- 3 -
Một trong những điều mà tôi sẽ phải giải thích với bọn con gái ở quê nhà, nếu tôi đang kể chuyện này cho chúng nghe, chính là cụm từ nhỏ nhoi đơn giản mang tên “nỗi kinh hoàng”. Nó có nghĩa khác với người dân ở làng tôi.
Ở đất nước bạn, nếu cảm thấy chưa đủ sợ hãi, bạn có thể đi xem phim kinh dị. Sau đó bạn có thể rời khỏi rạp chiếu phim, tiến vào đêm tối và trong thoáng chốc nỗi kinh hoàng hiện diện khắp nơi. Có thể những kẻ sát nhân đang nằm đợi bạn ở nhà. Bạn nghĩ vậy vì có ánh đèn phát ra từ nhà bạn trong khi bạn tin chắc rằng mình đã tắt nó. Và cuối cùng, khi tẩy trang trước gương, bạn bắt gặp một ánh nhìn lạ lẫm trong mắt mình. Đó không phải là bạn. Trong một giờ, bạn bị ám ảnh, bạn không tin bất kì ai, và rồi cảm giác ấy tan biến. Nỗi kinh hoàng ở đất nước bạn là liều thuốc bạn dùng đến để nhắc bản thân rằng mình đang không phải chịu đựng nó.
Với tôi và bọn con gái ở làng, nỗi kinh hoàng là một căn bệnh và chúng tôi phát ốm với nó. Nó không phải là loại bệnh mà bạn có thể tự chữa bằng cách đứng dậy và để chiếc ghế đỏ to tướng ở rạp phim tự gấp lại sau lưng. Như thế thì tuyệt quá còn gì. Xin hãy tin tôi, nếu làm được như thế thì tôi đã đứng ở phòng giải lao rồi. Tôi đã mặc sức cười đùa với anh chàng bán vé, đổi những đồng một bảng Anh để lấy bắp rang bơ nóng hổi, và nói, Phù, tạ ơn Chúa, tất cả đã kết thúc. Đó là bộ phim kinh dị nhất mà tôi từng xem. Tôi nghĩ lần sau tôi sẽ xem phim hài, hoặc phim tình cảm lãng mạn có cảnh hôn nhau. Nhưng bộ phim in trong tâm trí bạn, bạn không thể dễ dàng thoát khỏi nó. Dù bạn đi đâu, nó vẫn chiếu trong đầu bạn. Vì thế khi tôi nói tôi là người tị nạn, bạn phải hiểu rằng không hề có chốn tị nạn nào.
Thỉnh thoảng tôi tự hỏi có bao nhiêu người giống như tôi. Ngay bây giờ, tôi nghĩ có hàng nghìn người đang trôi nổi trên đại dương. Giữa thế giới của chúng tôi và thế giới của bạn. Nếu không đủ tiền trả cho những kẻ buôn người để được đưa đi, thì chúng tôi đi lậu trên tàu chở hàng. Trong tăm tối, trong những container hàng hóa. Thở nhẹ trong bóng đêm, đói khát, nghe những tiếng leng keng kì lạ của tàu, ngửi mùi dầu diesel và mùi sơn, lắng nghe tiếng bom-bom-bom của động cơ. Thức thao láo buổi tối, nghe tiếng hát của cá voi vọng lên từ biển sâu và rung lên qua thành tàu. Tất cả chúng tôi thì thầm, cầu nguyện, nghĩ ngợi. Chúng tôi nghĩ đến điều gì? Đến sự an toàn tính mạng, đến sự bình yên tâm hồn. Đến những đất nước tưởng tượng giờ đây đang được phục vụ ở phòng giải lao.
Tôi đi lậu trên một con tàu thép lớn, nhưng nỗi kinh hoàng đi lậu trong lòng tôi. Khi rời khỏi quê hương, tôi nghĩ mình đã trốn thoát, nhưng ra đến biển, tôi bắt đầu gặp ác mộng. Tôi thật ngây thơ khi nghĩ rằng đã rời khỏi đất nước mà chẳng đem theo thứ gì. Cả một kiện hàng nặng trĩu bám theo tôi.
Họ dỡ kiện hàng của tôi tại một bến cảng ở cửa sông Thames. Tôi không đi xuống ván tàu, mà được các quan chức nhập cảnh của bạn khiêng ra khỏi tàu và tống vào trại giam. Bên trong trại giam thật chẳng phải trò đùa. Tôi sẽ nói gì về nó? Hệ thống của bạn thật tàn nhẫn, nhưng nhiều người trong số các bạn đã đối xử tốt với tôi. Các bạn gửi những thùng từ thiện. Các bạn phục trang cho nỗi kinh hoàng của tôi bằng bốt và áo sơ mi lòe loẹt. Các bạn gửi cho nó nước sơn móng chân. Các bạn gửi những quyển sách và tờ báo. Giờ thì nỗi kinh hoàng biết nói tiếng Anh giọng Nữ hoàng. Đây là cách chúng ta có thể nói về nơi trú ẩn và sự tị nạn vào lúc này. Đây là cách tôi có thể kể với các bạn – mau-lẹ như chúng tôi thường nói ở nước mình – đôi chút về điều mà tôi cố tránh né.
Trên đời này, có những việc bọn người đó có thể gây ra cho bạn mà tôi cam đoan rằng nếu bạn tự sát từ đầu thì tốt hơn. Một khi đã biết được chuyện này, mắt bạn sẽ luôn nhìn trước ngó sau, canh chừng khoảnh khắc bọn người ấy kéo đến.
Trong trại giam nhập cư, họ bảo rằng chúng tôi phải giữ kỉ luật để vượt qua nỗi sợ. Đây là kỉ luật mà tôi đã học được: mỗi khi đi đến một nơi mới, tôi đều tìm xem làm cách nào để tự sát ở đó. Đề phòng trường hợp toán người đó đột ngột kéo đến, tôi phải đảm bảo mình đã sẵn sàng. Lần đầu tiên bước vào nhà tắm của Sarah, tôi đã nghĩ, Đúng rồi, Ong Nhỏ, trong này mày sẽ đập tấm kính của tủ thuốc đó rồi dùng mảnh kính vỡ cắt cổ tay. Khi Sarah chở tôi đi dạo bằng xe ô tô, tôi nghĩ, Ở đây, Ong Nhỏ, mày sẽ hạ cửa kính xuống, mở khóa dây an toàn rồi lao qua cửa sổ, không ầm ĩ, vào trước đầu chiếc xe tải sắp phóng tới ở chiều ngược lại. Và khi Sarah đưa tôi đi chơi ở công viên Richmond, cô ấy mải ngắm cảnh còn tôi thì tìm một chỗ trũng trên mặt đất để có thể ẩn nấp và nằm yên cho đến khi bạn chỉ còn tìm thấy tôi ở hình dạng của một cái đầu lâu nhỏ trắng hếu, mà lũ cáo và thỏ sẽ đến hít ngửi bằng chiếc mũi mềm ướt của chúng.
Nếu bọn người ấy đột ngột xuất hiện, tôi sẽ sẵn sàng tự sát. Bạn có thấy tội nghiệp cho tôi, vì lúc nào cũng suy nghĩ như thế này không? Nếu bọn họ đến mà phát hiện ra bạn chưa sẵn sàng, thì lúc đó tôi sẽ là người cảm thấy tội nghiệp cho bạn.
Trong sáu tháng đầu tiên ở trại giam, đêm nào tôi cũng la hét, còn ban ngày thì tưởng tượng ra trăm phương nghìn kế để tự tử. Tôi nghĩ ra cách tự sát trong từng tình huống mà một đứa con gái như tôi có thể gặp phải trong trại giam. Trong khu nhà y tế, morphine. Trong phòng dành cho lao công, nước tẩy rửa. Trong nhà bếp, mỡ sôi. Bạn nghĩ tôi đang phóng đại ư? Một số người bị giam cùng tôi thực sự đã làm những việc này. Các nhân viên trại giam chuyển xác họ đi vào ban đêm, vì sẽ chẳng hay ho gì nếu người dân gần đấy nhìn thấy những chiếc xe cấp cứu chậm rãi rời khỏi nơi đó.
Hoặc giả nếu họ thả tôi thì sao? Rồi tôi đi xem phim và phải tự tử ở đó? Tôi sẽ gieo mình xuống từ phòng chiếu. Hoặc một nhà hàng? Tôi sẽ nấp trong chiếc tủ lạnh to nhất và chìm vào giấc ngủ dài lạnh lẽo. Hoặc ở miền biển? A, ở miền biển, tôi sẽ ăn trộm một chiếc xe bán kem rồi lái xe xuống biển. Bạn sẽ không bao giờ gặp lại tôi nữa. Thứ duy nhất chứng tỏ một đứa con gái châu Phi từng tồn tại là hai nghìn cây kem tan chảy, nổi lềnh bềnh trong những chiếc túi trên làn sóng xanh mát lạnh.
Sau một trăm đêm mất ngủ, tôi đã nghĩ xong cách để tự tử ở từng ngõ ngách của trại giam và đất nước bên ngoài, nhưng tôi vẫn không thôi tưởng tượng. Tôi suy nhược vì hoảng loạn và người ta đưa tôi đến khu nhà y tế. Rời xa khỏi những tù nhân khác, tôi nằm giữa những tấm trải gây ngứa ngáy và ngày nào cũng một mình suy nghĩ miên man. Tôi biết họ lên kế hoạch trục xuất tôi, vì thế tôi bắt đầu tưởng tượng cảnh tự sát ở quê nhà Nigeria. Cũng giống như tự tử trong trại giam nhưng bối cảnh thì đẹp hơn. Đây là một niềm vui nhỏ nhoi bất ngờ. Trong rừng, trong những ngôi làng im lìm, trên những sườn núi, tôi tự kết liễu cuộc đời mình hết lần này đến lần khác.
Ở những nơi đẹp nhất, tôi bí mật nấn ná trước hành động đó. Có lần, trong một khu rừng thẳm oi ả tràn ngập mùi rêu phong ẩm ướt và phân khỉ, tôi dành gần trọn ngày để chặt cây và xây một tòa tháp cao hòng treo cổ tự tử. Tôi có một cây rựa. Tôi tưởng tượng nhựa cây dính trên tay và mùi mật ngọt ngào của nó, cảm giác mệt mỏi thích thú ở đôi tay vì phải đốn gỗ, và tiếng kêu thất thanh của bầy khỉ nổi điên khi tôi hạ cây của chúng. Tôi làm cật lực trong trí tưởng tượng của mình và buộc những khúc cây lại với nhau bằng dây leo và dây mây, tôi thắt nút đặc biệt mà chị Nkiruka đã chỉ cho tôi. Thật là một ngày làm việc to tát đối với một cô gái nhỏ bé. Tôi rất tự hào. Cuối ngày hôm đó, nằm một mình trên giường bệnh suy nghĩ về tháp tự tử của mình, tôi nhận ra chỉ cần leo lên một cái cây rừng rồi nhảy xuống với cái đầu ngốc nghếch của mình lao thẳng vào một tảng đá là xong.
Đấy là lần đầu tiên tôi mỉm cười.
Tôi bắt đầu ăn thức ăn do người ta mang tới. Tôi tự nhủ, Mày phải giữ sức, Ong Nhỏ ạ, nếu không mày sẽ yếu đến nỗi không kết liễu được mạng sống ngốc nghếch của mình khi thời điểm đến, và lúc đó mày sẽ thấy hối hận. Tôi bắt đầu đi bộ từ khu nhà y tế đến nhà ăn vào giờ ăn, để có thể tự chọn thức ăn thay vì để người ta đem đến. Tôi bắt đầu tự hỏi mình những câu như: Cái gì sẽ khiến mình mạnh mẽ hơn để thực hiện hành động tự sát? Cà rốt hay đậu Hà Lan?
Trong nhà ăn có một chiếc ti vi lúc nào cũng mở. Tôi bắt đầu biết nhiều hơn về cuộc sống ở đất nước bạn. Tôi xem những chương trình có tên gọi Đảo Yêu, Nhà bếp Địa ngục, Ai là Triệu phú? và suy nghĩ cách tự tử trên tất cả những chương trình đó. Chết đuối, dao, và hỏi khán giả.
Một hôm các nhân viên trại giam phát cho chúng tôi một quyển sách nhan đề Cuộc sống ở Vương quốc Anh. Nó lý giải lịch sử đất nước các bạn và cách nào để thích nghi. Tôi dự tính cách tự tử trong thời Churchill (đứng dưới những quả bom), Victoria (lao mình dưới chân ngựa), và Henry Đệ bát (kết hôn với Henry Đệ bát). Tôi suy nghĩ cách tự tử dưới những chính phủ Công đảng và Bảo thủ, và tại sao không cần thiết phải lập kế hoạch tự tử dưới chế độ Dân chủ Tự do. Tôi bắt đầu hiểu đất nước bạn vận hành thế nào.
Họ chuyển tôi khỏi khu nhà y tế. Tôi vẫn còn la hét trong đêm, nhưng không phải hằng đêm. Tôi nhận ra mình đang vác hai kiện hàng. Vâng, một kiện là nỗi kinh hoàng, còn kiện kia là niềm hi vọng. Tôi nhận ra tôi đã kết liễu bản thân mình để trở lại với đời.
Tôi đọc tiểu thuyết của các bạn. Tôi đọc những tờ báo các bạn gửi. Ở mục bình luận tôi gạch dưới những câu quan trọng và tra từng từ một trong quyển Collins Gem của mình. Tôi luyện tập hàng giờ liền trước gương cho đến khi những từ to tát trông thật tự nhiên trên miệng tôi.
Tôi đọc rất nhiều về Hoàng gia của các bạn. Tôi thích Nữ hoàng hơn tiếng Anh của bà ta. Bạn có biết cách tự sát trong một buổi tiệc ngoài vườn với Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhị trên bãi cỏ lớn của Cung điện Buckingham ở London, trong trường hợp bạn được mời không? Tôi biết đấy. Là tôi, tôi sẽ tự tử với một chiếc cốc sâm banh vỡ, hoặc là một cái càng tôm hùm bén, hay thậm chí là một mẩu dưa chuột nhỏ mà tôi có thể nuốt xuống khí quản, nếu bọn người đó đột ngột xuất hiện.
Tôi thường tự hỏi Nữ hoàng sẽ làm gì, nếu bọn người ấy đột ngột đến. Bạn không thể nói với tôi rằng bà không nghĩ nhiều đến chuyện đó. Khi tôi đọc trong quyển Cuộc sống ở Vương quốc Anh về một số điều đã xảy ra với những phụ nữ giữ vị trí Nữ hoàng, tôi hiểu rằng bà hẳn phải lúc nào cũng nghĩ đến nó. Tôi nghĩ nếu Nữ hoàng và tôi gặp nhau, chúng tôi sẽ có nhiều điểm chung lắm.
Nữ hoàng thỉnh thoảng mỉm cười nhưng nếu bạn nhìn vào mắt bà trong ảnh chân dung ở mặt sau của tờ năm bảng, bạn sẽ thấy bà cũng đang mang một kiện hàng nặng. Nữ hoàng và tôi, chúng tôi đều sẵn sàng cho điều tồi tệ nhất. Trước công chúng bạn sẽ thấy chúng tôi tươi cười và đôi khi thậm chí còn cười to, nhưng nếu bạn là một người đàn ông nhìn chúng tôi theo cách nào đó, thì cả hai chúng tôi đều đảm bảo chúng tôi chết trước khi bạn đặt được một ngón tay lên người chúng tôi. Tôi và Nữ hoàng nước Anh, chúng tôi sẽ không cho bạn được thỏa mãn.
Sống như thế này thật tốt. Một khi đã sẵn sàng để chết, bạn không còn khổ sở chịu đựng nỗi kinh hoàng nữa. Vì vậy, tôi lo lắng nhưng tôi mỉm cười, vì tôi đã sẵn sàng chết, vào buổi sáng họ thả chúng tôi ra khỏi trại giam.
Tôi sẽ kể cho bạn nghe chuyện gì xảy ra khi tài xế taxi đến. Bốn đứa con gái chúng tôi đứng đợi ngoài trại giam người nhập cư. Chúng tôi đứng xoay lưng lại trại giam, vì đấy là điều bạn sẽ làm với con quái vật khổng lồ màu xám đã nhốt bạn trong bụng nó suốt hai năm, khi nó đột nhiên nhổ bạn ra. Bạn đứng quay lưng với nó và nói chuyện thì thầm, đề phòng trường hợp nó nhớ ra bạn và lại nảy ra ý tưởng thông minh là nuốt bạn trở lại.
Tôi nhìn sang Yevette, cô gái cao ráo xinh đẹp đến từ Jamaica. Trước đó, mỗi lần tôi nhìn cô, cô đều đang cười lớn và cười nhoẻn miệng. Nhưng giờ đây nụ cười của cô trông cũng thắc thỏm hệt như nụ cười của tôi.
“Có chuyện gì thế?” Tôi thì thầm.
Yevette kề môi sát tai tôi. “Ngoài lày ít ỏi an toàn.”
“Nhưng họ thả chúng ta rồi, phải không? Chúng ta tự do đi lại. Có vấn đề gì thế?”
Yevette lắc đầu và lại thì thầm, “Ứ đơn giản thế đâu, cưng ơi. Có tự do kỉu, đám con gái bọn mày được xênh xang đi nại, nhưng cũng có tự do kỉu, đám con gái bọn mày được xênh xang đi nại đến khi chúng tao tóm được bọn mày. Xin nỗi, nhưng rờ bọn ta đang có loại thứ hai đấy, Ong Nhỏ ạ. Thật sự. Họ gọi đó nà nàm kẻ nhập cư bất pháp.”
“Em không hiểu, Yevette.”
“Ừ, mà chị ứ giải thích ở đây được.”
Yevette nhìn sang hai cô gái kia, rồi nhìn trại giam sau lưng. Khi quay sang tôi, cô lại chồm đến sát tai tôi. “Chị đã xuất chiêu để đưa đám bọn ta ra khỏi đó.”
“Chiêu gì?”
“Suỵt, cưng ơi. Chốn này vách mọc tai đó Ong. Tin chị đi, bọn ta phải sục chỗ lấp. Rồi chị sẽ biểu nộ tình hình cho cưng nghe xả láng.”
Giờ thì hai cô gái kia đang nhìn chúng tôi chăm chăm. Tôi mỉm cười với họ và cố gắng không nghĩ đến điều Yevette vừa nói. Chúng tôi đang ngồi xổm ở cổng chính của trại giam. Hàng rào chạy dài khỏi chúng tôi sang hai phía. Nó cao cỡ bốn người đàn ông, trên có gắn dây thép gai cuộn thành những vòng đen xù xì. Tôi nhìn ba cô gái còn lại và bắt đầu cười khúc khích. Yevette đứng dậy, chống nạnh và trợn mắt nhìn tôi.
“Cô em cười quái rì há, Bọ Nhỏ?”
“Tên em là Ong Nhỏ mà Yevette, em cười cái hàng rào này này.”
Yevette ngước lên nhìn nó.
“Giời ơi, cô em, người Nye-jirrya các cô tệ cả bề ngoài lữa. Em nghĩ hàng giào lày buồn cười há, chị chỉ hi vọng ứ thấy cái giào lào em bẩu nà nghiêm khắc.”
“Là dây thép gai ấy, Yevette ạ. Ý em là, hãy nhìn lũ con gái chúng ta mà xem. Em với đồ lót trong một cái túi nhựa trong suốt, chị thì mang dép xỏ ngón, chị gái này thì mặc áo sari vàng thật đẹp, còn chị này thì đem theo tài liệu. Trông chúng ta có giống như leo được qua hàng rào ấy không? Nói thật nhá, họ có thể tháo mớ dây thép gai ấy ra, đặt những đồng bảng Anh và những quả xoài tươi trên nóc hàng rào, mà chúng ta vẫn không thể leo ra ngoài được.” Giờ thì Yevette phá ra cười, WU-ha-ha-ha-ha, rồi cô xỉa ngón tay để mắng tôi.
“Con bé rở hơi lày! Em tưởng họ xây giào lày để nhốt đám con gái bọn ta bên trong há? Rở hơi há? Họ xây giào lày nà để ngăn nũ trai ở ngoải. Nũ trai í biết giá trị của đám đàn bà rọ nhốt trong lày, nũ í sẽ tông cửa vào!”
Tôi cười, nhưng rồi cô gái với tập tài liệu lên tiếng. Cô đang ngồi xổm và nhìn xuống đôi giày thể thao Dunlop Green Flash của mình.
“Chúng ta đi đâu bây giờ?”
“Taxi chở đâu thì đi đó, cậu ứ hiểu há? Rồi liền tính tiếp. Nàm bộ mặt héo đó tươi tỉnh nên đi, cưng! Bọn ta sẽ đến đó, ở Anh.”
Yevette chĩa ngón tay về phía cánh cổng mở toang. Cô gái đem tài liệu nhìn lên nơi Yevette chỉ, cô sari cũng làm thế, và tôi cũng làm thế.
Đó là một buổi sáng rực rỡ, tôi đã nói với bạn điều này rồi. Bấy giờ đang là tháng Năm, ánh nắng ấm áp xuyên qua những lỗ thủng giữa các đám mây, như thể bầu trời là một chiếc bát màu xanh bị vỡ và một đứa bé đang cố dùng nó để đựng mật ong. Chúng tôi đang ở trên đỉnh đồi. Có một con đường dài trải nhựa uốn lượn từ cổng trại giam đến tận đường chân trời. Chẳng có xe cộ nào trên đấy. Ở đầu chúng tôi, con đường dừng lại nơi chúng tôi ngồi – nó không còn đi đâu nữa. Hai bên đường có những cánh đồng. Và đó là những cánh đồng tuyệt đẹp, có cỏ xanh mơn mởn vô cùng tươi non khiến bạn cảm thấy phát đói.
Tôi nhìn những cánh đồng đó và nghĩ, mình có thể bò trên mặt đất và dụi mặt vào lớp cỏ đó rồi ăn ngấu ăn nghiến. Và đấy chính là điều mà rất nhiều con bò đang làm ở bên trái con đường, và một số cừu nhiều hơn nữa đang làm ở bên phải con đường.
Ở cánh đồng gần nhất, một người đàn ông da trắng ngồi trong xe máy kéo màu xanh dương đang kéo một thiết bị gì đấy trên mặt đất, nhưng đừng hỏi tôi nó có chức năng gì. Một người da trắng khác mặc quần áo màu xanh dương mà tôi nghĩ bạn gọi là áo liền quần, ông ta đang buộc những cánh cổng lại bằng dây thừng màu cam sáng. Cánh đồng rất gọn gàng và vuông vức, những dãy hàng rào cây giữa chúng thấp và thẳng tắp.
“Bự quá,” cô đem tài liệu nói.
“Ứ phải, chẳng nà cái đinh rì,” Yevette nói. “Chúng ta phải đến được London. Tôi có người quen ở đấy.”
“Tôi không có người quen,” cô đem tài liệu nói. “Tôi chẳng biết ai hết.”
“Chà, thì cậu phải ráng há, người đẹp.”
Cô đem tài liệu nhíu mày. “Sao không có ai ở đây để giúp bọn ta hết? Sao nhân viên xã hội của tôi không đến đón tôi? Sao họ không cho bọn ta giấy ra trại?” Yevette lắc đầu.
“Bao la giấy trong túi cậu chưa đủ há, người đẹp? Con người, đúng nà được doi đòi xiên há.”
Yevette cười to, nhưng đôi mắt cô trông thật tuyệt vọng. “Cái taxi quái í đâu giồi?” Cô hỏi.
“Người trên điện thoại nói là mười phút.”
“Cảm giác như mười năm thật ấy chứ.”
Yevette im lặng. Chúng tôi lại nhìn ra cảnh đồng quê. Cảnh vật sâu và rộng. Một cơn gió thổi qua. Chúng tôi ngồi xổm ở đấy và nhìn lũ bò, lũ cừu cùng người đàn ông da trắng buộc các cánh cổng lại xung quanh chúng.
Một lúc sau, taxi của chúng tôi hiện ra trước mắt. Chúng tôi dõi theo nó từ lúc nó chỉ là một chấm nhỏ màu trắng ở đầu xa tít của con đường. Yevette quay sang tôi, mỉm cười.
“Não tài taxi lày lói chiện điện thoại có rễ thươn không há?”
“Em không nói chuyện với tài xế taxi. Em chỉ nói với người điều hành taxi thôi.”
“Mười tám tháng giời chị vắng vẻ mùi đàn ông, Bọ ạ. Não tài taxi lày lên nà một Mister Mention[9] thực thụ, hỉu ý há? Chị thích nũ cao giáo, có mỡ có thịt. Ứ thích giai gầy. Và thích nũ mặc đẹp lữa cơ. Ứ có thời gian với nũ dở hơi biết bơi, há?”
Tôi nhún vai. Tôi nhìn chiếc taxi tiến lại gần hơn.
Yevette nhìn tôi.
“Em thích kiểu đàn ông lào, Bọ Nhỏ?”
Tôi nhìn xuống đất. Ở đó có những cọng cỏ chui lên khỏi lớp nhựa đường, và tôi dùng tay bứt nó. Khi nghĩ đến đàn ông, tôi cảm thấy nỗi sợ trong ruột gan sắc lẹm đến độ như lưỡi dao ngoáy vào người. Tôi không muốn nói, nhưng Yevette dùng cùi chỏ huých tôi.
“Xem nào, Bọ, cô lương thích kỉu giai lào?”
“Ồ, chị biết đấy, kiểu thông thường thôi.”
“Cái gì? Kỉu tầm thường nà thế lào? Cao, thấp, gầy, béo?”
Tôi nhìn xuống tay mình. “Em nghĩ người đàn ông lý tưởng của em sẽ biết nhiều thứ tiếng. Anh ấy sẽ nói tiếng Ibo và Yoruba, tiếng Anh và tiếng Pháp, và hết thảy những thứ tiếng khác. Anh ấy có thể nói chuyện với bất kì ai, kể cả lính lác, và nếu tim họ chất chồng bạo lực thì anh ấy có thể thay đổi điều đó. Anh ấy không cần phải chiến đấu, chị hiểu không? Có thể anh ấy không đẹp trai cho lắm, nhưng anh ấy sẽ rất đẹp khi cất tiếng nói. Anh ấy sẽ rất tốt bụng, ngay cả khi chị nấu món ăn khét cho anh vì chị bận cười đùa buôn chuyện với các bạn của mình thay vì để ý đến bếp lửa. Anh ấy sẽ chỉ nói, À, không sao đâu.” Yevette nhìn tôi.
“Thứ nỗi nhé Bọ, dưng mà gã ný tưởn của em ứ thực nắm.”
Cô cầm tài liệu ngước lên từ đôi giày thể thao Dunlop Green Flash của mình. “Để nó yên đi. Cô không thấy nó còn ngây thơ trong trắng à?”
Tôi nhìn xuống đất. Yevette nhìn tôi trân trối một lúc lâu rồi đặt tay lên gáy tôi. Tôi gí mũi giày bốt của mình xuống đất và Yevette nhìn cô cầm tài liệu.
“Sao cậu biết hả người đẹp?”
Cô gái nhún vai và chỉ vào tập tài liệu trong chiếc túi nhựa trong suốt. “Tôi chứng kiến nhiều chuyện rồi. Tôi biết nhìn người.”
“Biết nhìu thế sao nại im bằng vỏ hến há?”
Cô kia lại nhún vai. Yevette nhìn cô trân trối.
“Mà người ta gọi cậu là gì hử người đẹp?”
“Tôi không cho người khác biết tên mình. Như vậy an toàn hơn.”
Yevette đảo tròng mắt. “Cá là cậu cũng ứ cho đàn ông số điện thoại.”
Cô cầm tài liệu nhìn Yevette, rồi nhổ nước bọt xuống đất. Cô đang run lên.
“Cô chẳng biết cái gì hết,” cô ấy nói. “Nếu mà hiểu biết sự đời thì cô sẽ không thấy nó mắc cười đâu.” Yevette đưa tay chống nạnh, khẽ lắc đầu.
“Người đẹp à,” cô nói. “Đời đã nấy nại các quà tặng từ cậu và tớ theo thứ tự khác nhau, thế thôi. Thật nòng mà lói, tớ chẳng còn gì ngoài những câu tếu táu. Còn cậu, cậu chẳng còn rì ngoài đống rấy tờ đó.”
Họ dừng lại ở đó, vì chiếc taxi đang tiến đến. Nó đỗ lại ngay phía trước chúng tôi. Cửa kính bên thân xe để mở, tiếng nhạc xập xình vọng ra. Tôi sẽ cho bạn biết đó là nhạc gì. Đó là bài hát có tên gọi “Chúng ta là những nhà vô địch” của một ban nhạc Anh tên là Nữ hoàng[10]. Đây là lý do tôi biết bài hát đó: là vì một nhân viên ở trại giam nhập cư rất thích ban nhạc này. Ông ấy thường đem theo máy chơi nhạc và mở nhạc cho chúng tôi khi chúng tôi bị nhốt trong phòng. Nếu bạn nhảy múa lắc lư để thể hiện mình thích loại nhạc đó, ông sẽ đem thêm thức ăn đến. Một lần ông cho tôi xem ảnh ban nhạc. Đó là tấm ảnh từ bìa đĩa CD. Một nhạc công trong ảnh có rất nhiều tóc. Những lọn nhỏ đen nhánh ngự trên đầu ông như một quả cân khổng lồ, dài xuống tận vai. Tôi hiểu nghĩa từ thời trang trong ngôn ngữ của bạn, nhưng mái tóc này trông không giống thời trang chút nào, thành thật mà nói – nó giống như một sự trừng phạt.
Một nhân viên trại giam khác đi ngang qua khi chúng tôi đang xem bức ảnh trên bìa đĩa CD, ông này chỉ tay vào nhạc công đầy tóc rồi nói, Đồ con c. Tôi nhớ mình đã rất hài lòng, vì tôi vẫn đang học cách nói ngôn ngữ của bạn vào lúc đó, và tôi chỉ mới hiểu rằng một từ có thể có hai nghĩa. Tôi hiểu ngay từ này. Tôi thấy rằng con c. là để chỉ mái tóc của nhạc công. Nó giống cái mào của con gà trống, bạn thấy không. Vì thế con c. là con gà trống, và cũng là người có kiểu tóc như thế[11].
Tôi kể với bạn chuyện này vì tài xế taxi có bộ tóc giống hệt như thế.
Khi taxi dừng lại ngoài cổng chính trại giam, người lái xe không rời khỏi ghế ngồi. Ông ta nhìn chúng tôi qua cửa xe hạ kính. Đó là một người da trắng gầy nhẳng, đeo kính râm có tròng màu xanh lá cây đậm và gọng màu vàng chói.
Cô gái mặc sari vàng ngẩn ngơ cả người khi thấy chiếc taxi. Tôi nghĩ cô cũng giống tôi, chưa bao giờ thấy một chiếc xe ô tô màu trắng vừa to, vừa mới lại vừa bóng lộn như thế. Cô đi vòng quanh xe, vuốt tay lên mặt nó và nói, Mmmm. Cô vẫn đang cầm chiếc túi rỗng trong suốt. Cô bỏ một tay khỏi túi và đưa ngón tay lần theo những chữ cái ở sau xe. Cô nói, F…O…R…D…hmm! Fod! Khi tiến đến phía trước xe, cô nhìn vào đèn pha và chớp mắt. Cô nghiêng đầu sang bên, rồi lại thẳng đầu lên, sau đó cô nhìn chiếc xe và cười khúc khích. Tài xế taxi nhìn theo cô suốt buổi. Sau đó ông ta nhìn sang chúng tôi và nét mặt ông giống như một người mới nhận ra mình đã nuốt phải một quả lựu đạn vì cứ tưởng nó là quả mận.
“Bạn các cô đầu óc không được bình thường,” ông ta nói.
Yevette dùng cùi chỏ huých vào bụng tôi. “Tốt nhất em ra mà lói đi, Bọ Nhỏ,” cô thì thầm.
Tôi nhìn tài xế taxi. “Chúng ta là những nhà vô địch” vẫn đang được mở trên máy, rất to. Tôi nhận ra mình cần nói với người tài xế một điều để chứng tỏ với ông ta rằng chúng tôi không phải dân tị nạn. Tôi muốn chứng tỏ chúng tôi là người Anh và nói ngôn ngữ của bạn và hiểu mọi điều tinh tế về văn hóa của bạn. Vả lại, tôi cũng muốn làm ông ta thấy vui vẻ. Đó là lý do tôi mỉm cười, bước đến cửa xe hạ kính và nói với người tài xế, “Xin chào, tôi thấy ông quả là một con c.”
Tôi nghĩ người tài xế không hiểu tôi. Nét chua chát trên mặt ông ta trở nên tồi tệ hơn. Ông khẽ lắc đầu và thốt lên, “Họ không dạy cho lũ khỉ chúng mày phép tắc nào trong rừng hết à?”
Rồi ông ta phóng xe đi, rất nhanh, đến nỗi bánh xe taxi rít lên như một đứa bé bị tước mất bình sữa. Bốn đứa con gái chúng tôi đứng nhìn chiếc taxi biến mất hút dưới đồi. Bầy cừu ở bên phải con đường và lũ bò ở bên trái cũng nhìn theo nó. Sau đó chúng quay lại gặm cỏ, và đám con gái chúng tôi trở lại ngồi xổm. Gió thổi qua, khiến những vòng dây thép gai kêu lanh canh trên đỉnh hàng rào. Bóng những đám mây nhỏ bé trên cao trôi hờ hững qua miền đồng quê.
Rất lâu sau mới có người lên tiếng.
“Đáng nẽ bọn ta lên để Cô làng Sari ra lói mới phải.”
“Em xin lỗi.”
“Nũ châu Phi khốn kiếp. Cứ tưởng mình giỏi trong khi chỉ rặt một nũ đần.”
Tôi đứng dậy, đi về phía hàng rào. Tôi nắm sợi xích và nhìn xuyên qua nó, xuống ngọn đồi và những cánh đồng. Ở dưới đấy, hai người nông dân vẫn còn làm việc, người lái máy kéo và người buộc cổng.
Yevette đến đứng sau lưng tôi. “Giờ bọn ta nàm gì đây, Bọ? Ứ đứng mãi đây được. Hay nà bọn ta đi bộ?”
Tôi lắc đầu. “Còn những người đàn ông ở dưới đấy thì sao?”
“Em nghĩ họ sẽ chặn bọn ta nại há?”
Tôi bám sợi xích chặt hơn. “Em không biết, Yevette. Em sợ lắm.”
“Sợ rì, Bọ? Biết đâu họ để yên bọn ta. Trừ khi em gọi họ giống gọi não tài taxi kia há?” Tôi mỉm cười lắc đầu.
“Vậy được giồi. Khỏi sợ. Chị đi với em, đến cùng giời cuối đất. Cho bọn chúng biết em có phép tắc khỉ khọt rì.”
Yevette quay sang cô cầm tài liệu. “Cậu thì sao, cô nàng không tên? Có đi cùng không há?”
Cô ta ngoái nhìn trại giam. “Sao họ chẳng giúp chúng ta nữa? Sao họ không cử nhân viên xã hội đến gặp chúng ta?”
“Úi giời, vì họ không bầu cử để nàm chuyện í, người đẹp ạ. Vậy cậu định nàm rì? Quay trở vào đấy, đòi cấp một con xe, một não bồ, rồi thêm ít chang xức nữa há?” Cô kia lắc đầu. Yevette mỉm cười.
“Tốt đấy, người đẹp. Giờ thì cậu, Cô làng Sari. Tôi lói thế lày nhá. Đi cùng bọn lày đi. Nếu đồng ý thì đừng nói gì cả.”
Cô mặc sari chớp mắt với Yevette, rồi ngoẹo đầu sang một bên.
“Tốt. Bọn ta đi lào, Bọ Nhỏ. Cuốc bộ ra khỏi lơi lày.”
Yevette quay sang tôi nhưng tôi vẫn đang nhìn cô gái kia. Gió thổi chiếc áo sari của cô ấy và tôi thấy một vết sẹo ngang cổ cô, ngang một đường, dày bằng ngón tay út. Nó trắng hếu như xương trên nền da sậm màu của cô. Nó thắt nút và ngoằn ngoèo quanh khí quản cô, như thể không chịu rời đi. Như thể nó nghĩ rằng vẫn còn cơ hội kết liễu cô. Cô bắt gặp tôi đang nhìn và lấy tay che vết sẹo, vì thế tôi nhìn bàn tay cô. Trên đấy cũng có sẹo. Chúng ta đã nhất trí về những vết sẹo, tôi biết thế, nhưng lần này tôi nhìn đi nơi khác vì đôi khi bạn có thể thấy quá nhiều nét đẹp.
Chúng tôi đi qua cánh cổng và tiến về con đường nhựa dẫn xuống chân đồi. Yevette đi trước, tôi thứ hai, còn hai cô kia đi sau tôi. Tôi nhìn xuống gót chân của Yevette suốt buổi. Tôi không nhìn sang trái hay sang phải. Tim tôi đập thình thịch khi chúng tôi xuống chân đồi. Tiếng ầm ầm của máy kéo vang lên to dần cho đến khi nó át hẳn tiếng dép của Yevette. Khi tiếng máy kéo nhỏ dần phía sau, tôi lại thở dễ dàng hơn. Ổn cả thôi, tôi thầm nghĩ. Chúng tôi đã đi qua họ, và đương nhiên chẳng có rắc rối nào. Tôi thật ngốc nghếch khi sợ hãi. Rồi tiếng máy kéo dừng lại. Gần đấy, một chú chim đang hót, trong sự im lặng đột ngột.
“Đợi đã,” một giọng đàn ông vang lên.
Tôi thì thầm với Yevette, “Đi tiếp đi.”
“ĐỢI ĐÃ!”
Yevette dừng lại. Tôi cố gắng vượt qua cô nhưng cô nắm chặt cánh tay tôi.
“Nghiêm túc đi, cưng. Em định chạy đi đâu hử?”
Tôi dừng lại. Tôi sợ quá, không thở nổi. Những cô khác trông cũng thế. Cô không tên thì thầm vào tai tôi, “Làm ơn đi. Chúng ta hãy quay lên đồi trở lại. Những người này không thích chúng ta, em thấy chưa?”
Người lái máy kéo bước khỏi buồng lái. Người kia, người đang buộc những cánh cổng, đi đến chỗ người thứ nhất. Họ đứng trên đường, giữa chúng tôi và trại giam. Người lái máy kéo đang mặc một chiếc áo khoác màu xanh lá cây và đội mũ lưỡi trai. Ông ta đứng thọc tay vào túi quần. Người buộc các cánh cổng – người mặc áo liền quần màu xanh dương – rất cao to. Người lái máy kéo chỉ đứng đến ngực ông ta. Ông ta cao đến độ lai quần trong bộ áo liền quần của ông ta vượt trên đôi tất đang đi cả khúc, và ông ta cũng rất béo. Có một ngấn mỡ hồng hào núc ních dưới cổ ông, và mỡ lồi ra ở những khoảng trống giữa lai quần và miệng tất. Ông đang đội một chiếc mũ len kéo sát xuống. Ông lấy từ túi ra một gói thuốc lá, rồi vấn một điếu thuốc mà không rời mắt khỏi bọn con gái chúng tôi. Ông không cạo râu, mũi to và đỏ chót. Đôi mắt ông cũng đỏ. Ông châm thuốc, phà khói, rồi nhổ nước bọt xuống đất.
Khi ông ta nói, ngấn mỡ lắc lư theo.
“Mới trốn trại phải không, mấy đứa?”
Người lái máy kéo cười thành tiếng. “Đừng chấp lão Albert Bé nhỏ,” ông ta nói.
Chúng tôi nhìn xuống đất. Tôi và Yevette đang đứng phía trước, cô mặc sari vàng và cô không tên đứng sau chúng tôi. Cô không tên lại thì thầm vào tai tôi. “Làm ơn đi, hãy quay bước. Những người này sẽ chẳng giúp chúng ta đâu, em không thấy sao?”
“Họ không hại chúng ta được đâu. Giờ chúng ta đang ở đất Anh mà. Không phải như ở quê chúng ta đâu.”
“Làm ơn mà, ta cứ đi đi.”
Tôi nhìn cô loi choi hết chân này đến chân kia trong đôi giày thể thao Dunlop Green Flash. Tôi không biết nên chạy hay đứng yên.
“Thế có đúng không nào?” Người đàn ông cao béo lên tiếng. “Trốn trại hả?”
Tôi lắc đầu. “Không, thưa ông. Chúng cháu được thả. Chúng cháu là người tị nạn đàng hoàng.”
“Mày có bằng chứng chứ hả?”
“Giấy tờ của chúng tôi nhân viên xã hội giữ rồi,” cô không tên lên tiếng.
Người cao béo nhìn khắp chúng tôi một lượt. Ông ta nhìn lên rồi nhìn xuống con đường. Ông rướn người để nhìn qua hàng rào sang cánh đồng cạnh bên.
“Ta có thấy nhân viên xã hội nào đâu,” ông ta nói.
“Hãy gọi cho họ nếu ông không tin,” cô không tên nói. “Gọi cho Cục Biên giới và Nhập cảnh đi. Kêu họ kiểm tra hồ sơ. Họ sẽ nói với ông rằng chúng tôi hợp pháp.”
Cô nhìn vào chiếc túi nhựa đựng đầy tài liệu của mình đến khi tìm thấy tờ giấy mà cô muốn.
“Đây,” cô nói. “Số đây. Gọi đi, ông sẽ biết ngay mà.”
“Khỏi. Nàm ơn đi. Đừng nàm thế,” Yevette nói.
Cô không tên nhìn Yevette trừng trừng. “Có vấn đề gì chứ?” Cô ta nói. “Họ thả chúng ta rồi mà, không phải sao?” Yevette nắm hai tay cô ta. “Ứ đơn giản đâu,” cô thì thầm.
Cô không tên nhìn Yevette trân trối. Sự tức giận hằn lên trong mắt.“Cô đã làm gì?” Cô hỏi.
“Những rì buộc phải nàm,” Yevette đáp.
Thoạt đầu cô không tên trông tức giận, rồi sau đó trở nên bối rối, và rồi, rất chậm rãi, tôi nhìn thấy nỗi khiếp đảm hiện lên trong mắt cô. Yevette chạm tay vào cô. “Xin nỗi. Tôi ước rì chuyện ứ diễn ra kỉu lày.” Cô kia đẩy tay Yevette ra.
Người lái máy kéo tiến đến một bước, nhìn chúng tôi và thở dài.
“Chắc lại là chuyện thường thấy đây mà, Albert Bé nhỏ ạ, chắc là thế.”
Ông ta nhìn tôi với ánh mắt buồn rười rượi và tôi thấy bụng mình nhộn nhạo.
“Chúng mày đang ở trong tình huống hết sức nhạy cảm mà không có giấy tờ gì cả, phải không? Một vài người sẽ lợi dụng điều đó.”
Gió thổi qua cánh đồng. Cổ họng tôi khít chặt đến nỗi không nói ra được. Người lái máy kéo hắng giọng.
“Đúng là thói làm việc chết tiệt của chính quyền này,” ông ta nói. “Ta cóc quan tâm chúng mày hợp pháp hay không. Nhưng làm sao họ thả chúng mày ra mà không có giấy tờ gì cả? Tay trái không biết tay phải định làm gì. Đó là tất cả những gì chúng mày có ư?”
Tôi đưa chiếc túi trong suốt của mình lên, và khi những cô khác thấy tôi làm thế, họ cũng làm theo. Người lái máy kéo lắc đầu.
“Hệt như mấy vụ trước, phải không, Albert?”
“Ai mà biết hở ông Ayres.”
“Chính phủ này chẳng quan tâm đến ai cả. Chúng mày không phải là những người đầu tiên ta thấy đi lang thang trên những cánh đồng này như người sao Hỏa. Chúng mày thậm chí còn không biết đang ở xứ sở nào nữa, phải không? Chính quyền thối nát. Chẳng quan tâm gì đến người tị nạn chúng mày, chẳng quan tâm gì đến nông thôn lẫn nông dân. Cái chính phủ thối tha này chỉ biết quan tâm đến lũ cáo và dân thành thị thôi.”
Ông ta nhìn lên hàng rào dây thép gai ở trại giam phía sau, rồi lần lượt nhìn từng đứa chúng tôi.
“Từ đầu lẽ ra chúng mày đã không nên rơi vào tình huống này. Thật là một sự sỉ nhục khi giam những đứa con gái như chúng mày ở một nơi như thế. Phải không, Albert?”
Albert Bé nhỏ tháo mũ len ra và gãi đầu, rồi nhìn lên trại giam. Ông ta nhả khói thuốc qua mũi và chẳng nói gì.
Ông Ayres nhìn bốn đứa chúng tôi.
“Vậy, bọn tao sẽ làm gì với chúng mày? Chúng mày muốn tao đi ngược lên tận trên đấy với chúng mày đến khi liên lạc được với các nhân viên xã hội của chúng mày ư?” Mắt Yevette trợn tròn khi ông Ayres nói ra điều này.
“Xin miễn, ông ạ. Tôi ứ quay nại chốn địa ngục ấy lữa. Một giây cũng ứ đi, riết tôi còn hơn. Khỏi lói nhìu.” Khi đó ông Ayres nhìn tôi.
“Tao nghĩ họ đã thả nhầm chúng mày rồi,” ông ta nói. “Đúng, tao nghĩ thế đấy. Phải không?”
Tôi nhún vai. Cô sari và cô không tên chỉ nhìn chúng tôi để xem chuyện gì sẽ xảy ra.
“Chúng mày có nơi nào để đi chưa? Có bà con họ hàng gì không? Có ai chờ chúng mày ở đâu không?”
Tôi nhìn những cô gái khác, rồi nhìn lại ông ta và lắc đầu.
“Có cách nào để chứng minh bọn mày hợp pháp không? Tao có thể gặp rắc rối nếu để chúng mày đi lên đất của tao rồi hóa ra tao đang bao che người nhập cư lậu. Tao có một vợ ba con rồi. Đây là câu hỏi nghiêm túc đấy.”
“Cháu xin lỗi, thưa ông Ayres. Chúng cháu sẽ không đi lên đất của ông. Chúng cháu sẽ đi thẳng.”
Ông Ayres gật đầu, tháo chiếc mũ phẳng ra, nhìn vào đó, rồi xoay nó vòng vòng trong tay. Tôi nhìn những ngón tay ông vờn lớp vải màu xanh lá cây. Móng tay ông dày và vàng khè. Những ngón tay bám đầy đất bẩn.
Một con chim đen to vỗ cánh trên đầu chúng tôi và bay đi theo hướng mà chiếc taxi của chúng tôi đã mất hút. Ông Ayres hít một hơi sâu rồi đưa mặt trong chiếc mũ cho tôi xem. Có một cái tên may đính vào lớp lót của chiếc mũ. Tên được viết bằng tay trên miếng nhãn bằng vải màu trắng. Miếng nhãn đã ố vàng vì mồ hôi.
“Mày đọc được tiếng Anh không? Thấy cái nhãn viết gì không?”
“Nó viết là AYRES, thưa ông.”
“Đúng vậy. Chính xác đấy. Tao là Ayres, đây là mũ của tao, còn mảnh đất mà lũ con gái chúng mày đang đứng là Trang trại Ayres. Tao làm việc trên đất này nhưng không đặt ra luật lệ cho nó, tao chỉ cày cấy quanh chân đồi vào mùa xuân, mùa thu. Ông có cho rằng như thế thì tôi có quyền quyết định xem mấy cô này được ở trên đó không, Albert Bé nhỏ?”
Trong một lúc, tiếng gió là âm thanh duy nhất vang lên. Albert Bé nhỏ nhổ nước bọt xuống đất. “Chà, ông Ayres à, tôi có phải là luật sư đâu. Hết ngày thì tôi cũng chỉ là một gã chăn bò chăn lợn thôi, phải không nào?”
Ông Ayres bật cười. “Chúng mày có thể ở lại,” ông ta nói.
Rồi có tiếng thút thít sau lưng tôi. Đó là cô không tên. Cô ta cầm chiếc túi đựng tài liệu và khóc, cô mặc sari vàng quàng tay qua người cô. Cô hát cho cô không tên nghe bằng giọng khe khẽ, như cách chúng tôi thường hát cho một đứa trẻ khi nó giật mình giữa đêm vì tiếng súng ở đằng xa và cần được dỗ dành để khỏi quấy. Tôi không biết bạn có từ nào để gọi kiểu hát này không.
Albert lấy điếu thuốc ra khỏi môi, bóp tắt nó bằng ngón cái và ngón trỏ, vo thành viên nhỏ rồi cho vào túi quần. Ông lại nhổ nước bọt xuống đất, rồi đội mũ len lên.
“Nó khóc lóc cái gì đấy?”
Yevette nhún vai. “Chắc nà cô làng ứ quen được đối xử tốt í mà.”
Albert suy nghĩ về chuyện này rồi khẽ gật đầu. “Tôi có thể đưa chúng nó đến nhà kho dành cho đám thợ gặt, được không ông Ayres?”
“Cám ơn, Albert. Đúng, đưa đến đấy cho chúng nghỉ ngơi đi. Tôi sẽ bảo vợ tôi tìm hiểu xem chúng muốn gì.” Ông quay sang chúng tôi. “Chúng tao có một chỗ ngủ dành cho những người lao động thời vụ. Lúc này nó để trống. Nó chỉ được dùng đến vào mùa gặt và mùa cừu sinh sản thôi. Chúng mày có thể ở đấy một tuần, không hơn. Sau đó thì tự lo nhé.”
Tôi mỉm cười với ông Ayres, nhưng ông phẩy tay. Có lẽ đây là cách bạn phẩy tay đuổi một con ong trước khi nó tiến đến quá gần. Bốn đứa chúng tôi đi theo Albert băng qua cánh đồng. Chúng tôi đi thành một hàng. Albert đi trước, đội mũ len và mặc áo liền quần màu xanh. Ông ta vác một bó to dây nhựa màu cam chói. Kế đến là Yevette, mặc áo đầm chữ A màu tím và mang dép, rồi đến tôi, tôi đang mặc quần jeans xanh và áo sơ mi Hawaii. Sau lưng tôi là cô không tên, cô ấy vẫn đang khóc, rồi đến cô mặc sari vàng, vẫn đang hát cho cô kia nghe. Lũ bò và cừu tránh đường để nhìn chúng tôi khi chúng tôi đi băng qua cánh đồng. Bạn có thể thấy chúng nghĩ, Đây là những sinh vật mới lạ mà Albert Bé nhỏ đang chăn.
Albert đưa chúng tôi đến một dãy nhà dài nằm cạnh một con suối. Dãy nhà có tường gạch thấp cỡ vai tôi, nhưng có mái kim loại cao dựng lên từ bức tường và uốn cong hình mái vòm, vì thế trông như một đường hầm. Mái nhà kim loại không được sơn phết. Tường không có cửa sổ nhưng có những tấm tôn sáng bằng nhựa trên mái nhà. Dãy nhà tọa lạc trên một cánh đồng dơ bẩn, xung quanh là lũ lợn và đàn gà mái đang bươi móc đất. Khi chúng tôi xuất hiện, lũ lợn đứng yên tại chỗ giương mắt nhìn. Đàn gà hốt hoảng bỏ đi, còn ngoái cổ nhìn để đảm bảo là chúng tôi không đuổi theo.
Đàn gà đã sẵn sàng bỏ chạy nếu thấy cần. Chân chúng co giật khi nhấc lên và khi đặt xuống, có thể thấy các móng chân đang run lẩy bẩy. Chúng tụ sát nhau hơn và tạo ra tiếng rì rầm. Cao độ của tiếng ồn tăng lên mỗi khi một đứa con gái chúng tôi tiến đến gần hơn một bước, và hạ xuống mỗi khi đàn gà mái lấy lại được khoảng cách an toàn giữa chúng và chúng tôi. Tôi cảm thấy rất buồn khi chứng kiến đàn gà mái. Cách chúng di chuyển và tiếng động chúng tạo ra, giống hệt như khi Nkiruka và tôi cuối cùng rời khỏi ngôi làng của chúng tôi ở quê nhà.
Một buổi sáng, hai chị em tôi nhập bọn với một nhóm đàn bà con gái và bỏ chạy vào rừng, rồi đi bộ đến khi trời tối, sau đó nằm xuống ngủ bên lối đi. Chúng tôi không dám nhóm lửa. Trong đêm chúng tôi nghe tiếng súng nổ, nghe tiếng người gào lên như lũ lợn bị nhốt trong lồng chờ đến lúc bị chọc tiết. Đêm đó trăng tròn, và nếu như mặt trăng có há miệng ra để hét lên thì tôi cũng không còn cảm thấy sợ hơn được nữa. Nkiruka ôm chặt lấy tôi. Trong nhóm chúng tôi có trẻ em, vài đứa đã thức giấc và phải được hát cho nghe mới chịu nằm yên. Vào buổi sáng có một làn khói cao ác nghiệt bay lên trên phía cánh đồng chỗ làng chúng tôi. Đó là khói đen, nó cuồn cuộn và sùng sục khi vươn lên nền trời xanh. Vài đứa bé trong nhóm hỏi khói bốc ra từ đâu, và những người đàn bà mỉm cười bảo chúng, Đó chỉ là khói của núi lửa thôi, các con ạ. Chẳng có gì phải lo lắng cả. Tôi nhìn nụ cười trên mặt họ biến mất khi họ quay mặt tránh ánh mắt những đứa con mình và nhìn trân trối lên bầu trời xanh phủ đầy khói đen.
“Mày không sao chứ?”
Albert đang nhìn tôi chăm chú. Tôi chớp mắt. “Không sao ạ. Cám ơn ông.”
“Mơ mộng giữa ban ngày hả?”
“Vâng, thưa ông.”
Albert lắc đầu rồi cười. “Nói thật nhé, người trẻ bọn mày. Đầu óc cứ ở trên mây.”
Ông ta mở cửa dãy nhà cho chúng tôi đi vào. Bên trong có hai dãy giường, mỗi dãy nằm bên một bức tường dài. Giường làm bằng kim loại, sơn màu xanh lá cây đậm. Trên giường có nệm trắng sạch sẽ, và gối không có vỏ bao. Sàn nhà là bê tông sơn xám, bóng lộn và được quét dọn sạch sẽ. Từng luồng ánh nắng rọi xuống từ tấm giếng trời. Có những vòng xích dài treo lủng lẳng. Chúng kéo dài đến tận mái nhà, khoảng cách từ nền đất đến mái ở khoảng giữa dãy nhà bằng chiều cao của năm người đàn ông. Albert chỉ chúng tôi cách kéo một đầu của mỗi vòng xích để mở tấm giếng trời ra, và đầu kia của sợi xích để đóng nó lại. Ông chỉ cho chúng tôi những phòng hình hộp ở cuối dãy nhà làm nơi tắm rửa vệ sinh rồi nháy mắt.
“Thế nhé, các cô gái. Chỗ ở không được tiện nghi như khách sạn, đó là chuyện chắc chắn, nhưng đố tìm đâu ra khách sạn nào mà bọn mày có thể nhét hai mươi đứa con gái Ba Lan vào trong một phòng, như phòng chúng mày đang ở mà ban quản lý lại có thể dửng dưng như không. Bọn mày phải thấy một số chuyện mà đám thợ gặt của chúng ta làm sau khi tắt đèn. Nói thật nhé, tao nên bỏ việc chăn gia súc để chuyển sang làm phim.”
Albert cười hềnh hệch nhưng bốn đứa con gái chúng tôi chỉ đứng đấy nhìn ông ta. Tôi không hiểu sao ông ta lại nói về phim ảnh. Ở làng tôi, hằng năm khi mùa mưa kết thúc, cánh đàn ông lại đến thị trấn và đem về máy chiếu cùng máy phát điện diesel, rồi buộc một sợi dây thừng quanh hai cái cây, và chúng tôi xem phim trên tấm vải trắng mà họ treo trên sợi dây đó. Phim không có tiếng, chỉ có tiếng ầm ầm của máy phát điện và tiếng rít của những sinh vật trong rừng. Chúng tôi đã biết về thế giới của bạn như thế. Phim duy nhất chúng tôi có là Top Gun và chúng tôi xem nó năm lần. Tôi nhớ lần đầu tiên xem phim, lũ con trai trong làng rất phấn khích vì chúng nghĩ phim sẽ nói về một khẩu súng, nhưng đó không phải là phim về một khẩu súng. Đó là phim về một người đã đi đến mọi nơi rất nhanh, đôi khi bằng xe máy và đôi khi bằng máy bay do anh ta tự lái, và đôi khi bay lộn ngược nữa. Chúng tôi bàn bạc chuyện này, lũ trẻ con trong làng tôi, và chúng tôi quyết định hai việc: một, bộ phim đáng lẽ nên được gọi là Người đàn ông cực kì vội vã và hai, tinh thần của bộ phim là anh ta nên dậy sớm để khỏi phải lật đật làm cho xong mọi việc trong ngày, thay vì nằm trên giường với cô gái tóc vàng mà chúng tôi gọi là “Cô gái ngủ trên giường.” Đó là phim duy nhất mà tôi từng xem, vì thế tôi không hiểu khi Albert nói ông ta nên làm phim. Trông ông ta không giống như biết lái máy bay lộn ngược. Thật ra tôi để ý thấy ông Ayres thậm chí còn không cho ông ta lái máy kéo màu xanh. Albert thấy lũ con gái chúng tôi trợn mắt nhìn lại thì lắc đầu.
“Ôi, đừng bận tâm,” ông ta nói. “Đấy, có chăn, khăn tắm và đồ đạc ở mấy cái tủ đằng kia. Thể nào lát nữa ông Ayres cũng sẽ đem thức ăn xuống đây cho chúng mày. Hẳn là tao sẽ còn gặp lại chúng mày trong khu trang trại.”
Bốn đứa con gái chúng tôi đứng giữa nhà nhìn ông Albert đi ra giữa hai dãy giường. Ông ta vẫn còn cười một mình khi bước vào ánh sáng ban ngày. Yevette nhìn chúng tôi rồi nhịp ngón tay lên thái dương.
“Đừng bận tâm não í. Đàn ông da trắng ai cũng hâm.”
Cô ngồi xuống mép chiếc giường gần nhất, lấy một lát thơm khô ra khỏi chiếc túi nhựa trong suốt rồi cho vào mồm nhai. Tôi ngồi xuống cạnh cô, trong khi cô sari đưa cô không tên đi xuống cuối phòng để nằm nghỉ vì cô vẫn còn khóc.
Albert để cửa mở, vài con gà mái đi vào và bắt đầu tìm thức ăn dưới giường. Cô không tên thét lên khi trông thấy đàn gà đi vào dãy nhà, cô rút chân lên sát ngực và tấn một chiếc gối phía trước. Cô ngồi đấy với đôi mắt mở to thao láo từ phía trên chiếc gối, còn đôi giày thể thao Dunlop Green Flash thì thò ra phía dưới gối.
“Bìn - TĨN đi người đẹp. Chúng ứ hại cậu đâu, chỉ nà gà thui mà, cậu ứ thấy hử?”
Yevette thở dài. “Nại thế lữa giồi, há, Bọ Nhỏ?”
“Vâng. Lại như thế nữa.”
“Cô làng đó thật nà thảm, há?”
Tôi nhìn qua cô không tên. Cô đang nhìn Yevette trân trối và làm dấu thánh giá.
“Vâng,” tôi đáp.
“Có nẽ đây nà phần khó nhứt, giờ thì họ thả bọn ta giồi. Trong trại họ núc lào cũng bảo, nàm cái lày, nàm cái lọ. Ứ có thời gian để nghĩ. Nhưng rờ tất cả đột nhiên im nặng, há? Như thế nguy nắm, thật đấy. Khiến cho mọi kí ức xấu trở nại.”
“Chị nghĩ đó là lý do chị ấy khóc à?”
“Chị biết mà, cưng. Rờ bọn ta phải tự no thui, thật đấy.”
Tôi nhún vai và kéo đầu gối lên sát cằm. “Bây giờ chúng ta làm gì, Yevette?”
“Chả biết, cưng à. Em tính sao thì tính, đây nà vấn đề số mụt ở đất lước lày. Ở xứ chị, chẳng có bình yên mà chỉ có cả đống tin nhảm. Núc lào em cũng nghe thì thầm nà em có thể nàm cái lày nàm cái lọ. Nhưng ở đây bọn ta gặp vấn đề ngược ngạo, Bọ à. Bọn ta có hòa bình nhưng chẳng có thông-tin rì cả, hỉu không?”
Tôi nhìn vào mắt Yevette. “Chuyện gì đang xảy ra hở Yevette? Chị đã giở chiêu gì? Tại sao họ lại thả chúng ta ra khỏi nơi đó mà không có giấy tờ gì cả?”
Yevette thở dài. “Chị đã ban một ân huệ cho một nhân viên trại giam, há? Não í xửa trên máy tính, xỉa vô ô thích hợp, và thế nà – POW! – hiện nên tên bọn người được thả. Em, chị và hai cô làng kia. Các nhân viên trại giam ấy sẽ chẳng hỏi han gì cả. Họ chỉ thấy tên hiện ra trên màn hình máy tính vào sáng lay, và – BAM! – đưa em gia khỏi phòng và chỉ gia cánh cửa. Họ cóc quan tâm nhân viên xã hội của em có ở đó để đón em hay không. Họ quá bận dán mắt vào các làng nòi vú trên báo, há. Và thế nà bọn ta ở đây. Giải phóng và thoải mái.”
“Trừ mỗi việc chúng ta không có giấy tờ.”
“Đúng. Nhưng chị cóc sợ.”
“Em thì sợ.”
“Ứ sợ.”
Yevette siết chặt tay tôi và tôi mỉm cười.
“Đó mới nà em gái của chị chứ.”
Tôi nhìn quanh phòng. Cô sari và cô không tên đang ở cách đấy sáu giường. Tôi ngả người qua gần Yevette và thì thầm với cô. “Chị có biết ai ở đất nước này không?”
“Dĩ nhiên giồi cưng à. William Shakespeare, Công lương Diana, Trận chiến Anh. Chị biết bọn họ. Học mấy tên đó để nàm bài thi Công dân. Em cứ kỉm cha chị xem.”
“Không, ý em là, chị có biết mình sẽ đi đâu nếu được ra khỏi đây không?”
“Biết chứ cưng. Chị có đồng hương ở London. Có nửa dân số Jamaica sống ở hẻm Cole Harbour. Có nẽ họ sẽ kiu riu về những người Nye-jirrya sống cạnh bên đấy. Em thì sao? Em có gia đình ở đó không?”
Tôi cho cô xem tấm thẻ lái xe Vương quốc Anh từ chiếc túi nhựa trong suốt của mình. Đó là một chiếc thẻ nhỏ bằng nhựa dán ảnh của Andrew O’Rourke. Yevette cầm nó lên để xem.
“Cái lày nà gì?”
“Nó là giấy phép lái xe. Nó có địa chỉ của người này trên đó. Em sẽ đi thăm chú ấy.”
Yevette đưa chiếc thẻ lại gần mình và nhìn chăm chú vào đó. Rồi cô đưa nó ra xa và chun mũi nhìn xuống. Sau đó cô lại ngước lên, chớp chớp mắt.
“Đây nà người da trắng mà, Bọ Nhỏ.”
“Em biết.”
“Được giồi, được giồi, chỉ kỉm cha thôi. Chỉ xem em có bị mù hay dốt không.”
Tôi mỉm cười nhưng Yevette thì không.
“Bọn ta lên bám nấy nhau, cưng à. Sao em không đi London với chị? Chắc chắn em sẽ tìm được vài đồng hương ở đó.”
“Nhưng em không quen họ, Yevette ạ. Em không biết có tin họ được không.”
“Cái rì, vậy em tin não đàn ông lày há?”
“Em gặp chú ấy rồi.”
“Xin nỗi nhá, Bọ, nhưng gã lày nhìn ứ giống noại người hệt em.”
“Em gặp chú ấy ở nước em.”
“Gã lày nàm quái rì ở Nye-jirrya?”
“Em gặp chú ấy trên bãi biển.”
Yevette ngửa đầu ra sau và vỗ đùi. “WU-ha-ha-ha-ha! Giờ chị hỉu giồi. Thế mà bọn ló bảo em nà gái còn chinh!”
Tôi lắc đầu. “Không phải như thế đâu.”
“Đừng bỉu chị ứ phải thế, cô em Bọ Nhỏ Sexy ạ. Em hẳn phải nàm chuyện rì đó với não í, khiến não đưa em tờ rấy quý rá lày.”
“Vợ chú ấy cũng ở đó, Yevette ạ. Cô ấy rất đẹp. Cô ấy tên là Sarah.”
“Vậy sao não đưa bằng nái xe cho em? Vợ não đẹp đến lỗi não nghĩ Mẹ kiếp, mình chả cần cái lày lữa, vợ tôi đẹp hết xảy lên tôi cóc cần nái xe đi đâu lữa cả, chỉ cần ngồi ở nhà ngắm vợ thui?”
Tôi nhìn đi chỗ khác.
“Vậy thì xao há? Em ăn cắp tài liệu lày há?”
“Không.”
“Vậy thì xao? Chuyện rì đã sảy gia?”
“Em không kể được. Nó xảy ra ở một cuộc đời khác.”
“Có nẽ em đã phí quá chời giờ học thứ tiến An xang chọng đó, Bọ Nhỏ ạ, vì thế nghe thật nà điên. Em xống có mụt đời thui, cưng à. Em ứ chân chọng mụt chút đời mình cũng chả xao, vì ló vẫn nà mụt chút đời của em thui.”
Tôi nhún vai, nằm xuống giường và nhìn sợi xích gần nhất đung đưa từ trần nhà. Mỗi mắt xích móc vào mắt trước đó và sau đó. Nó quá chắc chắn, một đứa con gái như tôi không thể phá vỡ được. Toàn bộ sợi xích đung đưa qua lại và sáng lên dưới ánh nắng từ tấm giếng trời. Tựa như bạn có thể kéo đầu trưởng-thành và sớm muộn gì bạn cũng sẽ trở thành một đứa trẻ, hệt như kéo một xô nước lên từ một cái giếng. Như thể bạn sẽ không bao giờ phải giữ một đầu bị đứt, chẳng có gì cột vào đấy.
“Rất khó để em nhớ lại ngày em gặp chú Andrew và cô Sarah, Yevette ạ. Giờ em còn không biết có nên đi thăm họ hay không nữa.”
“Vậy kể toạc đi, Bọ. Chị sẽ lói việc đấy tốt hay đừng.”
“Em không muốn kể chuyện đó cho chị nghe, Yevette à.” Yevette đưa tay chống nạnh và trợn mắt nhìn tôi.
“Bọn ta sẽ bắt em nàm thế, cô làng chu Phi nhỏ bé!”
Tôi mỉm cười. “Em chắc chắn có những phần đời của chị mà chị không muốn nhắc đến, Yevette ạ.”
“Để em khỏi ganh tị nhé, Bọ. Chị sẽ kể vài chiện chị đã nàm trong đời rất chi là xung xướng sa hoa, sẽ khiến em ganh tị đến lổ tung, rùi Cô Sari đằng kia sẽ phải nau dọn đống bầy hầy, mà rờ thì cô ta mệt giồi, em tín