← Quay lại trang sách

Chương 12 CHÚNG TA, NHÂN DÂN

Mở đầu Mùa xuân Ả Rập năm 2011, Syria rơi vào cuộc nội chiến thảm khốc với ước tính 400.000 người thiệt mạng. Theo Cao ủy Liên Hiệp Quốc về Người tị nạn, 4,8 triệu người đã rời bỏ đất nước, bao gồm 1 triệu đến châu Âu, và 6,6 triệu người khác bị di tản khắp Syria - điều này xảy ra ở đất nước từng có 18 triệu dân tại thời điểm xung đột bắt đầu. Hậu quả trực tiếp của cuộc chiến này bao gồm bất ổn chính trị tại các nước láng giềng của Syria, như Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan, Lebanon, và Iraq, và khủng hoảng người di cư gây chấn động Liên minh châu Âu.

Syria là ví dụ tiêu biểu nhất của những gì sẽ xảy ra khi một đất nước thiếu nhận thức rõ ràng về bản sắc dân tộc. Nguyên nhân tức thời của cuộc chiến là cuộc biểu tình ôn hòa nổ ra năm 2011 chống lại chế độ của Bashar al-Assad, được kích hoạt bởi Mùa xuân Ả Rập. Thay vì từ bỏ quyền lực, Assad đối phó với đối thủ của mình thông qua đàn áp khốc liệt. Chính các đối thủ này đáp lại bằng vũ lực, và cuộc xung đột bắt đầu thu hút sự chú ý của các nhóm bên ngoài, với chiến binh ngoại quốc tràn vào để gia nhập ISIS. Nội chiến trở nên sâu sắc hơn với sự hỗ trợ từ Thổ Nhĩ Kỳ, Ả Rập Xê Út, Iran, Nga, và Mỹ.

Ẩn dưới những sự kiện này là thực tế chia rẽ bè phái. Sau cuộc đảo chính năm 1970, Syria do Hafiz al-Assad cai trị, và kể từ năm 2000, con trai ông là Bashar, thành viên của dòng Alawite, là người nắm quyền. Những người theo dòng Alawite, một nhánh của Hồi giáo dòng Shia, chiếm khoảng 12% dân số Syria trước chiến tranh; đa số phần còn lại là người Hồi giáo dòng Sunni, cùng với một lượng đáng kể người Kitô, người Yazidi, và các nhóm dân thiểu số khác. Cũng tồn tại sự chia rẽ về sắc tộc và ngôn ngữ giữa người Ả Rập, Kurd, Druze, Thổ, Palestine, Circassia… mà đôi lúc chia rẽ này cũng tương ứng với rạn nứt về tôn giáo. Chia rẽ về tư tưởng cũng tồn tại giữa những kẻ cực đoan bạo lực, người Hồi giáo ôn hòa, người cánh tả, và những người theo chủ nghĩa tự do. Những người Alawite tiến tới thống trị đời sống chính trị Syria do họ được tuyển mộ vào quân đội bởi người Pháp theo chiến lược chia để trị khi người Pháp là ông chủ thực dân trong khu vực. Trong suốt thời kỳ gia đình Assad nắm quyền, những người Alawite bị những nhóm khác trong nước ghét bỏ và chống đối, và họ chỉ giữ được ổn định nhờ vào sự đàn áp khắc nghiệt của cả Hafiz lẫn Bashar Assad. Cảm giác trung thành ít ỏi đối với thực thể có tên Syria vượt qua lòng trung thành đối với giáo phái, nhóm sắc tộc, hay tôn giáo, và khi nhà nước đàn áp đó có vẻ như đang yếu đi, như vào năm 2011, đất nước bị tan rã.

Bản sắc dân tộc mờ nhạt là vấn đề lớn trong khu vực Trung Đông rộng lớn, nơi mà Yemen và Lybia biến thành nhà nước thất bại, còn Afghanistan, Iraq và Somalia chịu thiệt hại từ tình trạng nổi dậy và hỗn loạn nội bộ. Các nước đang phát triển khác ổn định hơn, nhưng vẫn bị vây quanh bởi những vấn đề liên quan tới nhận thức yếu kém về bản sắc dân tộc. Đây là tình trạng trên khắp khu vực châu Phi hạ Sahara, và là chướng ngại lớn đối với tiến bộ. Ví dụ, những nước như Kenya và Nigeria bị chia rẽ về sắc tộc và tôn giáo; duy trì được ổn định chỉ nhờ các nhóm sắc tộc khác nhau thay phiên nắm quyền lực để cướp phá đất nước1. Kết quả là tham nhũng ở mức độ cao, nghèo đói, và thất bại trong phát triển kinh tế.

Ngược lại, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Trung Quốc đều có bản sắc dân tộc được phát triển đầy đủ trước khi bắt đầu hiện đại hóa - thực tế là, trước khi họ đối đầu với các cường quốc phương Tây trong thế kỷ 19. Một phần lý do tại sao họ có thể phát triển ngoạn mục như vậy trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 là nhờ họ không phải giải quyết vấn đề nội bộ về bản sắc khi thực hiện mở cửa cho thương mại và đầu tư quốc tế. Họ cũng phải chịu thiệt hại từ nội chiến, chiếm đóng, và chia rẽ. Nhưng họ có thể dựa vào truyền thống về nhà nước và mục đích quốc gia chung một khi những xung đột này được giải quyết ổn thỏa.

Bản sắc dân tộc bắt đầu với niềm tin chung vào tính chính danh của hệ thống chính trị quốc gia, bất kể hệ thống đó có dân chủ hay không. Bản sắc có thể gắn liền vào các đạo luật và thể chế chính thống, vốn quy định những vấn đề như hệ thống giáo dục quốc gia dạy trẻ em về quá khứ đất nước như thế nào, hay đâu là ngôn ngữ chính thức của quốc gia. Nhưng bản sắc dân tộc còn mở rộng cả sang lĩnh vực văn hóa và giá trị. Nó bao gồm những câu chuyện mà người ta kể về bản thân mình: gốc gác, lễ hội, ký ức lịch sử chung, điều kiện để trở thành thành viên thực thụ của cộng đồng2.

Trong thế giới hiện tại, tính đa dạng - dựa trên chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, giới tính, và những thứ tương tự - vừa là thực tế cuộc sống vừa là giá trị. Vì nhiều lý do, điều này tốt cho xã hội. Việc tiếp xúc với cách thức tư duy và hành động khác nhau thường có khả năng kích thích tính đổi mới, sáng tạo, và tinh thần kinh doanh. Tính đa dạng mang tới ích lợi và hứng thú. Vào năm 1970, Washington, D.C. là thành phố song chủng tộc tương đối nhàm chán, trong đó món ăn độc đáo nhất người ta có thể thưởng thức được phục vụ tại nhà hàng Yenching Palace trên đại lộ Connecticut. Ngày nay, khu vực Washington mở rộng là nơi cư trú của một nhóm sắc tộc phong phú đáng kinh ngạc: ta có thể mua đồ ăn Ethiopia, Peru, Campuchia, và Pakistan và đi từ nội khu sắc tộc này sang nội khu khác. Sự quốc tế hóa thành phố thúc đẩy các dạng thức lợi ích khác: khi nó trở thành nơi mà người trẻ muốn sống, họ mang tới âm nhạc, nghệ thuật, công nghệ mới mẻ, và cả những khu vực trước đây chưa từng tồn tại. Câu chuyện của Washington được lặp lại ở bất kỳ khu vực nội đô nào trên thế giới, từ Chicago tới San Francisco, London, Berlin.

Tính đa dạng cũng rất quan trọng đối với khả năng chống chịu. Các nhà sinh vật học môi trường chỉ ra rằng sản vật theo vụ mùa tại các nền văn hóa độc canh thường rất dễ bị sâu bệnh bởi tập hợp đó thiếu sự đa dạng về di truyền. Thực vậy, đa dạng di truyền là động lực của chính quá trình tiến hóa, vốn dựa trên khác biệt và thích nghi về mặt di truyền. Mối lo ngại chung về việc mất đi tính đa dạng của các loài trên thế giới dựa trên mối đe dọa của việc mất tính đa dạng đối với sức chống chịu sinh học dài hạn.

Cuối cùng, tồn tại vấn đề tìm kiếm bản sắc đơn lẻ mà chúng ta xem xét trong những chương trước. Con người thường kháng cự lại việc bị đồng nhất vào nền văn hóa lớn hơn, đặc biệt nếu họ không sinh ra trong nền văn hóa đó. Họ muốn bản thân được công nhận và tôn vinh, chứ không phải bị áp bức. Họ muốn cảm nhận được mối liên kết với tổ tiên và biết nguồn cội của mình. Ngay cả khi họ không phải là một phần của một nền văn hóa, họ vẫn muốn bám víu vào những ngôn ngữ bản địa đang nhanh chóng biến mất trên thế giới, và tập tục truyền thống gợi nhớ lại cách sống trước đây.

Mặt khác, tính đa dạng không phải thứ lợi ích thuần chất. Syria và Afghanistan là những vùng rất đa dạng, nhưng sự đa dạng đó lại mang đến bạo lực và xung đột chứ không phải tính sáng tạo và kiên cường. Tính đa dạng của Kenya củng cố thêm sự chia rẽ giữa các nhóm sắc tộc và nuôi dưỡng thói tham nhũng chính trị ích kỷ. Đa dạng sắc tộc dẫn tới sự tan rã của đế quốc Áo-Hung tự do trong những thập niên dẫn tới Thế chiến I, khi mà những dân tộc tạo thành đế chế quyết định rằng họ không thể sống với nhau trong cấu trúc chính trị chung. Vienna vào cuối thế kỷ là nơi có đa văn hóa và đa chủng tộc, sản sinh ra Gustav Mahler, Hugo von Hofmannsthal, và Sigmund Freud. Nhưng khi những bản sắc dân tộc hẹp hơn của đế chế - người Serbia, Bulgaria, Séc, và Áo-Đức - khẳng định được chính mình, khu vực này lại rơi vào cực điểm bạo lực và thiếu dung thứ3.

Bản sắc dân tộc mang tiếng xấu trong giai đoạn này chính bởi vì nó được gắn với một yếu tố độc nhất, về mặt dân tộc thì dựa trên cảm giác thân thuộc, được biết đến với cái tên chủ nghĩa dân tộc sắc tộc. Dạng thức bản sắc này sẽ trấn áp những người không phải là thành viên nhóm và có hành vi hung bạo chống lại người ngoài thay mặt cho những người đồng sắc tộc sống tại các nước khác. Tuy nhiên, vấn đề không nằm ở bản thân ý tưởng về bản sắc dân tộc, vấn đề là dạng thức hẹp hòi dựa trên sắc tộc, thiếu bao dung, hung hăng và phi tự do sâu sắc mà bản sắc dân tộc định hình nên.

Mọi thứ đáng lẽ không cần đi theo cách đó. Bản sắc dân tộc có thể được xây dựng xoay quanh giá trị chính trị tự do và dân chủ, và những kinh nghiệm phổ biến vốn đưa ra mô thức kết nối mà ở đó các cộng đồng đa dạng có thể phát triển. Ấn Độ, Pháp, Canada, và Mỹ là những ví dụ về quốc gia cố gắng thực hiện điều này. Nhận thức có tính bao hàm đó về bản sắc dân tộc vẫn rất quan trọng cho việc duy trì trật tự chính trị hiện đại hiệu quả vì một vài lý do.

Đầu tiên là sự an toàn vật chất. Ví dụ tiêu biểu nhất về thứ có thể xảy ra khi thiếu vắng bản sắc dân tộc là sự chia rẽ nhà nước và nội chiến, như trong trường hợp của Syria và Lybia đã nhắc đến ở trên. Nhưng thiếu đi điều này, bản sắc dân tộc mờ nhạt tạo ra những vấn đề an ninh trầm trọng khác. Đơn vị chính trị lớn có quyền lực mạnh hơn đơn vị nhỏ và có thể bảo vệ bản thân tốt hơn. Chúng có vị thế tốt hơn trong việc định hình môi trường quốc tế cho phù hợp với lợi ích bản thân mình. Chẳng hạn, Anh đã không thể đóng vai trò tương tự trên trường địa chính trị trong những thế kỷ qua nếu như Scotland vẫn là một nước độc lập. Điều tương tự cũng đúng với Tây Ban Nha nếu như vùng đất giàu nhất của nó, Catalonia, ly khai. Các quốc gia bị chia rẽ sâu sắc sẽ yếu ớt, đây là lý do vì sao nước Nga của Putin âm thầm ủng hộ phong trào độc lập khắp châu Âu và can thiệp vào chính trị Mỹ để nâng mức độ chia rẽ chính trị tại đó4.

Thứ hai, bản sắc dân tộc quan trọng cho chất lượng chính phủ. Chính phủ tốt - nghĩa là, các dịch vụ công hiệu quả và mức độ tham nhũng thấp - dựa vào các quan chức nhà nước đặt lợi ích công lên trên lợi ích cá nhân hẹp hòi của mình. Trong xã hội tham nhũng có hệ thống, chính trị gia và công chức điều chuyển nguồn lực công về nhóm sắc tộc, khu vực, bộ lạc, gia đình, đảng phái chính trị của riêng mình, hoặc vào túi riêng bởi họ không thấy bản thân có nghĩa vụ đối với lợi ích chung của cộng đồng.

Luận điểm trên dẫn tới chức năng thứ ba của bản sắc dân tộc: tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế. Nếu con người không tự hào về đất nước mình, họ sẽ không làm việc vì nó. Bản sắc dân tộc mạnh mẽ ở Nhật Bản, Hàn Quốc, và Trung Quốc tạo ra giới tinh hoa tập trung cao độ vào phát triển kinh tế quốc gia hơn là làm giàu cho cá nhân, đặc biệt trong những thập niên đầu tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Dạng định hướng công cộng này là cơ sở cho “nhà nước kiến tạo phát triển” và ít phổ biến hơn nhiều tại các khu vực như châu Phi hạ Sahara, Trung Đông, hay châu Mỹ La-tinh5. Nhiều nhóm bản sắc dựa trên sắc tộc hay tôn giáo thích giao thương nội bộ và dùng việc tiếp cận được với quyền lực nhà nước để làm lợi cho riêng nhóm bản sắc của mình. Dù điều này có thể có ích cho một cộng đồng nhập cư mới đặt chân đến một đất nước, sự thịnh vượng trong tương lai của họ phụ thuộc lớn vào khả năng hòa nhập vào nền văn hóa lớn hơn. Kinh tế phát triển nhờ vào khả năng tiếp cận với những thị trường rộng nhất có thể, nơi mà giao dịch diễn ra không liên quan tới bản sắc của người mua hay người bán - tất nhiên, với điều kiện bản sắc dân tộc không trở thành cơ sở cho chủ nghĩa bảo hộ chống lại các quốc gia khác6.

Chức năng thứ tư của bản sắc dân tộc là thúc đẩy phạm vi rộng lớn của niềm tin. Niềm tin đóng vai trò như chất bôi trơn cho phép trao đổi kinh tế và tham gia chính trị. Niềm tin dựa trên yếu tố mang tên vốn xã hội , nghĩa là khả năng hợp tác với người khác dựa trên chuẩn mực phi chính thức và giá trị chung. Các nhóm bản sắc đề cao niềm tin giữa thành viên, nhưng vốn xã hội thường hữu hạn cho số ít trong nội bộ nhóm. Thực vậy, bản sắc mạnh thường làm giảm niềm tin giữa những thành viên trong và ngoài nhóm. Xã hội phát triển dựa trên niềm tin, nhưng chúng cần phạm vi tin tưởng rộng nhất có thể để hoạt động tốt7.

Lý do thứ năm giải thích tầm quan trọng của bản sắc dân tộc là nhiệm vụ duy trì hệ thống an sinh xã hội mạnh mẽ của nó, vốn giúp giảm thiểu bất công kinh tế. Nếu thành viên của xã hội cảm thấy mình là thành viên của gia đình mở rộng và dành niềm tin cao độ cho nhau, họ có xu hướng ủng hộ cao hơn cho chương trình xã hội có mục đích trợ giúp đồng bào yếu kém hơn. Nhà nước phúc lợi lớn mạnh ở Scandinavia nổi bật bởi ý thức mạnh mẽ tương đồng về bản sắc dân tộc. Ngược lại, xã hội bị chia rẽ thành các nhóm xã hội tự nhận thức, [các nhóm] cảm thấy có ít điểm chung, sẽ có xu hướng tự xem mình đang ở trong cuộc cạnh tranh lẫn nhau về nguồn lực, mà [cuộc cạnh tranh ấy] trong đó tổng lợi ích bằng không8.

Chức năng cuối cùng của bản sắc dân tộc là để hiện thực hóa chính nền dân chủ tự do. Nền dân chủ tự do là khế ước ngầm giữa công dân và chính phủ, và giữa bản thân công dân với nhau, theo đó họ từ bỏ những quyền nhất định để chính phủ bảo vệ những quyền lợi khác cơ bản và quan trọng hơn. Bản sắc dân tộc được xây dựng quanh tính chính danh của khế ước này, nếu công dân không tin họ là một phần của cùng một chính thể, thì hệ thống sẽ không hoạt động9.

Nhưng chất lượng của nền dân chủ cần nhiều hơn là sự chấp nhận đơn thuần các nguyên tắc cơ bản của hệ thống. Nền dân chủ cần có văn hóa riêng để hoạt động. Chúng không tự động tạo ra sự đồng tình, trên thực tế, chúng tất yếu là tập hợp đa nguyên của các lợi ích, ý kiến, và giá trị đa dạng, tất cả phải dung hợp hài hòa. Nền dân chủ đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng và tranh luận, những thứ chỉ có thể tồn tại nếu người ta chấp nhận những chuẩn mực hành vi nhất định đối với những gì được phép nói và làm. Vì lợi ích chung, công dân thường phải chấp nhận những hệ quả họ không thích hoặc không thiên vị; nền văn hóa hòa hợp và bao dung lẫn nhau phải vượt lên trên cảm xúc thiên lệch.

Bản sắc có gốc rễ từ thymos, vốn được trải nghiệm về mặt cảm xúc thông qua cảm giác tự tôn, xấu hổ, và giận dữ. Tôi đã phân tích cách thức mà điều này có thể hủy hoại cuộc tranh luận và bàn cãi có tính duy lý. Mặt khác, nền dân chủ không thể tồn tại nếu công dân không gắn kết theo mức độ phi lý nào đó với ý tưởng về chính quyền hợp hiến và bình đẳng con người thông qua cảm giác tự hào và tinh thần ái quốc. Gắn kết này nhìn xã hội qua những điểm thấp nhất của nó, khi mà chỉ có lý lẽ có thể chỉ ra nỗi tuyệt vọng trong sự vận hành của các định chế.

Vấn đề chính sách tạo ra thách thức lớn nhất đối với bản sắc dân tộc là nhập cư, và vấn đề liên quan đến người tị nạn. Cùng với nhau, chúng là động lực thúc đẩy đằng sau sự bùng nổ của chủ nghĩa dân tộc dân túy ở cả châu Âu và Mỹ. Đảng Mặt trận Quốc gia ở Pháp, Đảng Tự do ở Hà Lan, Đảng Fidesz của Viktor Orbán ở Hungary, Đảng AfD ở Đức, và những người ủng hộ Brexit ở Vương quốc Anh chống lại cả người nhập cư lẫn Liên minh châu Âu. Nhưng đối với nhiều người theo chủ nghĩa dân túy, đây là cùng một vấn đề: họ căm ghét Liên minh châu Âu vì nghĩ rằng nó tước đoạt chủ quyền kiểm soát biên giới của chính họ. Liên minh châu Âu thiết lập hệ thống Schengen cho phép di chuyển miễn thị thực trong phần lớn các quốc gia thành viên vào năm 1985, bởi lợi ích của dịch chuyển lao động và tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó, Liên minh châu Âu trao quyền rộng rãi cho người tị nạn một khi họ vào châu Âu, các quyền được thi hành không phải dựa vào tòa án quốc gia mà bởi Tòa án Nhân quyền châu Âu.10

Hệ thống hoạt động như quảng bá, cho phép lao động di chuyển vào khu vực nơi mà họ được sử dụng với năng suất cao hơn, và tạo cơ hội tị nạn cho nạn nhân bị áp bức chính trị. Song nó cũng dẫn đến sự gia tăng khổng lồ số lượng cá nhân sinh ra ở nước ngoài tại nhiều nước trong Liên minh châu Âu, vấn đề lên tới đỉnh điểm năm 2014 khi cuộc nội chiến Syria đẩy hơn một triệu người Syria đến châu Âu.

Tương tự, tại Mỹ, vấn đề nhập cư phần lớn thay thế giai cấp và chủng tộc để trở thành nguyên nhân chính cho việc người Mỹ lại bầu cho ứng viên Đảng Cộng hòa, theo dữ liệu từ các nhà khoa học chính trị Zoltan Hajnal và Marisa Abrajano11. Việc kết nạp người Mỹ gốc Phi vào Đảng Dân chủ theo sau phong trào quyền dân sự những năm 1960 được thừa nhận rộng rãi là đã đẩy miền Nam vào tay Đảng Cộng hòa, ngày nay vấn đề nhập cư cũng đóng vai trò tương tự. Sự phản đối người nhập cư Mexico và Hồi giáo là hình thái trung tâm trong chiến dịch tranh cử cũng như việc leo lên chức tổng thống của Donald Trump. Nằm ở cốt lõi của những khiếu nại bảo thủ về vấn đề nhập cư là việc hiện ước tính có khoảng 11-12 triệu người nhập cư không có giấy tờ đang sống tại Mỹ. Cũng như tại châu Âu, các chính trị gia chống người nhập cư phàn nàn về thất bại của đất nước trong việc thực thi chủ quyền kiểm soát dòng người qua biên giới phía nam. Điều đó dẫn đến lời hứa của Trump về một bức tường “to, đẹp” dọc biên giới Mexico.

Sẽ không ngạc nhiên khi vấn đề nhập cư tạo ra phản ứng, khi mà mức độ người nhập cư và sự thay đổi văn hóa tương ứng đang ở mức cao và trong một số trường hợp là ở mức chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Bảng 2 cung cấp dữ liệu về số người sinh ra ở nước ngoài trong nhóm các nước giàu trong sáu mươi năm qua. Quy mô tại Mỹ ngày nay cũng cao như trong thập niên 1920 tiếp sau làn sóng di dân lớn trước và sau khi bước sang thế kỷ 20.

Mục tiêu chung của chính trị gia dân túy ở cả châu Âu và Mỹ là “giành lại đất nước của ta”. Họ lập luận rằng quan niệm truyền thống về bản sắc dân tộc đang bị xóa nhòa và chiếm đoạt bởi cả những kẻ mới tới với giá trị và văn hóa khác biệt lẫn bởi cánh tả cấp tiến, những kẻ công kích chính ý tưởng về bản sắc dân tộc là phân biệt chủng tộc và cực đoan.

Nhưng họ đang tìm cách giành lại đất nước nào? Hiến pháp Mỹ mở đầu bằng tuyên bố “Chúng ta, Nhân dân của Hợp chúng quốc, trong Trật tự tạo thành Liên hiệp hoàn hảo hơn, thiết lập Công lý, bảo đảm sự Yên bình nội địa, hỗ trợ cho nền quốc phòng chung, thúc đẩy Phúc lợi chung, và đạt được Phước lành của Tự do cho bản thân và cho Hậu thế, ban hành và lập nên Hiến pháp này cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ”. Hiến pháp nói rõ rằng nhân dân là chủ quyền và chính quyền chính danh bắt nguồn từ ý chí của họ. Nhưng nó không xác định ai là nhân dân, hay trên cơ sở nào cá nhân được bao hàm trong cộng đồng quốc gia.

BẢNG 2

Tỉ lệ người nước ngoài sinh ra trên tổng dân số, một số quốc gia chọn lọc thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)

Nguồn: OECD

Sự mơ hồ này trong Hiến pháp Mỹ nêu lên một số câu hỏi quan trọng: Bản sắc dân tộc ban đầu đến từ đâu, và nó được định nghĩa như thế nào? Điều gì tạo nên “nhân dân”, mà chủ quyền của họ là cơ sở cho lựa chọn dân chủ? Liệu tính đa văn hóa, vừa không chính thức vừa mang tư cách một lý tưởng, có làm suy yếu nhận thức về quyền công dân chung của chúng ta, và nếu có, liệu có cách tái tạo dựng quan niệm chung về bản sắc dân tộc xuyên suốt các cộng đồng đa dạng hay không?

Thất bại của Hiến pháp Mỹ trong việc định nghĩa nhân dân Mỹ là ai phản ánh vấn đề chung của mọi nền dân chủ tự do. Nhà học thuyết chính trị Pierre Manent ghi nhận rằng hầu hết các nền dân chủ được xây dựng trên các quốc gia tồn tại trước đó, nơi xã hội có sẵn nền tảng nhận thức phát triển về bản sắc dân tộc, định nghĩa được người dân có chủ quyền là ai. Nhưng các quốc gia đó không được tạo ra một cách dân chủ như Đức, Pháp, Anh, và Hà Lan đều từng là phụ phẩm lịch sử của quá trình đấu tranh chính trị lâu dài và thường đầy bạo lực để tranh giành lãnh thổ và văn hóa dưới chế độ phi dân chủ. Khi những xã hội này được dân chủ hóa, quy mô lãnh thổ và dân số sẵn có của các nước hiển nhiên được coi là cơ sở cho chủ quyền nhân dân. Điều tương tự cũng diễn ra ở Nhật Bản và Hàn Quốc tại Đông Á, vốn đã là quốc gia nhiều thế kỷ trước khi được dân chủ hóa và không cần phải tranh cãi về vấn đề quyền nhân dân khi tiến hành mở cửa chính trị cho lựa chọn dân chủ12.

Manent nhìn ra lỗ hổng lớn trong lý thuyết dân chủ hiện đại. Những nhà tư tưởng như Thomas Hobbes, John Locke, Jean-Jacques Rousseau, Immanuel Kant, các tác giả của Tập Tiểu luận Liên bang , và John Stuart Mill đều cho rằng thế giới từng bị phân chia sẵn thành các quốc gia, vốn đặt nền móng cho lựa chọn dân chủ. Họ không đưa ra lý thuyết giải thích vì sao biên giới giữa Mỹ và Mexico cần chạy dọc theo sông Rio Grande, liệu Alsace nên thuộc về Pháp hay Đức, liệu Quebec nên là một phần của Canada hay là một “xã hội riêng biệt”, cơ sở nào cho Catalonia ly khai một cách chính danh khỏi Tây Ban Nha, hay vấn đề nhập cư ở mức độ nào thì hợp lý.

Việc lý thuyết hóa nói trên được truyền lại cho những người khác. Những người theo chủ nghĩa dân tộc như Paul de Lagarde hay Adolf Hitler đều đặt nền móng cho định nghĩa về quốc gia của mình dựa trên sinh học, và đều lý luận rằng những quốc gia đang tồn tại trên thế giới bao gồm cả những thực thể chủng tộc có sẵn từ lâu đời. Những người khác lại xem nền văn hóa được kế thừa mà họ cho là không thay đổi làm cơ sở cho tính dân tộc. Những lý thuyết này trở thành luận điểm cho chủ nghĩa dân tộc hung bạo (aggressive nationalisms) đầu thế kỷ 20, những nhân vật tiêu biểu của chủ nghĩa này đều thất bại sau sự sụp đổ của chủ nghĩa Quốc xã năm 1945.

Những người mà ta có thể xác định là “người theo chủ nghĩa thế giới toàn cầu” lý luận rằng bản thân khái niệm về bản sắc dân tộc và chủ quyền nhà nước đã lỗi thời và cần được thay thế bằng thể chế và bản sắc xuyên quốc gia rộng lớn hơn. Có hai dạng lập luận củng cố cho trường phái này. Dạng thứ nhất có tính kinh tế và chức năng, cho rằng các vấn đề ngày nay có phạm vi mang tính toàn cầu và do đó cần được giải quyết theo phương thức toàn cầu hóa. Những vấn đề này trải dài từ thương mại và đầu tư cho đến chống khủng bố, môi trường, bệnh truyền nhiễm, ma túy, nạn buôn người, và nhiều vấn đề khác. Các quốc gia và bản sắc dân tộc là những chướng ngại vật tiềm tàng đối với hợp tác quốc tế và cần được dần dần thế chỗ bởi một lớp các nguyên tắc và tổ chức xuyên quốc gia mới.

Nhánh lập luận thứ hai mang tính lý thuyết hơn và bắt nguồn từ luật nhân quyền quốc tế. Nền dân chủ tự do được xây dựng trên tiền đề về bình đẳng phổ quát của con người, và bình đẳng đó không chỉ bắt đầu hay kết thúc theo biên giới quốc gia. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948 trở thành cơ sở cho nhóm luật lệ quốc tế nhằm khẳng định quyền lợi có tính cố hữu đối với mọi người và cần được mọi quốc gia tôn trọng13. Khi luật nhân quyền phát triển, nghĩa vụ của nhà nước cũng phát triển theo, không phải chỉ với riêng công dân của mình mà cả với người nhập cư và người tị nạn. Một số người tán thành thậm chí còn khẳng định quyền phổ quát về di cư14.

Cả hai lập luận trên đều hợp lý ở mức độ nào đó. Nhưng chúng không làm suy yếu tình hình trật tự quốc tế được xây dựng dựa trên quốc gia dân tộc, hay sự cần thiết phải có loại hình bản sắc dân tộc đúng đắn bên trong quốc gia đó. Ý tưởng cho rằng quốc gia đã lỗi thời và cần được thay thế bằng tổ chức quốc tế là sai, bởi chưa ai có khả năng đưa ra phương pháp hiệu quả nhằm khiến tổ chức quốc tế đó chịu trách nhiệm theo phương thức dân chủ. Việc vận hành thể chế dân chủ phụ thuộc vào chuẩn mực, quan điểm, và sau cùng là văn hóa chung, vốn có thể tồn tại ở cấp độ quốc gia dân tộc, chứ không phải quốc tế. Thay vào đó, hợp tác quốc tế hiệu quả có thể và đã được xây dựng dựa trên hợp tác giữa các nhà nước đang tồn tại. Trong nhiều thập niên, các quốc gia đã từ bỏ một số khía cạnh chủ quyền để bảo vệ lợi ích quốc gia15. Những loại hình thỏa thuận hợp tác nhằm giải quyết một nhóm các vấn đề có thể tiếp tục được xử lý theo cách này.

Nghĩa vụ tôn trọng nhân quyền phổ quát được phần lớn các nước trên thế giới tình nguyện thực thi, và cũng nên là như vậy. Nhưng mọi nền dân chủ tự do được xây dựng trên nền tảng chính quyền, vốn có quyền hạn hạn chế bởi phạm vi lãnh thổ. Không nhà nước nào có thể đảm trách nghĩa vụ vô hạn phải bảo vệ những người nằm ngoài quyền tài phán của mình, và việc liệu thế giới có tốt đẹp hơn hay không nếu họ cố gắng làm điều đó vẫn chưa thực rõ ràng. Trong khi các nước chịu ảnh hưởng một cách chính đáng về nghĩa vụ đạo đức phải che chở người tị nạn và có thể chào đón người nhập cư, các nghĩa vụ đó nhiều khả năng tạo ra hao tổn cả về kinh tế lẫn xã hội, và nền dân chủ cần cân bằng những hao tổn này với những ưu tiên khác. Dân chủ có nghĩa là nhân dân có quyền làm chủ, nhưng nếu không có cách gì phân định ai là nhân dân, thì họ sẽ không thể sử dụng lựa chọn dân chủ của mình.

Do đó, trật tự chính trị cả trong nước lẫn quốc tế phụ thuộc vào sự tồn tại không ngừng của nền dân chủ tự do với dạng thức đúng đắn của bản sắc dân tộc bao trùm. Nhưng chúng ta vẫn chưa giải thích nguồn gốc của bản sắc đó trong nền dân chủ đang tồn tại, và cách thức chúng có thể thay đổi trong tương lai.

Xem Michela Wrong, It’s Our Turn to Eat: The Story of a Kenyan Whistle-Blower (New York: HarperPerennial, 2010). Xem thêm Fukuyama, Political Order and Political Decay , 330-332.↩︎

Rogers M. Smith, Political Peoplehood: The Roles of Values, Interests, and Identities (Chicago: University of Chicago Press, 2015).↩︎

Về mô tả đau lòng sự giàu sang của Vienna trước Thế chiến thứ Nhất và thảm kịch khi nó sụp đổ, xem Stefan Zweig, The World of Yesterday (Lincoln: University of Nebraska Press, 2013).↩︎

Trong bối cảnh tổng thống Trump ưu ái Vladimir Putin, một lượng đáng kinh ngạc thành viên Đảng Cộng hòa bộc lộ cái nhìn thiện cảm dành cho Nga, với một số ngoài lề xác nhận rằng họ tin tưởng Putin nhiều hơn là những đồng bào Mỹ thuộc phe tự do. Paul Reynolds, một Ủy viên Quốc gia Cộng hòa đến từ Alabama, được trích dẫn đã tuyên bố, “Nếu tôi có quyền lựa chọn đặt phúc lợi của mình vào tay Putin hay tờ Washington Post , Putin sẽ luôn chiến thắng”. James Hohmann, “The Daily 202: As Roy Moore Declines to Step Aside, a Tale of Two Republican Parties Emerges”, Washington Post , 10 tháng Mười một 2017, Zack Beauchamp, “Roy Moore Admires Vladimir Putins Morality”, Vox ,8 tháng Mười Hai, 2017↩︎

Những nhà nước phát triển nhanh chóng ở Đông Á có vấn đề với tham nhũng, nhưng ở mức độ nhìn chung thấp hơn những khu vực khác trên thế giới. Sự tập trung của giới tinh hoa vào phát triển quốc gia khiến “nhà nước kiến tạo phát triển” trở nên khả thi ở những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, và Trung Quốc. Trong khi những nhà nước tương tự được cho là đã tồn tại ở những nước châu Phi như Rwanda hay Ethiopia, hoặc ở Chile dưới chế độ độc tài Pinochet, những nhà nước này có khuynh hướng ngoại lệ hơn là tạo thành quy luật chung. Xem Stephan Haggard, Developmental States (New York: Cambridge University Press, 2018).↩︎

Xem Francis Fukuyama, Trust: The Social Virtues and the Creation of Prosperity (New York: Free Press, 1995).↩︎

Ibid., Robert D. Putnam, Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community (New York: Simon and Schuster, 2000).↩︎

Lập luận này được đưa ra trong Craig J. Calhoun, “Social Solidarity as aProblem for Cosmopolitan Democracy”, trong Identities, Affiliations, and Allegiances , hiệu đính bởi Seyla Benhabib, Ian Shapiro, và Danilo Petranovic (Cambridge: Cambridge University Press, 2007).↩︎

Lập luận kinh điển về bản sắc dân tộc như một trong những điều kiện thiết yếu của dân chủ tự do hiện đại được đưa ra bởi Dankwart A. Rustow, “Transitions to Democracy: Toward a Dynamic Model”, Comparative Politics 2 (1970): 337-363.↩︎

Khu vực Schengen có sự chồng lấp nhưng không hoàn toàn tương đương với Liên minh châu Âu hay khu vực đồng tiền chung Euro; một số nước thuộc Liên minh châu Âu như Ireland hay Vương quốc Anh không tham gia, trong khi một số nước không thuộc Liên minh châu Âu như Iceland và Na Uy là thành viên không chính thức của khu vực này.↩︎

Zoltan L. Hajnal và Marisa Abrajano, White Backlash: Immigration, Race, and American Politics (Princeton, New Jersey: Princeton University Press, 2016).↩︎

Pierre Manent, “Democracy Without Nations?”, Journal of Democracy 8 (1997): 92-102. Xem thêm Fukuyama, Political Order and Political Decay , 185-197.↩︎

Về nguồn gốc của Tuyên ngôn Phổ quát, xem Mary Ann Glendon, A World Made New: Eleanor Roosevelt and the Universal Declaration of Human Rights (New York: Random House, 2001)↩︎

Martha C. Nussbaum, For Love of Country: Debating the Limits of Patriotism (Boston: Beacon Press, 1996); Craig J. Calhoun, “Imagining Solidarity: Cosmopolitanism, Constitutional Patriotism, and the Public Sphere”, Public Culture 13 (1) (2002): 14771; Samuel Scheffler, Boundaries and Allegiances: Problems of Justice and Responsibility in Liberal Thought (Oxford: Oxford University Press, 2000).↩︎

Xem Stewart Patrick, Sovereignty Wars: Reconciling America with the World (Washington, DC: Brookings Institution Press, 2017); Stephen D. Krasner, Sovereignty: Organized Hypocrisy (Princeton, New Jersey: Princeton University Press, 1999).↩︎