận thức về tình trạng hạnh phúc vốn có thể bị thao túng”5. Phê phán của Rieff đối với liệu pháp giúp tạo ra một loại hình bình luận xã hội trong thế hệ tiếp sau mà mục tiêu là chính mô hình hiện đại về bản sắc6.
Mô hình liệu pháp ban đầu được xây dựng dựa trên khám phá về bản sắc ẩn giấu. Sigmund Freud đạt được những thấu hiểu về tâm lý nhờ chữa trị cho những phụ nữ ở Vienna đang bị tê liệt bởi hiện tượng ông gọi là rối loạn phân ly (hysteria), một dạng kìm nén mãnh liệt bản năng tình dục tự nhiên trong vô thức, vốn bị dẫn dắt bởi cái mà Freud sau này gọi là siêu ngã (superego). Mô tả của Freud về nội ngã thay đổi theo thời gian, từ những ký ức về tuổi thơ bị lạm dụng đến những ảo tưởng tình dục; trong mỗi trường hợp, việc trị liệu dựa trên việc khôi phục sự nhận biết về nguồn gốc tình trạng của bệnh nhân. Freud giữ sự trung lập đạo đức trong cuộc đấu tranh giữa nội ngã với những đòi hỏi của xã hội, nhận ra rằng cả hai phía đều có những lập luận vững chắc. Có khả năng ông đứng về phía xã hội. Nhưng ông là một phần của “xu hướng vạch trần”, theo cách dùng từ của Lionel Trilling, vốn dựa trên niềm tin rằng “bên dưới bề ngoài của mỗi hiện tượng con người là một thực tế trái ngược được che đậy, và phải giành được lợi thế tri thức, thực tiễn và (đặc biệt là) đạo đức bằng cách buộc nó hé lộ”7. Nhiều môn đồ của Freud, như Herbert Marcuse, và những người thuộc truyền thống tâm thần học sau này, không được trung lập như Freud và coi vai trò của họ như người giải phóng cá nhân chống lại một xã hội kìm kẹp rộng khắp.
Trong phân tích sau cùng, sự xác nhận bản sắc bên trong phụ thuộc vào sự thật từ lời khẳng định của Rousseau rằng con người có bản chất tốt đẹp: rằng nội ngã của họ là nguồn tiềm năng vô tận (cái được Rousseau gọi là tính hoàn thiện), và hạnh phúc ở con người phụ thuộc vào sự giải phóng bản thân khỏi những ràng buộc xã hội phi tự nhiên. Đó chắc chắn là giả định ban đầu của phong trào tiềm năng con người và của nhóm hành động California.
Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu Rousseau đã sai và nội ngã, như những nhà đạo đức truyền thống tin tưởng, là nơi trú ngụ của những thôi thúc phi xã hội hoặc tai hại, thậm chí xấu xa? Một số người thuộc phong trào tiềm năng con người coi Friedrich Nietzsche như người khởi xướng cho họ. Nhưng Nietzsche đã trung thực một cách phũ phàng khi thấy trước được những hậu quả của việc giải phóng cá nhân: nó có thể dễ dàng mở đường cho đạo đức hậu Kitô giáo trong đó kẻ mạnh thống trị kẻ yếu, thay vì một kết cục hạnh phúc cho cả đôi bên. Adolf Hitler rốt cuộc sẽ không làm gì hơn là theo đuổi mục tiêu của mình, giống như vô số sinh viên tốt nghiệp đại học liên tục bị thúc giục phải làm vậy.
Đó chính là lời chỉ trích Christopher Lasch đưa ra vào cuối những năm 1970, với lập luận rằng khuyến khích lòng tự trọng sẽ không phát triển tiềm năng con người, thay vào đó là tính ái kỷ méo mó, thực tế là hội chứng mà ông cảm nhận được đã đặc tính hóa toàn xã hội Mỹ. Con người không được giải phóng để thực hiện tiềm năng của mình, thay vào đó, họ bị kẹt trong sự phụ thuộc tình cảm: “Không chịu đựng được những ảo mộng thất thường về quyền năng vô hạn của mình, kẻ ái kỷ sẽ phụ thuộc vào người khác để công nhận lòng tự trọng của mình. Hắn không thể sống thiếu một đám khán giả ngưỡng mộ”. Điều này tạo ra những hệ quả xã hội tiêu cực:
Ngay cả khi các nhà trị liệu nói về sự cần thiết của “ý nghĩa” và “tình yêu”, họ định nghĩa tình yêu và ý nghĩa đơn giản là sự thỏa mãn những yêu cầu tình cảm của bệnh nhân. Họ hiếm khi nhận ra - cũng như không có lý do gì để nhận ra, nếu xét đến bản chất của nghề trị liệu - là cần khuyến khích bệnh nhân đặt những nhu cầu và quan tâm của họ dưới những người khác, cho những mục tiêu hay truyền thống ngoài bản thân mình.
Trong bối cảnh Mỹ, Lasch lập luận rằng chủ nghĩa ái kỷ, dưới góc độ hiện tượng xã hội, sẽ không dẫn tới chủ nghĩa phát-xít, mà là sự phi chính trị hóa rộng rãi trong xã hội, trong đó đấu tranh cho công bằng xã hội bị hạ xuống thành những vấn đề tâm lý cá nhân8. Lasch viết ra điều đó ngay từ trước khi xuất hiện sự trỗi dậy của Donald Trump, một nhân vật chính trị gần như là hiện thân hoàn hảo cho chủ nghĩa ái kỷ mà ông miêu tả. Chủ nghĩa ái kỷ đưa Trump vào sự nghiệp chính trị, nhưng là nền chính trị bị thúc đẩy bởi nhu cầu nội tại muốn được cộng đồng công nhận hơn là vì mục đích công.
Những nhà đạo đức học như Rieff và Lasch có thể đúng về hệ lụy xã hội của xã hội liệu pháp. Nhưng vào thời của họ, cả một nghề nghiệp về tâm lý đã xuất hiện, mà các thành viên trong đó không đơn giản coi mình là những nhà khoa học quan sát những hiện tượng tự nhiên, họ còn là bác sỹ với công việc liên quan đến trị liệu, chữa trị và giúp cho bệnh nhân trở nên hữu ích hơn. Những con người bình thường muốn cảm thấy bản thân tốt đẹp hơn nên đã tạo ra nhu cầu lớn cho dịch vụ của họ. Trường phái phân tâm học của Freud trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 rơi vào suy thoái dài hạn ở Hoa Kỳ, những mô hình liệu pháp cơ sở thì tiếp tục phát triển, và ngôn ngữ tâm lý bắt đầu thâm nhập vào văn hóa đại chúng của xã hội phát triển. Ví dụ, thuật ngữ lòng tự trọng hầu như vắng bóng trên báo chí Anh năm 1980, nhưng trích dẫn về thiếu tự trọng bắt đầu xuất hiện và dần đạt đến hơn 3.300 trích dẫn vào năm 2000. Dịch vụ tư vấn tâm lý mở rộng, và số lượng người tư vấn sức khỏe tâm thần tăng gấp bốn lần từ năm 1970 đến năm 19959.
Nếu liệu pháp trở thành thứ thay thế cho tôn giáo, thì bản thân tôn giáo lại có một bước ngoặt ngày càng mang tính liệu pháp. Điều này đúng với cả nhà thờ tự do và Tin Lành ở Hoa Kỳ, trong đó lãnh đạo nhà thờ nhận ra họ có thể đảo ngược xu hướng sụt giảm người đi lễ bằng cách cung cấp những thứ giống với dịch vụ tư vấn tâm lý, được xây dựng dựa trên lòng tự trọng. Robert Schuller, một nhà thuyết giáo tiếng tăm qua truyền hình với chương trình Thời khắc Quyền lực (Hour of Power) được phát sóng hằng tuần đến hàng triệu khán giả trong vài thập niên, và là người sáng lập Nhà thờ lớn Crystal ở Garden Grove, California, một trong những nhà thờ lớn nhất Hoa Kỳ, trước đó đã viết cuốn sách có nhan đề Lòng tự trọng: Cuộc cải cách mới (Self-Esteem: The New Reformation)10. Rick Warren, người mà Phong trào Phát triển Giáo hội của mình đã biến đổi hàng nghìn nhà thờ Tin Lành trong những thập niên gần đây, đưa ra một thông điệp có tính liệu pháp tương tự. Phong trào Sống Có Mục Đích nổi danh của ông đề cao tầm quan trọng của các mục sự chăm lo cho “nhu cầu được cảm nhận” của những phi tín đồ, trong khi hạ thấp giáo lý Kitô truyền thống để ủng hộ một thứ ngôn ngữ tâm lý học công khai. Giống như Schuller, và giống như nhóm hành động California, ông xem nhẹ tội lỗi cũng như bất kỳ khía cạnh xét đoán nào của tôn giáo truyền thống; sách Phúc âm giống như “sách hướng dẫn” làm cách nào để có được hạnh phúc trong cuộc đời này hơn là ở kiếp sau11. Phẩm giá Kitô giáo của Luther là một thứ gì đó khó đạt được, thay vào đó, Sống Có Mục Đích lại khả dụng với tất cả mọi người.
Bước ngoặt mang tính liệu pháp trong văn hóa đại chúng của các nền dân chủ tự do tiến bộ như Hoa Kỳ được phản ánh trong nền chính trị của chính nước này, theo cách không thể tránh khỏi, và trong quan niệm đang phát triển về vai trò của nhà nước. Trong chủ nghĩa tự do Cổ điển thế kỷ 19, nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ các quyền cơ bản như quyền tự do ngôn luận và tự do hiệp hội, duy trì nguyên tắc pháp quyền, và cung cấp dịch vụ công thiết yếu như cảnh sát, đường sá, và giáo dục. Chính phủ “công nhận” công dân của mình bằng cách trao cho họ quyền cá nhân, nhưng nhà nước không được cho là có nghĩa vụ khiến mỗi cá nhân cảm thấy tốt đẹp hơn về bản thân mình.
Tuy vậy, theo mô hình liệu pháp, hạnh phúc của một cá nhân phụ thuộc vào lòng tự trọng của người đó, và lòng tự trọng là một phụ phẩm của sự thừa nhận công khai. Các chính phủ sẵn sàng trao sự công nhận theo cách họ nói về và đối xử với công dân của mình, do đó theo một cách tự nhiên và có lẽ không thể tránh khỏi, các nền dân chủ tự do hiện đại bắt đầu nhận trách nhiệm nâng cao lòng tự trọng cho mỗi công dân của mình. Chúng ta ghi nhận ý kiến của thẩm phán Tòa án Tối cao Kennedy rằng tự do không chỉ đơn giản là độc lập với hành động của chính phủ, mà là “quyền định nghĩa quan niệm của chính bản thân về tồn tại, ý nghĩa, vũ trụ, và sự huyền bí của cuộc sống con người”, quan điểm có lẽ bắt nguồn trực tiếp từ Viện Esalen.
Dịch vụ liệu pháp trở nên gắn kết sâu sắc với chính sách xã hội, không chỉ tại California mà trên khắp Hoa Kỳ và các nền dân chủ tự do khác. Các chính quyền bắt đầu cung cấp những dịch vụ tư vấn tâm lý và sức khỏe tinh thần, và trường học bắt đầu tích hợp nhận thức về liệu pháp vào cách họ dạy dỗ con trẻ. Sự mở rộng này diễn ra theo nhiều giai đoạn, cùng lúc với sự phát triển nhà nước phúc lợi Mỹ kể từ Chính sách Kinh tế Mới trở đi. Vào đầu thế kỷ 20, biểu hiện rối loạn chức năng xã hội như phạm tội hay mang thai tuổi vị thành niên bị xem như những hành vi sai trái cần phải bị trừng phạt, thường qua hệ thống tư pháp hình sự. Nhưng với sự gia tăng các phương pháp tiếp cận mang tính liệu pháp vào giữa thế kỷ, những hành vi này ngày càng được xem như bệnh lý xã hội cần được chữa trị thông qua biện pháp tư vấn và tâm lý. Những sửa đổi năm 1956 trong Đạo luật An sinh xã hội cho phép chính quyền liên bang hoàn trả tiền cho một loạt dịch vụ trị liệu nhằm củng cố đời sống gia đình và tự hỗ trợ. Những trợ cấp này tiếp tục được tăng cường thông qua sửa đổi mới năm 1962, dẫn tới sự bùng nổ khối lượng công tác xã hội và nhân lực tham gia trong thập niên tiếp sau. Sửa đổi Tiểu mục XX năm 1974 đã mở rộng phạm vi trợ cấp từ người nghèo lên đến cả tầng lớp trung lưu12.
Sự mở rộng nhanh chóng này của các dịch vụ trị liệu xã hội kích hoạt phản ứng bảo thủ trong các chính quyền Nixon và Reagan, cùng với những nỗ lực cắt giảm sự phát triển của chúng. Nhưng tới lúc đó, phản hồi liệu pháp đối với các vấn đề trong cuộc sống được hàng triệu người dân bình thường yêu cầu, những người bấy giờ cảm thấy kém thoải mái hơn khi phải tìm đến sự trợ giúp của mục sư, cha mẹ, công ty, và các nguồn đương trách truyền thống khác. Nhà nước liệu pháp đã lan sang một loạt thể chế khác, bao gồm cả khu vực phi lợi nhuận rộng lớn mà đến những năm 1990 trở thành phương tiện phân phối các dịch vụ xã hội được nhà nước tài trợ13.
Các trường đại học thấy mình ở tuyến đầu trong cuộc cách mạng liệu pháp. Điều này có thể được minh họa bằng cuộc tranh luận nổ ra năm 1987 liên quan đến khóa học bắt buộc về Văn hóa phương Tây của Đại học Stanford. Trong năm đó lãnh đạo phong trào quyền dân sự, mục sư Jesse Jackson, dẫn đầu một nhóm sinh viên Stanford hát vang, “Hây, hây, hô, hô, Văn hóa phương Tây phải ra đi” - ngay lập tức ngôi trường nhận được sự chú ý của toàn quốc. Thành phần lõi của khóa học lúc đó được xây dựng dựa trên mười lăm tác phẩm, bắt đầu với Kinh thánh Do Thái, Homer, và Augustine, tiếp tục đi qua Machiavelli và Galileo, và tiếp tới Marx, Darwin, và Freud. Những người phản đối đều muốn mở rộng giáo án bao gồm các tác giả không phải người da trắng và cả các nữ tác giả, không nhất thiết trên cơ sở sách của họ quan trọng hay có giá trị xuyên thời gian, mà bởi bản thân việc có sự xuất hiện của họ đã giúp nâng cao phẩm giá cho những nền văn hóa của họ, và theo đó là lòng tự trọng của những sinh viên đến từ những nền văn hóa đó.
Động cơ liệu pháp ẩn dưới yêu cầu thay đổi giáo trình thể hiện rõ ràng trong bản tường trình được Bill King, chủ tịch Hội Sinh viên Da đen của Stanford, đưa ra trong cuộc tranh luận ban đầu về khóa học Văn hóa phương Tây:
Tôi biết những giáo sư… đơn giản đang gìn giữ truyền thống mà họ cho là đúng… Nhưng bằng cách tập trung dạy những ý tưởng này cho tất cả chúng ta, họ đang nghiền nát tinh thần của những người khác mà với họ Locke, Hume, và Plato không liên quan gì, và họ đang từ chối trao cho các sinh viên năm nhất cơ hội được mở rộng quan điểm để chấp nhận cả Hume và Imhotep, Machiavelli và Al Malgili, Rousseau và Mary Wollstonecraft… Chương trình Văn hóa phương Tây, khi cấu trúc hiện tại xoay quanh một danh sách lõi và triết học lỗi thời với phương Tây là Hy Lạp, châu Âu, và Âu-Mỹ, là sai lầm, và tệ hơn, gây tổn thương cho mọi người về mặt tinh thần và cảm xúc theo những phương cách thậm chí không được thừa nhận14.
Điều được hé lộ trong tuyên bố của King là biện hộ của ông về việc thay đổi giáo trình hoàn toàn dựa trên tâm lý học: quy tắc hiện tại là “nghiền nát tinh thần” của sinh viên nữ và các nhóm thiểu số, và gây tổn thương cho mọi người “về mặt tinh thần và cảm xúc theo những phương cách thậm chí không được thừa nhận”. Một danh sách đọc rộng hơn sẽ không nhất thiết truyền tải những kiến thức có giá trị hoặc xuyên thời gian vốn quan trọng về mặt giáo dục; thay vào đó, nó giúp nâng cao lòng tự trọng của những sinh viên bị xem thường và khiến họ cảm thấy ổn hơn về bản thân15.
Mô hình liệu pháp xuất phát từ chính quan niệm hiện đại về bản sắc. Nó cho rằng chúng ta có những khoảng không sâu thẳm bên trong với những tiềm năng chưa được phát hiện, và rằng xã hội bên ngoài thông qua các nguyên tắc, vai trò, và kỳ vọng chịu trách nhiệm trong việc kìm hãm chúng ta. Điều này đòi hỏi cả việc mỗi cá nhân tự đo lường khoảng không nội tâm đó lẫn một chương trình tiềm năng mang tính cách mạng để giải phóng chúng ta khỏi những nguyên tắc kìm nén. Nhà trị liệu không đặc biệt quan tâm đến nội hàm thực sự của những gì bên trong chúng ta, hay câu hỏi trừu tượng rằng xã hội quanh ta công bằng hay không. Nhà trị liệu chỉ đơn giản quan tâm đến việc làm cho bệnh nhân của mình cảm thấy bản thân ổn hơn, thông qua việc nâng cao nhận thức về giá trị bản thân.
Sự trỗi dậy của mô hình liệu pháp đã đỡ đầu cho sự ra đời của chính trị bản sắc hiện đại tại những nền dân chủ tự do tiến bộ. Chính trị bản sắc ở khắp nơi đều là cuộc đấu tranh giành lấy sự công nhận phẩm giá. Nền dân chủ tự do dựa trên tiền đề rằng phẩm giá của mỗi công dân với tư cách cá nhân được thừa nhận một cách công bằng. Theo thời gian, phạm vi của việc thừa nhận phẩm giá một cách công bằng mở rộng cả về mặt lượng, dựa trên số người được chấp nhận là công dân với những quyền hợp pháp, lẫn mặt chất, dựa trên quan niệm vẫn đang phát triển về sự công nhận không chỉ các quyền chính thức mà cả lòng tự trọng thực sự.
Phẩm giá được dân chủ hóa. Nhưng chính trị bản sắc tại các nền dân chủ tự do bắt đầu tái hội tụ với các dạng thức tập thể và phi tự do của bản sắc như dân tộc và tôn giáo, vì thứ cá nhân thường xuyên mong muốn không phải là công nhận tính cá nhân, mà là công nhận sự tương đồng của họ với những người khác.
Phong trào tiềm năng con người được quảng bá bởi Viện Esalen, có một trong những giám đốc đầu tiên là Virginia Satin, mà báo cáo của Nhóm hành động California được dành để tưởng nhớ bà.↩︎
Abraham Maslow, A Theory of Human Motivation , (New York: Start Publishing, 2012).↩︎
Toward a State of Self-Esteem: The Final Report of the California Task Force to Promote Self-Esteem and Personal Social Responsibility (Sacramento: California State Department of Education, tháng Một, 1990), 18-19.↩︎
Ibid, 19, 24. Nhu cầu phổ quát về lòng tự trọng cũng được khẳng định qua Robert W. Fuller, Dignity for All: How to Create a World Without Rankism (Oakland, California: Berrett- Koehler Publishers, 2008).↩︎
Philip Rieff, The Triumph of the Therapeutic: Uses of Faith After Freud (Chicago: University of Chicago Press, 1966), 4, 13.↩︎
Để biết tổng quan xem thêm Katie Wright, The Rise of the Therapeutic Society: Psychological Knowledge and the Contradictions of Cultural Change (Washington, DC: New Academia Publishing, 2010), 13-28.↩︎
Lionel Trilling, Sincerity and Authenticity (Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press, 1972), 142.↩︎
Christopher Lasch, The Culture of Narcissism: American Life in an Age of Diminishing Expectations (New York: Norton, 1978), 10, 13.↩︎
Frank Furedi, Therapy Culture: Cultivating Vulnerability in an Uncertain Age (London: Routledge, 2004), 4-5, 10.↩︎
Robert H. Schuller, Self-Esteem: The New Reformation (Waco, Texas: Waco Books, 1982). Sách của Schuller thuộc truyền thống lâu đời của Mỹ về thể loại ấn phẩm tự học với những tác giả như Norman Vincent Peale. Về ví dụ xem thêm sách của Schuller Success Is Never Ending, Failure Is Never Final: How to Achieve Lasting Success Even in the Most Difficult Times (New York: Bantam Books, 1990).↩︎
Bob DeWaay, Redefining Christianity: Understanding the Purpose Driven Movement (Springfield, Missouri: 21st Century Press, 2006).↩︎
Andrew J. Polsky, The Rise of the Therapeutic State (Princeton, New Jersey: Princeton University Press, 1991), 158-164.↩︎
Ibid, 199-200.↩︎
Trích dẫn từ Herbert Lindenberger, “On the Sacrality of Reading Lists: The Western Culture Debate at Stanford University”, trong The History in Literature: On Value, Genre, Institutions (New York: Columbia University Press), 151.↩︎
Xu hướng chung của các trường đại học tiếp nhận một sứ mệnh mang tính liệu pháp được mô tả trong Frank Furedi, “The Therapeutic University”, American Interest 13 (1) (2017): 55-62.↩︎