← Quay lại trang sách

Chương 11 TỪ BẢN SẮC ĐẾN ĐA BẢN SẮC

Thập niên 1960 chứng kiến sự xuất hiện của một chuỗi phong trào xã hội mới với sức ảnh hưởng lớn tại các nền dân chủ tự do phát triển trên khắp thế giới. Tại Hoa Kỳ, phong trào quyền dân sự yêu cầu đất nước thực hiện lời hứa về bình đẳng chủng tộc vốn có trong Tuyên ngôn Độc lập và được đưa vào Hiến pháp vào cuối Nội chiến. Phong trào nữ quyền tiếp nối không lâu sau đó với yêu cầu tương tự về đối xử bình đẳng cho phụ nữ, mục tiêu vốn được khơi dậy lẫn định hình bởi số lượng khổng lồ phụ nữ gia nhập thị trường lao động. Cuộc cách mạng tự do tình dục phá tan chuẩn mực truyền thống về tính dục và gia đình, và cuộc cách mạng môi trường tái định hình thái độ trong quan hệ của nhân loại với tự nhiên. Những năm tiếp theo chứng kiến sự xuất hiện các phong trào khác nhằm thúc đẩy quyền của người khuyết tật, người Mỹ bản địa, người nhập cư, người đồng tính nam và nữ, và sau cùng là người chuyển giới.

Châu Âu chứng kiến sự bùng nổ tương tự theo sau những sự kiện (événements) tại Pháp vào tháng Năm năm 1968. Cánh cựu tả Pháp được thành lập quanh hạt nhân là nhóm Cộng sản nòng cốt, những người đồng cảm với họ bao gồm cả những trí thức nổi tiếng như Jean-Paul Sartre. Chính sách của họ tiếp tục tập trung vào tầng lớp lao động công nghiệp và cuộc cách mạng Mác-xít. Trong những cuộc nổi dậy năm 1968, thiên kiến này bị thế chỗ bởi nhiều vấn đề xã hội giống như những gì đã khuấy động Hoa Kỳ: quyền lợi của những nhóm thiểu số và nhập cư, địa vị của phụ nữ, chủ nghĩa môi trường, và những vấn đề tương tự. Cách mạng tư sản dường như không còn liên quan với những vấn đề mà châu Âu đương thời phải đối mặt. Những cuộc biểu tình của sinh viên và đình công đang lan rộng trên khắp nước Pháp được lặp lại bằng những diễn biến tương tự ở Đức, Hà Lan, Scandinavia, và những nơi khác. “Thế hệ 1968” của cánh tả này không còn chỉ tập trung đơn thuần vào đấu tranh giai cấp, mà vào việc ủng hộ quyền lợi của phạm vi rộng các nhóm yếu thế.

Những phong trào xã hội này xuất hiện khi chúng dựa trên khát vọng thừa nhận một cách công bằng phẩm giá của mọi công dân trong nền dân chủ tự do. Nhưng nền dân chủ không bao giờ đạt đến kỳ vọng này: mọi người thường bị phán xét không phải dựa trên nhân cách và khả năng cá nhân của họ, bất kể luật pháp quy định như thế nào, mà trên những giả định về họ với tư cách thành viên cộng đồng.

Tại Hoa Kỳ, định kiến này được phản ánh, một cách đáng xấu hổ, qua nhiều năm trong những đạo luật chính thống không cho phép trẻ em da đen được học tập cùng trẻ em da trắng, hay từ chối quyền bầu cử của phụ nữ với lý do họ không đủ lý trí. Nhưng ngay cả khi những đạo luật đó được thay đổi để xóa bỏ sự phân biệt trong trường học và trao quyền bỏ phiếu cho nữ giới, xã hội rộng lớn hơn không đột nhiên ngừng nghĩ về chính nó trên phương diện nhóm. Gánh nặng tâm lý về phân biệt đối xử, định kiến, bất kính, hay đơn giản là việc không được nhìn nhận vẫn ăn sâu trong ý thức xã hội. Chúng cũng tồn tại bởi các nhóm sẽ tiếp tục khác biệt với nhau trong hành vi, hiệu quả hoạt động, tài sản, truyền thống, và tục lệ.

Các phong trào xã hội mới xuất hiện trong thập niên 1960 ở những xã hội đủ phát triển để tư duy theo phương diện bản sắc, và các định chế tại đó đảm đương sứ mệnh liệu pháp trong việc nâng cao lòng tự trọng của mọi người. Cho tới những năm 1960, liên quan đến bản sắc chủ yếu còn có một bộ phận những người mong muốn hiện thực hóa tiềm năng cá nhân của mình. Nhưng với sự trỗi dậy của các phong trào xã hội này, hiển nhiên nhiều người bắt đầu nghĩ về mục đích và mục tiêu của mình trên khía cạnh phẩm giá của những nhóm mà họ là thành viên. Nghiên cứu về phong trào sắc tộc trên thế giới chỉ ra rằng lòng tự trọng cá nhân có liên hệ với lòng tự trọng cá nhân được ban cho trong một cộng đồng lớn hơn mà họ có liên kết, do đó tính chính trị sẽ ảnh hưởng đến tính cá nhân1. Mỗi phong trào đều đại diện cho những người bị coi là vô hình và bị đàn áp cho đến thời điểm đó, mỗi người đều phẫn nộ với sự vô hình đó và mong muốn giá trị nội tại của mình được công nhận. Từ đó, khái niệm mà ngày nay ta gọi là chính trị bản sắc hiện đại được sinh ra. Chỉ có thuật ngữ là mới, những nhóm này tái lập các cuộc đấu tranh và các quan điểm của các phong trào bản sắc dân tộc và tôn giáo trước đó.

Mỗi nhóm yếu thế đều có quyền lựa chọn nhìn nhận chính mình theo góc độ bản sắc rộng hơn hay hẹp hơn. Nó có thể yêu cầu xã hội đối xử với những thành viên của mình giống với cách mà các nhóm chiếm ưu thế trong xã hội được đối xử, hoặc có thể khẳng định bản sắc riêng biệt cho các thành viên và đòi hỏi sự tôn trọng cho họ như những người khác biệt với xã hội chính thống. Theo thời gian, chiến lược sau có xu thế giành phần thắng. Phong trào quyền dân sự thuở ban đầu của tiến sỹ Martin Luther King, Jr. đơn giản chỉ yêu cầu xã hội Mỹ đối xử với người da đen theo cách họ đối xử với người da trắng. Nó không công kích những chuẩn mực và giá trị vốn chi phối cách mà người da trắng đối xử với nhau hay yêu cầu thay đổi các thể chế dân chủ cơ bản của đất nước. Tuy nhiên, đến cuối thập niên 1960, những nhóm như Báo Đen hay Quốc gia Hồi giáo xuất hiện và lập luận rằng người da đen có truyền thống và ý thức riêng, người da đen cần tự hào về bản thân họ chứ không phải vì những gì mà xã hội rộng hơn mong muốn ở họ. Như lời thơ viết bởi William Holmes Borders Cha, và trích dẫn bởi mục sư Jesse Jackson, “Tôi có thể nghèo, nhưng tôi là-Ai đó!” Nội ngã thực sự của người Mỹ da đen không giống với người da trắng, mà được định hình bởi những kinh nghiệm độc nhất nhờ lớn lên là người da đen trong xã hội da trắng thù nghịch. Kinh nghiệm này được định hình bởi bạo lực, phân biệt chủng tộc, và sự phỉ báng mà những người lớn lên theo một cách khác sẽ không thể trân trọng.

Những chủ đề nói trên được đưa vào phong trào Black Lives Matter ngày nay, vốn xuất hiện nhằm đáp lại sự bạo hành của cảnh sát ở Ferguson (Missouri), Baltimore, New York, và các thành phố khác ở nước Mỹ. Phong trào này theo thời gian mở rộng từ yêu cầu đòi công lý cho những nạn nhân riêng biệt như Michael Brown hay Eric Garner, thành nỗ lực khiến mọi người ý thức được bản chất sự tồn tại hằng ngày của người Mỹ da đen. Các tác giả như Ta-Nehisi Coates kết nối bạo lực cảnh sát đương đại chống lại người Mỹ gốc Phi với ký ức lịch sử lâu đời về chế độ nô lệ và hành hình kiểu lynch (tử hình công khai, thường là treo cổ). Ký ức này cấu thành phần nào đó hố sâu nhận thức giữa người da đen và người da trắng dựa trên kinh nghiệm trải qua khác nhau của họ2.

Sự phát triển tương tự cũng xuất hiện bên trong phong trào nữ quyền, có điều nhanh chóng và mạnh mẽ hơn. Đòi hỏi của phong trào chủ đạo, giống như phong trào quyền dân sự thuở đầu, tập trung vào đối xử bình đẳng với phụ nữ trong công việc, giáo dục, tòa án… Nhưng ngay từ thời kỳ đầu một nhánh quan trọng của tư tưởng nữ quyền đã lý luận rằng ý thức và kinh nghiệm sống của nữ giới khác biệt cơ bản với nam giới, và mục tiêu của phong trào không chỉ đơn giản giúp phụ nữ dễ dàng cư xử và suy nghĩ giống với đàn ông. Cuốn sách có sức ảnh hưởng lớn xuất bản năm 1949 của Simone de Beauvoir, Giới tính Thứ hai (The Second Sex), khẳng định kinh nghiệm sống và cơ thể của phụ nữ đa phần được định hình bởi bản chất phụ quyền của xã hội quanh họ, và kinh nghiệm này hầu như không được nam giới nhận thấy3. Quan điểm này được bày tỏ một cách cực đoan hơn bởi học giả nữ quyền ngành luật là Catharine MacKinnon, với lập luận rằng: cưỡng hiếp và giao cấu “khó mà phân tách được” và đạo luật đương thời về cưỡng hiếp phản ánh góc nhìn của kẻ hiếp dâm. Trong khi không phải tất cả những ai soạn những đạo luật đó đều là kẻ hiếp dâm, bà nói, “họ là thành viên của một nhóm thực hiện [cưỡng hiếp] và làm điều đó vì những lý do thậm chí giống với những người không thực hiện, ví dụ như tính đực và đồng nhất hóa với chuẩn mực của giống đực”4.

Ý tưởng mỗi nhóm có bản sắc riêng của mình mà người bên ngoài không thể tiếp cận được phản ánh trong cách dùng thuật ngữ kinh nghiệm trải qua , vốn chứng kiến sự gia tăng bùng nổ trong văn hóa đại chúng kể từ thập niên 19705. Sự khác biệt giữa kinh nghiệm và kinh nghiệm trải qua có nguồn gốc từ sự khác biệt giữa hai từ tiếng Đức Erfahrung và Erlebnis , vốn ảnh hưởng đến một số nhà tư tưởng trong thế kỷ 19. Erfahrung đề cập đến kinh nghiệm có thể chia sẻ, như khi người ta chứng kiến thí nghiệm hóa học trong các phòng thí nghiệm khác nhau. Ngược lại, Erlebnis (có cấu phần là từ Leben , hay “cuộc sống”) nói đến nhận thức chủ quan về kinh nghiệm, vốn không nhất thiết có thể chia sẻ được. Tác giả Walter Benjamin lý luận trong một tiểu luận năm 1939 rằng đời sống hiện đại bao hàm một chuỗi các “kinh nghiệm bất ngờ”, vốn ngăn cá nhân nhìn thấy tổng thể cuộc sống của họ và khiến việc biến Erlebnis thành Erfahrung trở nên khó khăn. Ông coi việc này cũng tiêu cực như “một dạng man rợ mới” trong đó ký ức tập thể được chia nhỏ thành chuỗi ký ức đơn lẻ6. Chúng ta nên nhớ rằng trường phái tư duy này sau cùng bắt nguồn từ Jean-Jacques Rousseau, việc nhấn mạnh vào “cảm giác tồn tại” của ông đã đề cao cảm xúc nội tâm chủ quan hơn là các chuẩn mực và quan niệm chung của xã hội bao quanh.

Sự khác biệt giữa Erfahrung và Erlebnis cũng giống như sự khác biệt giữa kinh nghiệm và kinh nghiệm trải qua . Thuật ngữ sau đi vào ngôn ngữ Anh thông qua Simone de Beauvoir: quyển thứ hai của Giới tính Thứ hai có nhan đề L’expérience vécue , hay “kinh nghiệm trải qua”. Bà lập luận rằng kinh nghiệm trải qua của phụ nữ không giống với kinh nghiệm trải qua của đàn ông. Kinh nghiệm chủ quan của phụ nữ tạo nên nhận biết về tính chủ quan như vậy, được áp dụng cho các nhóm và phạm trù khác: chúng dựa trên chủng tộc, sắc tộc, định hướng giới tính, khuyết tật, và những thứ tương tự. Trong mỗi phạm trù này, kinh nghiệm trải qua lại khác nhau: kinh nghiệm của người đồng tính nam và nữ khác với người chuyển giới; đàn ông da đen ở Baltimore có kinh nghiệm khác với phụ nữ da đen ở Birmingham, Alabama.

Điểm mới nổi bật của kinh nghiệm trải qua phản ánh bản chất rộng hơn của quá trình hiện đại hóa dài hạn, điều được chúng ta lưu ý trước đó tạo điều kiện phát triển cho vấn đề bản sắc ngay từ đầu. Hiện đại hóa làm xuất hiện xã hội phức tạp với sự phân công lao động tinh vi, dịch chuyển cá nhân vốn là nền tảng tất yếu của nền kinh tế thị trường hiện đại, và sự dịch chuyển từ làng xã lên thành phố vốn tạo ra tính đa nguyên phong phú cho những cá nhân sống cạnh nhau. Trong xã hội đương đại, biến đổi xã hội này được làm sâu sắc thêm thông qua công nghệ truyền thông và phương tiện xã hội hiện đại, cho phép cá nhân có quan điểm tương đồng thuộc những khu vực địa lý riêng rẽ giao tiếp với nhau. Trong thế giới như vậy, kinh nghiệm trải qua, và theo đó là bản sắc, bắt đầu sinh sôi theo cấp số nhân, giống như những ngôi sao trên YouTube và nhóm Facebook trên mạng. Thứ cũng bị xóa nhòa nhanh chóng như vậy là khả năng về “kinh nghiệm” lỗi thời, nghĩa là những quan điểm và cảm giác có thể được chia sẻ vượt qua giới hạn các nhóm.

Bước ngoặt liệu pháp mà các định chế như trường học, đại học, trung tâm y tế, và các dịch vụ xã hội khác đã lựa chọn hàm ý rằng các định chế này sẵn sàng chăm lo tâm lý người dân - thứ isothymia thúc đẩy mỗi phong trào xã hội - cũng như trạng thái thể chất của họ. Với nhận thức đang phát triển của nhóm thiểu số và phụ nữ trở nên mạnh mẽ hơn trong những năm 1970 và 1980, một bộ từ vựng và khuôn khổ được chuẩn bị sẵn để thấu hiểu trải nghiệm bị xem thường của họ. Bản sắc, vốn từng là vấn đề cá nhân, giờ trở thành đặc tính của những nhóm được cho là có văn hóa riêng, được định hình bởi kinh nghiệm trải qua của bản thân họ.

Chủ nghĩa đa văn hóa mô tả về các xã hội vốn đa dạng trên thực tế. Nhưng nó cũng trở thành nhãn hiệu cho một chương trình chính trị tìm cách đánh giá mỗi nền văn hóa đơn lẻ và mỗi kinh nghiệm trải qua như nhau, và đặc biệt là những thứ từng vô hình hoặc bị đánh giá thấp trong quá khứ. Trong khi chủ nghĩa tự do cổ điển tìm cách bảo vệ quyền tự chủ của mỗi cá nhân bình đẳng, hệ tư tưởng mới về chủ nghĩa đa văn hóa khuyến khích sự tôn trọng ngang bằng dành cho các nền văn hóa, kể cả khi những nền văn hóa đó hạn chế quyền tự chủ của cá nhân tham gia.

Chủ nghĩa đa văn hóa ban đầu được sử dụng để đề cập tới những nhóm văn hóa lớn như những người Canada nói tiếng Pháp, hoặc người Hồi giáo nhập cư hay người Mỹ gốc Phi. Nhưng những nhóm này đã bị phân hóa thành những nhóm nhỏ và đặc trưng hơn với những kinh nghiệm riêng biệt, cũng như những nhóm được xác định bởi sự giao thoa giữa các dạng thức phân biệt đối xử khác nhau, chẳng hạn như phụ nữ da màu, những người vốn có đời sống không thể thấu hiểu được nếu chỉ nhìn dưới từng lăng kính riêng chỉ của chủng tộc hoặc giới7.

Một nhân tố nữa thúc đẩy sự dịch chuyển vấn đề trọng tâm sang bản sắc là khó khăn ngày càng tăng trong việc xây dựng các chính sách mang tới thay đổi kinh tế-xã hội trên quy mô lớn. Đến những năm 1970 và 1980, nhóm cấp tiến tại các nước phát triển phải đối mặt với cuộc khủng hoảng về sự tồn tại. Cánh tả thủ cựu trong nửa đầu thế kỷ 20 được xác định bởi chủ nghĩa Marx và trọng tâm của nó là giai cấp lao động và cách mạng tư sản. Cánh tả dân chủ xã hội, khác với chủ nghĩa Marx, chấp nhận nền dân chủ tự do như một khuôn khổ, lại có một chương trình chính sách khác: tìm cách mở rộng nhà nước phúc lợi mang lại an sinh xã hội lớn hơn cho nhiều người hơn. Trong cả các biến thể theo chủ nghĩa Marx và biến thể dân chủ xã hội, cánh tả hy vọng tăng cường bình đẳng kinh tế-xã hội thông qua sử dụng quyền lực nhà nước, nhằm mở ra việc tiếp cận với các dịch vụ xã hội cho mọi công dân lẫn tái phân phối của cải và thu nhập.

Hạn chế của chiến lược này trở nên rõ ràng về cuối thế kỷ 20. Cánh tả Mác-xít phải đối mặt với sự thật: các xã hội Cộng sản thực tế ở Liên Xô đã bộc lộ những hạn chế. Trong khi đó, giai cấp lao động tại phần lớn các nền dân chủ công nghiệp hóa trở nên giàu có hơn và bắt đầu hòa nhập một cách ôn hòa với giai cấp trung lưu. Cách mạng cộng sản và sự xóa bỏ tài sản tư nhân biến mất khỏi chương trình nghị sự.

Cánh tả dân chủ xã hội cũng lâm vào vòng luẩn quẩn: các mục tiêu về một nhà nước phúc lợi không ngừng mở rộng vấp phải thực tế chính sách tài khóa thắt chặt trong thập niên 1970 đầy biến động. Nhiều chính phủ phản ứng bằng cách in thêm tiền, dẫn đến lạm phát và khủng hoảng tài chính; chương trình tái phân phối tạo ra những ưu đãi sai lầm làm thoái chí tinh thần lao động, tiết kiệm, và kinh doanh, và đến lượt mình những điều này lại giới hạn kích cỡ nguồn lực khả dụng cho tái phân phối. Bất bình đẳng vẫn bám rễ sâu sắc, bất chấp nỗ lực đầy tham vọng nhằm xóa bỏ nó như chương trình Xã hội Vĩ đại của Lyndon Johnson. Với sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 và sự dịch chuyển sang kinh tế thị trường của Trung Quốc sau năm 1978, cánh tả Mác-xít phần lớn đã suy yếu. Cũng như cánh hữu, cánh tả có chung sự tan vỡ ảo mộng ngày càng lớn về bản thân chính phủ sau những thất bại như Chiến tranh Việt Nam và vụ bê bối Watergate.

Tham vọng về cải cách kinh tế-xã hội quy mô lớn bị suy giảm đã hòa vào sự tiếp nhận chính trị bản sắc và chủ nghĩa đa văn hóa của cánh tả trong những thập niên cuối của thế kỷ 20. Cánh tả tiếp tục được định nghĩa thông qua niềm say mê đối với quyền bình đẳng, những chương trình nghị sự đang ngày càng mở rộng, chuyển từ trọng tâm trước đây về điều kiện của giai cấp lao động sang đòi hỏi thường là về mặt tâm lý của tập hợp các nhóm yếu thế. Nhiều nhà hoạt động dần nhìn nhận giai cấp lao động cũ và nghiệp đoàn của họ như một tầng lớp đặc quyền, [tầng lớp này] ít dành sự cảm thông đối với các hoàn cảnh còn khó khăn hơn của nhóm người nhập cư hay dân tộc thiểu số. Sự đấu tranh để được công nhận nhắm đến các nhóm mới và quyền lợi của họ dưới tư cách nhóm, thay vì nhắm đến bất bình đẳng kinh tế của cá nhân. Trong quá trình đó, giai cấp lao động cũ bị bỏ lại phía sau.

Điều tương tự diễn ra ở các nước châu Âu như Pháp, nơi cánh tả thủ cựu luôn nổi bật hơn ở Hoa Kỳ. Sau những sự kiện tháng Năm năm 1968, mục tiêu cách mạng của cánh tả cựu Mác-xít dường như không còn liên quan tới một châu Âu mới đang nổi lên. Chính sách của cánh tả chuyển hướng sang văn hóa: thứ cần bị phá bỏ không phải là trật tự chính trị hiện hành đang bóc lột giai cấp lao động, mà là sự đồng nhất về văn hóa và các giá trị phương Tây vốn đàn áp nhóm thiểu số cả tại quê nhà lẫn tại các nước đang phát triển bên ngoài8. Chủ nghĩa Marx cổ điển chấp nhận nhiều nền tảng thuộc thời kỳ Khai sáng phương Tây: niềm tin vào khoa học và tính duy lý, vào tiến bộ lịch sử, và vào sự ưu việt của xã hội hiện đại so với xã hội truyền thống. Ngược lại, cánh tả văn hóa mới mang tính Nietzsche và tính tương đối nhiều hơn, công kích giá trị dân chủ và Kitô giáo mà Khai sáng phương Tây lấy làm nền tảng. Văn hóa phương Tây được xem như nơi nuôi dưỡng chủ nghĩa thực dân, chế độ phụ quyền, và sự phá hủy môi trường. Chỉ trích này tiếp đó thẩm thấu ngược trở lại Hoa Kỳ dưới dạng chủ nghĩa hậu hiện đại và chủ nghĩa giải kiến tạo (deconstructionism) tại các trường đại học Mỹ.

Công dân châu Âu trở nên đa văn hóa hơn, cả trên thực tế lẫn về vấn đề nguyên lý. Cộng đồng nhập cư, thường chủ yếu là người Hồi giáo, sinh sôi tại nhiều nước châu Âu nhằm đáp ứng thiếu hụt lao động thời hậu Thế chiến II. Trong những ngày đầu, các nhà hoạt động thuộc cộng đồng này đeo đuổi việc đòi quyền bình đẳng cho người nhập cư và con cái của họ, nhưng cảm thấy tuyệt vọng bởi các rào cản nối tiếp nhau đối với quá trình dịch chuyển đi lên và hòa nhập xã hội. Được truyền cảm hứng từ cả Cách mạng Iran 1979 và sự ủng hộ của Ả Rập Xê Út cho nhà thờ và trường học Hồi giáo Salafi, các nhóm Hồi giáo bắt đầu xuất hiện ở châu Âu với lập luận rằng người Hồi giáo không nên tìm cách hòa nhập mà thay vào đó nên duy trì những thể chế văn hóa riêng biệt. Nhiều người thuộc cánh tả ở châu Âu trân trọng xu hướng này, coi những người theo chủ nghĩa Hồi giáo như phát ngôn viên thực thụ của nhóm yếu thế nhiều hơn là người Hồi giáo Tây hóa vốn chọn cách hòa nhập với hệ thống xã hội9. Tại Pháp, người Hồi giáo trở thành giai cấp vô sản mới, với một phần cánh tả rời bỏ chủ nghĩa thế tục nhân danh chủ nghĩa đa nguyên văn hóa. Lời chỉ trích cho rằng chính người theo chủ nghĩa Hồi giáo không khoan dung và phi tự do thường bị hạ thấp thông qua chiêu bài chống phân biệt chủng tộc và chống bài xích Hồi giáo.

Chính sách đang thay đổi của cánh tả cấp tiến tại Hoa Kỳ và châu Âu có cả ưu điểm và nhược điểm. Việc tiếp nhận chính trị bản sắc là cần thiết và có thể hiểu được. Kinh nghiệm trải qua của các nhóm bản sắc có sự khác biệt với nhau và thường cần được giải quyết theo những cách dành riêng cho nhóm đó. Những người không thuộc nhóm thường thất bại trong việc nhận thức mối nguy hại họ đang gây ra qua hành động của mình, như nhiều nam giới đã nhận ra trong bối cảnh của phong trào #MeToo vốn hướng sự chú ý đến việc quấy rối và tấn công tình dục. Chính trị bản sắc nhắm đến thay đổi văn hóa và hành vi theo cách giúp tạo ra lợi ích thực sự cho những người có liên quan.

Bằng cách hướng sự chú ý vào những kinh nghiệm cụ thể hơn về bất công, chính trị bản sắc mang lại thay đổi dễ chấp nhận trong những chính sách công cụ thể có lợi cho nhóm đang được quan tâm, cũng như cho chuẩn mực văn hóa. Phong trào Black Lives Matter khiến các sở cảnh sát trên khắp nước Mỹ ý thức rõ hơn về cách họ đối xử với công dân thiểu số, dù rằng trường hợp cảnh sát ngược đãi vẫn tiếp diễn. Phong trào #MeToo mở rộng quan niệm phổ biến về tấn công tình dục, và mở ra cuộc tranh luận về sự thiếu tương xứng trong cách đối phó với hiện tượng này của luật pháp hình sự hiện hành. Hệ quả quan trọng nhất của nó có lẽ là sự thay đổi chuẩn mực trên quy mô rộng lớn mà nó mang lại đối với cách nữ giới và nam giới tương tác tại nơi làm việc trong và ngoài nước Mỹ.

Như vậy, không có gì trái với chính trị bản sắc kể trên, nó là phản ứng tự nhiên và không thể tránh khỏi đối với bất công. Nó chỉ trở nên có vấn đề khi bản sắc được diễn giải hay đánh giá theo những cách thức cụ thể nhất định. Chính trị bản sắc đối với một số người cấp tiến trở thành phương thức rẻ tiền thay thế cho tư duy nghiêm túc về cách thức đảo ngược xu thế hướng tới bất bình đẳng kinh tế-xã hội lớn hơn đã tồn tại ba thập niên tại hầu hết các nền dân chủ tự do. Việc bàn luận vấn đề văn hóa bên trong ranh giới của các thể chế tinh hoa dễ dàng hơn việc phân bổ tiền bạc hay thuyết phục những nhà lập pháp hoài nghi nhằm thay đổi chính sách. Hiện thân rõ ràng nhất của chính trị bản sắc đã xuất hiện tại khuôn viên các trường đại học từ những năm 1980 trở đi. Giáo trình đại học có thể dễ dàng được chỉnh sửa để bao gồm tác phẩm của tác giả nữ và tác giả thiểu số, hơn là thay đổi thu nhập hay tình trạng xã hội của các nhóm được quan tâm. Nhiều cử tri vốn từng là tiêu điểm của các yêu sách về bản sắc gần đây, như các nữ giám đốc tại Thung lũng Silicon hay các nữ diễn viên và nhà làm phim đầy cảm hứng tại Hollywood, gần như nằm ở nhóm cao nhất trong phân phối thu nhập. Giúp họ đạt được bình đẳng là điều tốt, nhưng sẽ không có tác dụng gì trong việc giải quyết sự cách biệt rõ ràng giữa nhóm 1% cao nhất và 99% còn lại.

Điều này chỉ ra vấn đề thứ hai nổi lên với trọng tâm là các nhóm yếu thế mới hơn và được xác định trong phạm vi hẹp hơn: nó chuyển sự chú ý ra khỏi nhóm cũ lớn hơn vốn có những vấn đề nghiêm trọng nhưng lại bị phớt lờ. Một phần đáng kể giai cấp lao động người Mỹ da trắng bị kéo xuống giai cấp cùng khổ, tương đương với tình trạng của người Mỹ gốc Phi trong thập niên 1970 và 1980. Thế nhưng người ta được nghe những nhà hoạt động cánh tả than phiền, ít nhất là gần đây, về cuộc khủng hoảng tồi tệ về thuốc giảm đau opioid, hay số phận của những trẻ em lớn lên trong những gia đình nghèo khó với bố hoặc mẹ đơn thân tại nông thôn Hoa Kỳ. Những người cấp tiến ngày nay không có chiến lược tham vọng để đương đầu với nguy cơ suy giảm việc làm khổng lồ theo sau công cuộc tự động hóa đang gia tăng, hay bất bình đẳng thu nhập mà công nghệ có thể gây ra cho người Mỹ, dù là da trắng hay da đen, nam hay nữ. Vấn đề tương tự đang giày vò đảng phái cánh tả ở châu Âu: Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội Pháp mất một lượng lớn cử tri vào tay Đảng Mặt trận Quốc gia trong những thập niên gần đây, trong khi sự chấp nhận của Đảng Dân chủ Xã hội Đức đối với việc Angela Merkel chào đón người nhập cư Syria dẫn đến sự rời bỏ tương tự trong các cuộc bầu cử năm 201710.

Vấn đề thứ ba với quan niệm hiện tại về bản sắc là chúng có thể đe dọa tự do ngôn luận, rộng hơn, đe dọa biện luận duy lý vốn cần thiết để duy trì nền dân chủ. Nền dân chủ tự do cam kết bảo vệ quyền được phát ngôn bất cứ điều gì bạn muốn trong không gian đầy ý tưởng, đặc biệt trong không gian chính trị. Nhưng mối bận tâm về bản sắc lại xung đột với nhu cầu diễn ngôn thảo luận. Việc tập trung vào kinh nghiệm trải qua của các nhóm bản sắc sẽ xác định giá trị nội ngã được trải nghiệm về cảm xúc thay vì được nhìn nhận một cách duy lý. Một nhà quan sát lưu ý, “Nền văn hóa chính trị của chúng ta được đánh dấu, ở cấp độ vi mô, bằng sự hòa trộn ý kiến của một người nhất định và thứ họ coi là bản ngã đơn ngẫu, vĩnh cửu, và thực thụ”. Điều này ưu ái cho ý kiến được đưa ra một cách chân thành hơn là những cân nhắc có lý vốn có thể ép người ta từ bỏ ý kiến đó11. Việc lập luận mang tính công kích vào cảm nhận giá trị bản thân của mỗi người thường được coi là điều kiện đủ để phi chính danh hóa lập luận đó, một xu hướng được khuyến khích bởi kiểu diễn ngôn dạng ngắn được truyền bá qua truyền thông xã hội12.

Chiến lược chính trị xây dựng cánh tả từ một liên minh các nhóm bản sắc khác biệt cũng có vấn đề, như Mark Lilla giải thích13. Sự rối loạn chức năng và suy bại hiện tại của hệ thống chính trị Mỹ có liên quan tới sự phân cực cực đoan và lớn mạnh chưa từng thấy trong chính trị Mỹ, biến việc quản trị thường ngày trở thành thực hành chính sách “bên miệng hố chiến tranh” và đe dọa chính trị hóa toàn bộ các định chế của đất nước. Trách nhiệm đối với quá trình phân cực hóa này không được chia sẻ công bằng giữa cánh tả và cánh hữu. Như Thomas E. Mann và Norman Ornstein lập luận, Đảng Cộng hòa dịch chuyển về phía các quan điểm cực đoan do Đảng Tiệc Trà đại diện, nhanh hơn Đảng Dân chủ dịch chuyển về cánh tả14. Nhưng cánh tả cũng đang trở nên thiên tả hơn. Trong quá trình đó, cả hai đảng đang phản ứng lại động lực mà hệ thống bầu cử lưỡng đảng và bầu cử phổ thông tạo ra cho các nhà hoạt động có ý thức chính trị. Những nhà hoạt động quan tâm nhất đến vấn đề bản sắc hiếm khi đại diện cho toàn thể cử tri đoàn trên quy mô rộng, thực chất, mối quan tâm của họ thường xa lạ với cử tri chính thống. Hơn nữa, chính bản chất của bản sắc hiện đại nhấn mạnh kinh nghiệm trải qua tạo ra xung đột bên trong liên minh tự do. Ví dụ, tranh luận quanh vấn đề “chiếm dụng văn hóa” vẫn luôn đẩy những người da đen và da trắng cấp tiến vào thế đối đầu15.

Vấn đề cuối cùng, và có lẽ quan trọng nhất, đối với chính trị bản sắc mà cánh tả hiện tại đang thực hành là việc nó thúc đẩy sự trỗi dậy của chính trị bản sắc ở cánh hữu. Chính trị bản sắc mở đường cho đúng đắn chính trị (political correctness), đối lập với nguồn huy động chính của cánh hữu. Kể từ khi thuật ngữ sau trở thành vấn đề trung tâm của cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016, ta cần phải tĩnh lại một chút để nghĩ về nguồn gốc của cụm từ này.

Đúng đắn chính trị đề cập đến những điều bạn không thể nói công khai mà không sợ bị sỉ nhục về mặt đạo đức. Mọi xã hội đều có những ý tưởng nhất định đối lập với những ý tưởng nền tảng về tính chính danh và do đó nằm ngoài giới hạn của việc nghị luận công khai. Trong nền dân chủ tự do, người ta không bị ràng buộc trong việc tin tưởng và đưa ý kiến riêng tư rằng Hitler đã đúng khi giết hại người Do Thái, hay chế độ nô lệ là thể chế nhân từ. Theo Tu chính án Thứ Nhất của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, quyền được phát ngôn những điều nói trên cũng được hiến pháp bảo vệ. Nhưng sự sỉ nhục đáng kể về đạo đức sẽ được sử dụng một cách chính đáng để tuyên bố chống lại bất kỳ nhân vật chính trị nào tán thành những quan điểm đó, bởi chúng đi ngược với nguyên tắc bình đẳng được đề ra trong Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ. Tại nhiều nền dân chủ châu Âu vốn không có chung quan điểm tuyệt đối (absolutist view) về tự do ngôn luận như Hoa Kỳ, những tuyên bố tương tự bị hình sự hóa trong nhiều năm.

Thế nhưng hiện tượng xã hội về đúng đắn chính trị còn phức tạp hơn vậy. Việc liên tục khám phá ra những bản sắc mới và cơ sở cho ngôn luận được chấp nhận đang dịch chuyển, trở nên khó theo dõi: hố cống (hố ga) giờ có tên gọi hố bảo trì , tên của đội bóng bầu dục Washington Redskins (Người da đỏ) bị hạ cấp xuống thành Người Mỹ Bản địa; việc dùng anh ấy hay cô ấy trong ngữ cảnh không phù hợp chứng tỏ sự thiếu nhạy cảm đối với người chuyển giới hay liên giới tính. Nhà sinh vật học lỗi lạc E.O. Wilson từng bị đổ một xô nước lên đầu vì gợi ý rằng một số khác biệt giới tính có cơ sở sinh học. Không một từ nào kể trên có ý nghĩa quan trọng đối với nguyên tắc dân chủ nền tảng, những gì chúng gây ra là thách thức phẩm giá của một nhóm cá biệt và chỉ rõ sự thiếu hụt nhận thức hoặc cảm thông đối với thách thức và đấu tranh đặc thù của nhóm đó.

Dạng thức cực đoan hơn của đúng đắn chính trị xét cho cùng là lĩnh vực của một số tương đối ít các nhà văn, nghệ sỹ, sinh viên, và trí thức cánh tả. Nhưng chúng bị giới truyền thông bảo thủ nhặt nhạnh và phóng đại thành đại diện cho toàn bộ cánh tả. Điều này có lẽ giải thích một trong những khía cạnh phi thường của cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016, đó là sự nổi tiếng không ngừng của Donald Trump giữa một nhóm người ủng hộ cốt lõi bất chấp hành vi vốn đã có thể kết liễu sự nghiệp của bất kỳ chính trị gia nào khác. Trong chiến dịch của mình, ông chế nhạo một phóng viên tàn tật; ông bị tiết lộ đã khoe khoang mình từng sàm sỡ phụ nữ; và ông mô tả người Mexico là những kẻ tội phạm và hiếp dâm. Trong khi nhiều người ủng hộ ông có thể không tán thành từng tuyên bố riêng lẻ, họ lại thích thực tế là ông không bị đe dọa bởi áp lực phải đúng đắn về mặt chính trị. Trump là người thực hiện hoàn hảo những nguyên tắc đạo đức đích thực vốn định rõ trong thời đại chúng ta: có thể ông ta láo xược, hiểm ác, mù quáng, và không giống một vị tổng thống, nhưng ít nhất ông ta nói những gì mình nghĩ.

Bằng cách đương đầu trực diện với đúng đắn chính trị, Trump đóng vai trò then chốt trong việc dịch chuyển trọng tâm chính trị bản sắc từ cánh tả, nơi nó được sinh ra, sang cánh hữu, nơi giờ đây nó đang bắt rễ. Chính trị bản sắc khuynh tả có xu hướng chính danh hóa chỉ một vài bản sắc nhất định trong khi phớt lờ hoặc hạ thấp những bản sắc còn lại, chẳng hạn như người châu Âu (nghĩa là, người da trắng), tín ngưỡng Kitô, cư dân nông thôn, niềm tin vào giá trị gia đình truyền thống, và các phạm trù liên quan. Nhiều người ủng hộ Donald Trump thuộc tầng lớp lao động cảm thấy họ bị giới tinh hoa dân tộc phớt lờ. Hollywood sản xuất những bộ phim với những nhân vật mạnh mẽ là người đồng tính, da đen, hoặc nữ giới, song chỉ số ít lấy trọng tâm là những người như bản thân họ, trừ vài trường hợp để nhạo báng (thử nghĩ về phim Talladega Nights của Will Ferrell). Người dân nông thôn, vốn là xương sống của phong trào dân túy không chỉ ở Hoa Kỳ mà ở cả Anh, Hungary, Ba Lan, và những nước khác, thường tin rằng các giá trị truyền thống của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi giới tinh hoa thành thị thời thượng. Họ cảm thấy mình là nạn nhân bởi thứ văn hóa phi tôn giáo, đủ cẩn trọng để không chỉ trích Hồi giáo hay Do Thái giáo, nhưng vẫn xem Kitô giáo của bản thân họ như dấu hiệu của sự mù quáng. Họ cảm thấy truyền thông của giới tinh hoa đặt họ vào vòng nguy hiểm thông qua đúng đắn chính trị, giống như khi báo chí chính thống Đức trong một vài ngày không đưa tin vụ sàm sỡ và tấn công tình dục hàng loạt bởi một nhóm đông gồm phần lớn là nam giới Hồi giáo tại lễ mừng năm mới 2016 ở Cologne, chỉ vì nỗi sợ sẽ kích động nạn bài Hồi giáo.

Nguy hiểm nhất trong số bản sắc cánh hữu này là bản sắc liên hệ đến chủng tộc. Tổng thống Trump thận trọng để không thể hiện công khai quan điểm phân biệt chủng tộc. Nhưng ông hào hứng chấp nhận sự ủng hộ từ những nhóm và cá nhân giữ quan điểm này. Khi còn là ứng cử viên ông đã lẩn tránh việc chỉ trích cựu lãnh đạo David Duke của Ku Klux Klan và sau cuộc biểu tình “Đoàn kết Cánh hữu” tại Charlottesville, Virginia tháng Tám năm 2017, đã đổ tội gây bạo lực lên “cả hai phe”. Ông dành nhiều thời gian chọn ra những vận động viên và minh tinh da đen để chỉ trích. Đất nước trở nên phân cực hơn trong việc liệu có nên dỡ bỏ những tượng đài vinh danh anh hùng Liên bang miền Nam hay không, một vấn đề mà Trump cảm thấy vui khi khai thác. Kể từ khi ông ta nổi lên, chủ nghĩa dân tộc da trắng chuyển từ phong trào bên lề thành chủ đạo hơn trong nền chính trị Mỹ. Những người ủng hộ điều này lập luận rằng việc nói về phong trào Black Lives Matter hay quyền người đồng tính hay cử tri gốc La-tinh như các nhóm có thể được tổ chức hợp pháp xung quanh một bản sắc cá biệt là chấp nhận được về mặt chính trị. Nhưng ngay khi người ta dùng tính từ da trắng để tự định danh, hoặc tệ hơn nữa, thành lập tổ chức chính trị xoay quanh chủ đề “quyền của người da trắng”, thì sẽ lập tức bị gán cho là phân biệt chủng tộc và mù quáng, những người dân tộc chủ nghĩa da trắng phàn nàn.

Điều tương tự đang xảy ra tại những nền dân chủ tự do khác. Chủ nghĩa dân tộc da trắng có lịch sử lâu đời ở châu Âu, nơi nó có tên là chủ nghĩa phát-xít. Chủ nghĩa phát-xít bị đánh bại về mặt quân sự năm 1945 và bị áp chế một cách cẩn trọng kể từ đó. Thế nhưng những sự kiện gần đây nới lỏng một số ràng buộc này. Hậu quả của cuộc khủng hoảng người tị nạn giữa thập niên 2010 là sự xuất hiện một cơn hoảng loạn tại Đông Âu về khả năng người nhập cư Hồi giáo thay đổi mức độ cân bằng nhân khẩu trong khu vực. Vào tháng Mười một năm 2017, nhân kỷ niệm ngày độc lập của Ba Lan, ước tính khoảng sáu mươi nghìn người tuần hành qua Warsaw và hát vang “Ba Lan thuần khiết, Ba Lan da trắng” và “Người nhập cư cút đi!” (điều này xảy ra bất chấp Ba Lan có số lượng người nhập cư khá ít). Đảng cầm quyền pháp luật và Công lý mang tính dân túy lánh xa khỏi người biểu tình, nhưng giống như Donald Trump, gửi đi các thông điệp lẫn lộn với gợi ý rằng họ không phải hoàn toàn thiếu thiện cảm với mục tiêu của người tuần hành16.

Những người ủng hộ chính trị bản sắc cánh tả lập luận rằng sự khẳng định bản sắc phía cánh hữu là không có tính chính danh và không thể được đặt trên cùng trục đạo đức với nhóm thiểu số, nữ giới hoặc yếu thế khác. Thay vào đó, chúng phản ánh góc nhìn của nền văn hóa thống trị chủ đạo, [nền văn hóa] hưởng đặc quyền trong lịch sử cho đến tận bây giờ.

Những lập luận này đều chứa đựng sự thật hiển nhiên. Cách những người bảo thủ nhìn nhận về lợi thế được trao một cách thiếu công bằng cho nhóm thiểu số, nữ giới, hoặc nhập cư bị thổi phồng quá mức, giống như nhận thức rằng đúng đắn chính trị bao phủ mọi nơi. Truyền thông xã hội đóng góp lớn cho vấn đề này, khi mà một bình luận hoặc sự vụ đơn lẻ có thể lan ra trên khắp mạng Internet và trở thành biểu trưng của cả một tập hợp người. Thực tế là đối với nhiều nhóm yếu thế, mọi chuyện vẫn tiếp diễn như trước: người Mỹ gốc Phi tiếp tục là đối tượng của bạo hành từ cảnh sát, phụ nữ tiếp tục bị tấn công và quấy rối.

Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là cách cánh hữu tiếp nhận ngôn ngữ và khuôn khổ bản sắc từ cánh tả: ý tưởng cho rằng nhóm đặc thù của tôi đang bị biến thành nạn nhân, hoàn cảnh và nỗi thống khổ của họ vô hình đối với phần còn lại của xã hội, và toàn bộ cấu trúc xã hội và chính trị chịu trách nhiệm cho vấn đề này (nghĩa là: truyền thông và giới tinh hoa chính trị) cần phải được phá bỏ. Chính trị bản sắc là lăng kính mà qua đó phần lớn các vấn đề xã hội giờ đây được nhìn nhận dọc theo một dải hệ tư tưởng.

Nền dân chủ tự do có lý do xác đáng để không tổ chức xung quanh một chuỗi các nhóm bản sắc không ngừng sinh sôi và vốn không chấp nhận người ngoài. Tính động của chính trị bản sắc là nhằm kích thích nhiều hơn nữa sự tương đồng, khi các nhóm bản sắc bắt đầu nhìn nhận nhau như mối đe dọa. Không giống cuộc chiến tranh giành nguồn lực kinh tế, đòi hỏi bản sắc thường không thể thỏa hiệp: quyền được xã hội công nhận dựa trên chủng tộc, sắc tộc, hay giới tính được dựa trên đặc điểm sinh học cố định và không thể được trao đổi để lấy hàng hóa khác hoặc bị tước đoạt theo bất kỳ cách nào.

Bất chấp niềm tin của một số người ủng hộ nhất định thuộc cả cánh tả lẫn cánh hữu, bản sắc không được xác định theo sinh học; mặc dù được định hình thông qua kinh nghiệm và môi trường, bản sắc vẫn có thể được định nghĩa theo các thuật ngữ mang tính tập trung chặt chẽ hoặc theo nghĩa rộng hơn. Việc tôi được sinh ra theo một cách nhất định không có nghĩa là tôi phải tư duy theo cách nhất định; kinh nghiệm trải qua sau cùng có thể được diễn giải thành kinh nghiệm chia sẻ. Xã hội cần bảo vệ những người bị đẩy ra ngoài lề và bị chối bỏ, nhưng xã hội cũng cần đạt đến mục tiêu chung thông qua tính toán cân nhắc và đồng thuận. Dịch chuyển trong chương trình nghị sự ở cả cánh tả và hữu hướng về bảo vệ bản sắc của nhóm nhỏ hơn cuối cùng lại đe dọa khả năng truyền thông và hành động tập thể. Phương thuốc cho vấn đề này không phải là rũ bỏ ý tưởng về bản sắc, vốn là một phần quá lớn trong cách con người hiện đại tư duy về bản thân và xã hội xung quanh. Phương pháp sửa chữa đó là định nghĩa bản sắc dân tộc rộng hơn và mang tính hòa nhập hơn, có xét đến sự phong phú thực tế của xã hội dân chủ tự do đang tồn tại. Đây là chủ đề của hai chương tiếp theo.

Donald Horowitz, Ethnic Groups in Conflict (Berkeley: University of California Press, 1985), 141-43.↩︎

Ta-Nehisi Coates, Between the World and Me (New York: Spiegel and Grau, 2015), 7-10.↩︎

Simone de Beauvoir, The Second Sex (New York: Alfred A. Knopf, 1953).↩︎

Stuart Jeffries, “Are Women Human?” (phỏng vấn với Catharine MacKinnon), Guardian , 12 tháng Tư, 2006.↩︎

Xem thêm Jacob Hoerger, “Lived Experience vs. Experience”, Medium , 24 tháng Mười, 2016, https://medium.com/@jacobhoerger/lived-experience-vs-experience-2e467b6c2229.↩︎

Những điểm này đều được nêu trong Hoerger, ibid.↩︎

Kimberlé Williams Crenshaw, “Mapping the Margins: Intersectionality, Identity Politics, and Violence Against Women of Color”, Stanford Law Review 43:1241-99, tháng Bảy, 1991.↩︎

Mathieu Bock-Côté, Le multiculturalisme comme religion politique (Paris: Les Éditions du Cerf, 2016), 16-19.↩︎

Sasha Polakow-Suransky, Go Back to Where You Came From: The Backlash Against Immigration and the Fate of Western Democracy (New York: Nation Books, 2017), 23-24.↩︎

Theo Lochocki, “Germany’s Left Is Committing Suicide by Identity Politics”, Foreign Policy , 23 tháng Một, 2018.↩︎

Maximilian Alvarez, “Cogito Zero Sum”, Baffler , 2 tháng Tám, 2017, https://thebaffler.com/the-poverty-of-theory/cogito-zero-sum-alvarez.↩︎

Một ví dụ cho việc này là cách xử lý của Rebecca Tuvel đối với bài báo của cô “In Defense of Transracialism”, đăng trên Hypatia: A Journal of Feminist Philosophy , được Kelly Oliver mô tả trong “If This is Feminism…” Philosophical Salon , 8 tháng Năm, 2017, http://thephilosophicalsalon.com/if-this-is-feminism-its-been-hijacked-bythe-thought-police/. Xem thêm Kelly Oliver, “Education in an Age of Outrage”, New York Times , 16 tháng Mười, 2017.↩︎

Mark Lilla, The Once and Future Liberal: After Identity Politics (New York: HarperCollins, 2017).↩︎

Thomas E. Mann và Norman J. Ornstein, It’s Even Worse Than It Looks: How the American Constitutional System Collided with the New Politics of Extremism (New York: Basic Books, 2012).↩︎

Chiếm dụng văn hóa đề cập tới nỗ lực của một người thuộc một chủng tộc, sắc tộc, hoặc giới tính nhằm lợi dụng hoặc kiếm lợi từ văn hóa của một nhóm khác. Trong một trường hợp đáng chú ý, một bức tranh của họa sỹ Dana Schutz về xác chết bị hủy hoại của Emmett Till dẫn tới yêu cầu tiêu hủy bức tranh dựa trên lý lẽ cô là họa sỹ da trắng đang khắc họa một thời khắc gây tổn thương đối với người da đen. Trong một trường hợp khác một biên tập viên bị buộc phải từ chức tại Liên hiệp Tác giả Canada và một bài báo bảo vệ quyền được sáng tạo nhân vật có nguồn gốc thiểu số hoặc bản địa của các tác giả da trắng. Trong cả hai trường hợp, các cá nhân bị chỉ trích chính là những người thuộc phái tự do đang cố hết sức để hiểu một cách đồng cảm với trải nghiệm và sự chịu đựng của những người có nguồn gốc thiểu số.

Nội dung bức thư của Hannah Black chỉ trích Dana Schutz được đăng tại https://i-d.vice.com/en_uk/article/d3p84a/black-artists-urge-the-whitney-biennialto-remove-painting-of-murdered-black-teenager-emmett-till. Xem thêm Kenan Malik, “In Defense of Cultural Appropriation”, New York Times , 14 tháng Sáu, 2017; Lionel Shriver, “Lionel Shriver’s Full Speech: ‘I Hope the Concept of Cultural Appropriation Is a Passing Pad,’” Guardian , 13 tháng Chín, 2016.↩︎

Matthew Taylor, “’White Europe’: 60,000 Nationalists March on Poland’s Independence Day, Guardian , 12 tháng Mười một, 2017; Anne Applebaum, “Why Neo-Fascists Are Making a Shocking Surge in Poland”, Washington Post , 13 tháng Mười một, 2017.↩︎