← Quay lại trang sách

- 4 -

Vào sáng sớm ngày diễn ra tang lễ Andrew, trước khi Ong Nhỏ đến, tôi nhớ mình đã nhìn xuống từ cửa sổ phòng ngủ nhà chúng tôi ở Kingston-mạn-trên-Thames. Ở ngoài vườn, cạnh cái ao, Batman đang dùng gậy đánh golf bằng nhựa dành cho trẻ em thọc vào kẻ xấu, trông nó thật gầy gò và đơn độc. Tôi tự hỏi mình có nên hâm nóng ít sữa và pha một tách gì đấy cho con. Tôi nhớ mình đã tự hỏi có gì thực sự hiệu quả để cho vào tách. Đầu óc tôi đang ở trạng thái tỉnh táo, trong suốt như pha lê đi kèm với sự thiếu ngủ.

Bên kia vườn, tôi có thể trông thấy vườn sau nhà của cả khu phố, uốn lượn ra xa như bộ xương sống màu xanh bị gãy, với đốt sống là những lò nướng barbecue và những chiếc xích đu nhựa đã bạc màu. Tiếng còi báo động xe chói tai và tiếng gầm rú của những chuyến bay cất cánh khỏi sân bay Heathrow vọng qua lớp kính kép. Tôi gí mũi lên kính và tự nhủ: khu ngoại ô quái quỷ này thật đúng là địa ngục. Tại sao tất cả chúng tôi lại trôi giạt đến đây? Tại sao có quá nhiều người chúng tôi kết tụ ở chốn xa xôi hẻo lánh này?

Trong khu vườn cạnh nhà, vào buổi sáng tang lễ hôm ấy, ông hàng xóm đang mắc những chiếc quần lót màu xanh lên dây để phơi khô. Con mèo đang cuộn tròn quanh chân ông ta. Trong phòng ngủ của tôi, radio đang phát Chương trình hôm nay. John Humphrys nói chỉ số FTSE[15] xuống khá thấp.

Phải rồi, nhưng tôi thì đã mất chồng. Tôi nói lớn tiếng, khi một con ruồi mắc kẹt đang yếu ớt đập cánh ở khe cửa sổ. Tôi nói: Tôi e rằng chồng tôi chết rồi. Chồng tôi Andrew O’Rourke, cây bút bình luận nổi tiếng, đã kết liễu đời mình. Và tôi cảm thấy…

Thực ra tôi không biết mình cảm thấy thế nào. Chúng tôi không có cách nói của người trưởng thành để chỉ nỗi buồn. Những chương trình truyền hình ban ngày làm tốt hơn nhiều. Tôi biết mình nên cảm thấy tan nát, đương nhiên. Cuộc đời tôi đã vỡ vụn. Đó có phải là cụm từ thường nói không? Nhưng Andrew đã chết gần một tuần rồi, vậy mà tôi vẫn như thế này, mắt ráo hoảnh, trong căn nhà nồng nặc mùi rượu gin và hoa huệ tây. Vẫn cố gắng để cảm thấy buồn cho hợp lẽ. Vẫn đào xoáy vào kí ức về cuộc sống chung ngắn ngủi của tôi với Andrew tội nghiệp. Tìm kiếm viên đá chặn, viên đá kí ức mà khi nứt sẽ sinh ra triệu chứng đau đớn nào đó. Nước mắt chẳng hạn, dưới sức ép không thể tin nổi. Cuộc đời tôi đã bước vào một vòng xoáy trôn ốc, Trisha ạ. Tôi không thể hình dung nổi cuộc sống thiếu vắng anh ấy.

Buồn kiểu này thật mệt mỏi, vô phương, mà chẳng biết liệu tôi có cảm thấy buồn hay không nữa. Có thể còn quá sớm. Lúc này tôi cảm thấy tội nghiệp cho con ruồi bị mắc kẹt đang bay vo ve ở cửa sổ hơn. Tôi mở chốt cửa cho nó bay ra, mỏng manh và yếu đuối, trở lại với cuộc chiến.

Ở mặt bên kia của lớp kính, ngày tỏa hương mùa hè. Ông hàng xóm của tôi đã di chuyển dọc theo sợi dây phơi quần áo, tiến sang trái khoảng một mét. Ông ta đã mắc xong những chiếc quần lót, giờ đang mắc đến tất. Quần áo của ông được treo lên như những lá cờ cầu nguyện, khẩn cầu với những vị thần linh ban ngày: Tôi e rằng dường như tôi đã chuyển đến sống ở vùng ngoại ô. Liệu có thể thay đổi được gì không?

Một ý nghĩ bỏ trốn hiện ra, lẳng lặng và đểu giả. Tôi có thể bỏ đi, ngay lúc này, được không? Tôi có thể đem theo Charlie, thẻ tín dụng, đôi giày màu hồng yêu thích của mình, và tất cả có thể lên một chuyến bay. Ngôi nhà, công việc và nỗi buồn sẽ thu nhỏ lại thành một dấu chấm sau lưng tôi. Tôi nhớ mình nhận ra, với cơn rùng mình tội lỗi, rằng không còn bất kì lý do gì để tôi ở lại đây nữa – xa cách con tim tôi, lạc lõng ở đây trong chốn ngoại ô này.

Nhưng cuộc đời nào dễ cho ta bỏ trốn. Đó là khi tôi nghe tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa ra và thấy Ong Nhỏ, và cứ đứng nhìn cô bé thật lâu không chớp mắt. Không ai lên tiếng. Sau một lúc, tôi bảo cô bé vào nhà và ngồi xuống ghế sofa. Cô gái da đen mặc áo sơ mi Hawaii màu trắng đỏ, lấm lem đất Surrey. Sofa từ Habitat. Kí ức từ địa ngục.

“Cô không biết phải nói gì. Cô tưởng cháu đã chết.”

“Cháu chưa chết, cô Sarah ạ. Có lẽ nếu cháu chết thì đã tốt hơn.”

“Đừng nói thế. Trông cháu mệt quá. Cô nghĩ cháu cần nghỉ ngơi.”

Một sự im lặng kéo dài thật lâu.

“Vâng. Cô nói đúng. Cháu cần nghỉ ngơi.”

“Làm thế nào mà cháu… ý cô là, làm sao cháu sống sót? Làm sao cháu đến được đây?”

“Cháu đi bộ.”

“Từ Nigeria ư?”

“Làm ơn đi. Cháu mệt lắm.”

“Ồ. Phải rồi. Dĩ nhiên. Đúng thế. Cháu có muốn một tách, cháu biết đấy…”

Tôi không đợi câu trả lời. Tôi bỏ chạy. Tôi để Ong Nhỏ ngồi trên sofa, dựa trên gối đệm John Lewis, và tôi chạy lên lầu. Tôi nhắm mắt lại, lăn trán mình lên lớp kính mát lạnh của cửa sổ phòng ngủ. Tôi gọi điện thoại cho một người. Một người bạn. Thật ra thì, hơn cả một người bạn.

Lawrence là như thế.

“Có chuyện gì?” Lawrence nói.

“Anh có vẻ bực bội.”

“Ồ. Sarah. Là em à. Chúa ơi, anh xin lỗi. Anh tưởng em là cô trông trẻ. Cô ấy đến muộn. Mà con anh thì đang nôn ọe lên cà vạt của anh. Mẹ kiếp.”

“Có chuyện rồi, Lawrence.”

“Chuyện gì?”

“Một người mà em thực sự không ngờ vừa mới đến.”

“Đám tang lúc nào chẳng thế. Cô hồn các đảng khắp nơi kéo đến. Em không thể chặn lũ cặn bã ấy được.”

“Vâng, dĩ nhiên, nhưng người này còn hơn cả thế. Đó là, đó là…” tôi lắp bắp nhỏ dần rồi im lặng.

“Xin lỗi, Sarah, anh biết chuyện này nghe thật kinh khủng, nhưng anh đang vội hoa cả mắt lên đây. Anh có thể thực sự giúp gì cho em?”

Tôi áp khuôn mặt đỏ ửng của mình lên kính lạnh. “Xin lỗi. Em hơi bối rối.”

“Vì tang lễ đấy. Em sẽ cảm thấy sợ hãi một chút, phải không? Anh xin lỗi, nhưng không có cách nào khác. Giá như em cho anh đến. Em cảm thấy thế nào về chuyện này?”

“Về đám tang à?”

“Về toàn bộ chuyện này.” Tôi thở dài. “Em chẳng cảm thấy gì cả. Em bị mất cảm giác rồi.”

“Ôi, Sarah.”

“Bây giờ em chỉ đợi nhân viên tang lễ thôi. Em hơi hồi hộp một chút, có lẽ thế. Chỉ vậy thôi. Giống như đợi ở phòng nha sĩ.”

“Phải rồi,” Lawrence đáp, vẻ thận trọng.

Một khoảng lặng. Ở sau, tiếng các con của Lawrence chí chóe tại bàn ăn sáng. Tôi nhận ra mình không thể kể với Lawrence về việc Ong Nhỏ xuất hiện. Không phải lúc này. Bỗng nhiên điều đó có vẻ bất công, thêm một mối lo vào danh sách những điều phiền toái của anh. Muộn giờ làm, con nôn lên cà vạt, người trông trẻ trễ nải… ồ, và bây giờ thêm một cô gái Nigereia tưởng đã chết, đội mồ sống dậy trên ghế sofa của nhân tình anh ấy. Tôi nghĩ mình không thể làm thế với anh. Vì trở thành tình nhân thì phải chấp nhận việc này. Nó không giống như kết hôn. Để tiếp tục cuộc chơi, người ta phải biết suy nghĩ. Người này phải tôn trọng quyền-được-sống nhất định của người kia. Vì thế tôi im lặng. Tôi nghe Lawrence hít một hơi sâu, chực nổi cáu.

“Vậy điều gì khiến em bối rối? Có phải là em không cảm thấy gì cả trong khi em nghĩ mình phải cảm thấy gì đấy không?”

“Hôm nay là đám tang chồng em. Em nên buồn, ít nhất là vậy.”

“Em nắm quyền kiểm soát bản thân mình. Em đâu phải là người hay thể hiện tình cảm. Hãy trân trọng điều đó.”

“Em không khóc được cho Andrew. Em cứ nghĩ về cái ngày ấy ở châu Phi. Trên bãi biển.”

“Sarah này?”

“Vâng?”

“Anh tưởng chúng ta đã đồng ý rằng tốt nhất là em quên hết chuyện ấy rồi mà. Chuyện gì xảy ra cũng đã xảy ra rồi. Chúng mình đã thỏa thuận là em sẽ tiếp tục cuộc sống, phải không? Hmm?”

Tôi áp bàn tay trái lên khung cửa sổ và nhìn chăm chú vào mẩu thịt ở ngón tay bị mất.

“Em không nghĩ việc “tiếp tục cuộc sống” còn có tác dụng nữa, Lawrence ạ. Em không nghĩ mình chỉ cần phủ nhận chuyện đã xảy ra là xong. Em không nghĩ em sẽ làm được. Em…” Giọng tôi lạc dần.

“Sarah? Hít thở sâu nào.”

Tôi mở mắt ra. Bên ngoài, Batman vẫn đang chọc gậy điên cuồng xuống ao. Chương trình hôm nay đang gào thét trong radio. Cạnh bên, ông hàng xóm đã phơi xong quần áo và giờ đang đứng đấy, mắt lim dim. Ông ta sẽ sớm chuyển sang một nhiệm vụ mới: lọc cà phê chẳng hạn, hoặc thay dây bện cho ống cước trong máy cắt cỏ. Những rắc rối nhỏ nhặt. Những rắc rối tầm thường.

“Giờ thì Andrew đã, ừm, ra đi rồi, Lawrence. Anh có nghĩ anh và em sẽ…”

Một khoảng dừng ở đầu kia điện thoại. Rồi sau đó là Lawrence – Lawrence thận trọng – không cam kết.

“Khi Andrew còn sống, anh ấy cũng không ngăn cản chúng ta,” anh nói. “Em thấy có lý do gì để thay đổi mọi chuyện lúc này không?” Tôi lại thở dài.

“Sarah?”

“Vâng?”

“Trước mắt cứ tập trung cho ngày hôm nay, được không? Tập trung cho đám tang, giữ bình tĩnh, vượt qua ngày hôm nay. Đừng trét miếng bánh mì chết tiệt ấy lên máy tính!”

“Lawrence?”

“Xin lỗi. Thằng bé con anh. Nó cầm một miếng bánh mì nướng phết bơ và đang trây trét lên khắp… xin lỗi, anh phải đi rồi.”

Lawrence cúp máy. Tôi xoay lưng khỏi cửa sổ và ngồi lên giường. Chờ đợi. Tôi đang cưỡng lại việc phải đi xuống nhà dưới và giải quyết chuyện Ong Nhỏ. Thay vì bước đi, tôi nhìn mình, trong gương, một góa phụ. Tôi cố gắng tìm kiếm một dấu hiệu nào đấy của việc Andrew qua đời. Không có thêm nếp nhăn trên trán? Không có quầng thâm dưới mắt? Thật sao? Không có gì cả?

Mắt tôi mới bình thản làm sao, kể từ ngày trên bãi biển ở châu Phi. Khi đã có một mất mát quá lớn, tôi cho rằng mất thêm một thứ - một ngón tay chẳng hạn, hoặc một người chồng – tuyệt nhiên chẳng còn quan trọng gì. Trong gương, đôi mắt màu xanh lá của tôi thật bình yên – tĩnh lặng như mặt nước rất sâu, hoặc rất cạn.

Tại sao tôi không khóc được? Tôi sắp phải đi và đối mặt với một nhà thờ đông nghịt người đưa tang. Tôi dụi mắt, mạnh hơn những gì mà các chuyên gia làm đẹp của chúng ta khuyên. Tôi cần trưng ra cặp mắt đỏ hoe cho những người đưa tang thấy, ít ra là thế. Tôi cần cho họ thấy rằng tôi đã quan tâm đến Andrew, thực tình quan tâm đến anh. Dù cho, kể từ sau chuyến đi châu Phi, tôi đã không còn thực sự tin vào chuyện tình yêu là điều vĩnh cửu, có thể đo lường được trong các bài trắc nghiệm bản thân, hiện hữu nếu đa số câu trả lời của bạn là B. Vì thế tôi chọc ngón cái vào chỗ da dưới lông mi. Nếu tôi không thể hiện được nỗi buồn với thiên hạ, thì ít ra tôi cũng phải cho họ thấy nỗi buồn đã làm gì với đôi mắt tôi.

Cuối cùng tôi đi xuống lầu và nhìn Ong Nhỏ trân trối. Cô bé vẫn đang ngồi trên sofa, mắt nhắm nghiền, đầu tựa lên gối đệm. Tôi đằng hắng, và cô choàng tỉnh. Mắt nâu, gối đệm lụa hoa văn cam. Cô bé chớp mắt nhìn tôi, còn tôi nhìn cô bé chăm chú, bùn vẫn còn bám trên đôi giày cô.

Tôi chẳng cảm thấy gì.

“Tại sao cháu đến đây?” Tôi hỏi.

“Cháu không còn nơi nào để đi. Ở đất nước này cháu chỉ biết mỗi cô và chú Andrew thôi.”

“Cháu đâu có biết chúng tôi. Chúng ta chỉ gặp nhau, thế thôi.”

Ong Nhỏ nhún vai. “Cô và chú Andrew là những người duy nhất mà cháu gặp,” cô bé nói.

“Andrew chết rồi. Chúng tôi sẽ chôn chú ấy sáng nay.” Ong Nhỏ chỉ chớp mắt nhìn tôi, thẫn thờ.

“Cháu có hiểu không?” Tôi nói. “Chồng cô chết rồi. Chúng tôi sẽ làm đám tang. Đó là một loại lễ nghi. Trong nhà thờ. Ở nước này chúng tôi làm thế.”

Ong Nhỏ gật đầu. “Cháu biết ở nước cô làm như thế nào,” cô bé đáp.

Có gì đó trong giọng nói cô bé – rất già dặn, rất mệt mỏi – khiến tôi khiếp sợ. Đó là khi tiếng gõ cửa lại vang lên và Charlie ra mở cửa, gặp nhân viên tang lễ và gọi với vào, Mẹ ơi, là Bruce Wayne!

“Chạy ra sau vườn chơi đi con,” tôi nói.

“Nhưng mẹ ơi, con muốn gặp Bruce Wayne!”

“Làm ơn đi, con yêu. Đi đi.”

Khi tôi đi đến cửa, nhân viên tang lễ liếc nhìn mẩu thịt ở ngón tay tôi. Người ta thường làm thế, nhưng hiếm khi với ánh mắt chuyên nghiệp ngầm ghi chú: Bàn tay trái, ngón thứ hai[16], đốt thứ nhất và thứ hai, vâng, chúng tôi có thể chỉnh sửa bằng một ngón tay giả bằng sáp, một ngón thon, có màu da của người da trắng, và chúng tôi có thể dùng phấn nền Kryolan để phủ lên mối nối, rồi chúng tôi có thể đắp bàn tay phải lên trên bàn tay trái trong quan tài, và thế là xong, thưa bà.

Tôi đang nghĩ, Thật là một nhân viên thông minh. Nếu tôi có chết thật, anh sẽ biến tôi thành một phụ nữ xinh đẹp.

“Tôi xin gửi lời chia buồn sâu sắc, thưa bà. Chúng tôi đã sẵn sàng, bất cứ khi nào bà cảm thấy muốn xuất phát.”

“Cám ơn anh. Tôi chỉ cần đi gọi con trai tôi và… à. Người bạn của tôi.”

Tôi nhìn nhân viên lễ tang phớt lờ mùi rượu gin trong hơi thở tôi. Anh ta nhìn lại tôi. Có một vết sẹo nhỏ trên trán anh ta. Mũi xẹp và lệch. Khuôn mặt không chứa đựng điều gì. Nó cũng trống vắng như suy nghĩ của tôi.

“Xin cứ thong thả, thưa bà.”

Tôi đi ra vườn sau nhà. Batman đang đào bới gì đó dưới bụi hồng. Tôi đi đến chỗ con. Nó đang dùng xẻng xúc đất để bứng một cây bồ công anh, kéo bộ rễ cây đến tận chót mút. Chú chim cổ đỏ ở vườn nhà chúng tôi đang đói và đứng nhìn cách đấy năm mét. Batman giơ cây bồ công anh lên khỏi mặt đất rồi đưa lại gần để xem xét bộ rễ. Nó quỳ gối, ngước lên nhìn tôi.

“Đây có phải là cây dại không mẹ?” Nó hỏi.

“Đúng rồi con. Lần sau, nếu con không biết chắc thì hãy hỏi trước khi đào nó lên nhé.”

Batman nhún vai. “Con đặt nó vào khoảnh cây dại nhé?”

Tôi gật đầu, và Batman đem cây bồ công anh đến một khoảnh nhỏ trong vườn, nơi Andrew dành để làm nhà cho những loài cỏ cây nổi loạn, với hi vọng chúng sẽ thu hút lũ bướm ong. Trong khu vườn nhỏ nhà chúng tôi, tôi đã tạo ra một chốn hoang dại để nhắc mình nhớ đến những hỗn loạn, Andrew từng viết trong bài bình luận của anh. Cuộc sống hiện đại của chúng ta quá ngăn nắp, quá vô trùng.

Đó là trước khi chuyện ở châu Phi xảy ra.

Batman trồng cây bồ công anh giữa những cây tầm ma. “Mẹ ơi, cây dại có phải là kẻ xấu không?”

Tôi đáp còn tùy con là một cậu bé hay một con bướm. Batman đảo tròng mắt, như một phóng viên phỏng vấn một chính trị gia đang trả lời vòng vo. Tôi không khỏi mỉm cười. “Chị ngồi trên ghế sofa là ai vậy mẹ?”

“Tên chị ấy là Ong Nhỏ.”

“Tên gì mà buồn cười thế.”

“Nếu con là ong thì không buồn cười đâu.”

“Nhưng chị ấy đâu phải là ong.”

“Đúng rồi. Chị ấy là con người. Chị ấy đến từ một nước có tên gọi Nigeria.”

“Mmm. Chị ấy có phải là người tốt không?”

Tôi đứng thẳng lên. “Bây giờ chúng ta phải đi, con ạ.” Tôi đáp. “Nhân viên tang lễ đến đây để đón chúng ta.”

“Bruce Wayne ạ?”

“Ừ.”

“Chúng ta thì đến hang dơi hả mẹ?”

“Chúng ta sẽ đến hang dơi hả mẹ.”

“Chúng ta sẽ đến hả?”

“Giống như thế.”

“Hmm. Con thì ra trong một phút nữa.”

Tôi cảm thấy mồ hôi bắt đầu toát ra trên lưng. Tôi đang mặc một bộ lễ phục bằng len màu xám và đội một chiếc mũ không phải màu đen nhưng có màu chiều tối. Nó không đi ngược lại truyền thống, nhưng cũng không hoàn toàn đen hẳn. Gấp lại trên chiếc mũ là một tấm mạng màu đen, sẵn sàng hạ xuống khi đến thời điểm thích hợp. Tôi hi vọng sẽ có người nói cho tôi biết đó là khi nào.

Tôi đeo găng tay màu xanh dương, màu đủ sậm để thích hợp cho một tang lễ. Ngón giữa của găng bên trái đã bị cắt ngắn và khâu lại. Tôi đã làm thế vào buổi tối cách đấy hai hôm, ngay khi vừa đủ say để chịu đựng điều đó, trong một giờ khoan hồng giữa cơn say và sự bất lực. Ngón tay bị cắt của chiếc găng vẫn còn nằm trên bàn máy may nhà tôi. Thật khó ném nó đi.

Trong túi quần tôi là điện thoại, chuyển sang chế độ im lặng đề phòng trường hợp tôi quên chuyển sau đó. Tôi cũng để sẵn một tờ mười bảng cho buổi quyên góp ở nhà thờ, nếu có. Ở đám tang hiếm khi có buổi quyên góp, nhưng tôi không chắc lắm. (Và nếu có quyên góp thì mười bảng có đủ không nhỉ? Năm bảng nghe chừng keo kiệt quá; hai mươi bảng thì khoe mẽ quá.)

Chẳng còn ai để hỏi về những chuyện thông thường. Ong Nhỏ chẳng giúp được gì. Tôi không thể hỏi cô bé: Đôi găng tay xanh này được không? Cô sẽ chỉ nhìn chúng trân trối, như thể đó là đôi găng tay đầu tiên cô thấy trong đời, cũng có thể như thế lắm chứ. (Ừ, nhưng chúng cũng đủ tối mà, phải không Ong Nhỏ? Nói riêng giữa hai cô cháu mình nhé – giữa cháu là một người tị nạn khỏi nỗi kinh hoàng và cô là chủ biên của một tạp chí nguyệt san sành điệu – chúng ta nên gọi đó là màu xanh đậm, can đảm, hay màu xanh, bất kính?)

Tôi nhận ra những chuyện thông thường sẽ là những chuyện khó khăn nhất. Đây là việc không thể tránh khỏi, vì giờ đây Andrew không còn nữa: chẳng còn ai có một quan điểm mạnh mẽ về cuộc sống trong một đất nước văn minh.

Chú chim cổ đỏ nhảy ra khỏi bụi mao địa hoàng, ngậm một con sâu trong mỏ. Con sâu màu nâu, màu của vết bầm. “Đi nào, Batman, chúng ta phải đi thôi.”

“Một phút nữa thôi, mẹ.”

Trong sự im lặng của khu vườn, chú chim cổ đỏ lắc con sâu, rồi nuốt ực cuộc đời con sâu từ ánh sáng vào bóng tối với sự thản nhiên thoáng chốc của một đấng tối cao. Tôi không cảm thấy gì. Tôi nhìn con trai, trắng bệch và thích thú trong khu vườn trồng cây ngăn nắp, rồi tôi nhìn sang Ong Nhỏ, mệt mỏi và vấy bùn, chờ chúng tôi bước vào trong nhà.

Vậy là, tôi nhận ra – cuộc đời cuối cùng đã phá rào. Bây giờ trông hệ thống phòng thủ cẩn thận trước cuộc đời của tôi mới ngu ngốc làm sao: quyển tạp chí trơ trẽn của tôi, người chồng đẹp trai của tôi, mặt trận làm mẹ và các mối quan hệ của tôi. Cuộc đời, cuộc đời thật, đã tìm được đường đi xuyên qua đó. Nó đã ngồi xuống trên ghế sofa của tôi và sẽ không còn bị chối bỏ nữa.

Tôi đi vào nhà rồi thẳng ra cửa trước để nói với nhân viên tang lễ rằng chúng tôi sẽ đi cùng anh ta trong một phút nữa. Anh ta gật đầu. Tôi nhìn những người đứng phía sau nhân viên tang lễ, nhợt nhạt và chếnh choáng trong chiếc áo choàng đuôi tôm. Trong đời tôi cũng đã uống rượu gin nên có thể nhận ra vẻ mặt nghiêm trang ấy của họ. Một phần thương hại, ba phần Tôi-sẽ-không-bao-giờ-uống-nữa. Họ gật đầu chào tôi. Thật là một cảm giác kì lạ, khi một người phụ nữ có nghề nghiệp tốt đẹp lại để cho những gã đàn ông có hình xăm và chứng đau đầu thương hại. Tôi cho rằng giờ đây đó sẽ là cách mọi người nhìn tôi, như một người ngoại quốc trên chính quê hương mà tôi lẽ ra không bao giờ nên đến.

Trên con đường trước nhà chúng tôi, xe tang và xe limo đang đợi. Tôi bước ra lối xe chạy vào nhà để nhìn qua cửa kính màu xanh lá của xe tang. Quan tài Andrew ở đó, đặt trên trục lăn mạ chrome bóng loáng. Andrew, người chồng tám năm chăn gối của tôi. Tôi nghĩ: Mình nên cảm thấy gì đó lúc này. Tôi nghĩ: Trục lăn. Thật tiện dụng.

Trên đường, những ngôi nhà chung vách kéo dài đến vô tận ở cả hai phía. Mây cuộn tròn trên trời, nặng nề lầm lũi, giống nhau như đúc, báo hiệu trời sắp chuyển mưa. Tôi lại nhìn vào quan tài Andrew và nghĩ đến khuôn mặt anh. Tôi nghĩ đến nó lúc chết. Đến cách anh đã chết từ từ trong hai năm qua. Thật khó nhận biết làm sao, sự biến đổi trên nét mặt anh, từ nghiêm túc như chết sang chết thật nghiêm túc. Hai khuôn mặt ấy đã nhạt nhòa trong tâm trí tôi. Người chồng còn sống và người chồng đã chết của tôi – giờ đây họ dường như chỉ là hai người dính liền, như thể dưới nắp quan tài, tôi sẽ tìm thấy hai người đấy dính liền với nhau như cặp anh em sinh đôi dính nhau người Thái, mắt mở to, nhìn vào vô cực ở cả hai hướng.

Và giờ đây suy nghĩ này xuất hiện trong đầu tôi với nỗi kinh hoàng rõ mồn một: Andrew từng là một con người thông minh, trìu mến, nồng nhiệt.

Tôi đã bám vào suy nghĩ này trong lúc rướn người dán mắt vào quan tài chồng. Tôi giơ nó lên trước kí ức mình như lá cờ đình chiến thăm dò. Tôi nhớ đến Andrew ở tờ báo cả hai cùng làm việc khi chúng tôi quen nhau, lúc anh đang cãi nhau với biên tập viên về một nguyên tắc quan trọng nào đấy khiến anh nổi trận lôi đình và bước đi, hầm hầm và đẹp đẽ, vào hành lang. Lần đầu tiên tôi nghĩ, Đây là người đáng để tự hào. Và rồi Andrew phát hiện ra tôi đang nghe lén trên hành lang, há hốc mồm, giả vờ đang đi qua trên đường đến phòng tin tức. Andrew nhoẻn miệng cười với tôi, không do dự, và nói, Có muốn mời đồng nghiệp cũ một bữa tối không? Đó là khoảnh khắc nghìn năm có một.

Giống như bị sét đánh bên trong một cái chai.

Cuộc hôn nhân lạnh nhạt dần khi Charlie ra đời. Như thể cú sét đánh đó là tất cả những gì chúng tôi có, và phần lớn nhiệt lượng từ nó phải đi vào đứa con của chúng tôi. Nigeria đã làm tăng tốc sự xuống dốc và giờ đây cái chết đã kết thúc nó, nhưng sự không chung thủy và mối quan hệ lén lút của tôi với Lawrence đến trước. Tôi nhận ra, đó chính là thứ mà tâm trí tôi đang nghĩ đến. Không có nỗi đau buồn tức thì cho Andrew vì anh đã bị mất quá chậm rãi. Đầu tiên khỏi tim tôi, sau đó khỏi tâm trí tôi, và cuối cùng là khỏi cuộc đời tôi.

Và đây là khi nỗi buồn thực sự tìm đến. Đây là cú sốc khiến tôi run rẩy, tựa như một cơn địa chấn nào đấy đã bộc phát sâu thẳm trong người tôi và đang nhắm mắt tiến lên bề mặt. Tôi run rẩy, nhưng không có giọt nước mắt nào rơi ra.

Tôi vào trong nhà, tìm con trai và Ong Nhỏ. Lạc lõng, thẫn thờ, dính liền, chúng tôi đi đến tang lễ của chồng tôi.

Vẫn còn run rẩy, trên hàng ghế, tôi hiểu ra rằng chúng ta không khóc cho người chết. Chúng ta khóc cho bản thân mình, và tôi không đáng được thương hại.

Sau khi mọi việc kết thúc, ai đó đã chở chúng tôi về nhà. Tôi nắm chặt tay Charlie ở băng ghế sau. Tôi nhớ chiếc xe có mùi thuốc lá cũ. Tôi gõ lên đầu Charlie và chỉ ra những thứ thường gặp hàng ngày khi xe chúng tôi đi ngang qua, khơi gợi sự êm ái của nhà cửa, hàng quán và xe cộ bằng phép màu hi vọng của việc thì thầm những cái tên. Tôi nghĩ những danh từ thông thường là điều chúng tôi cần. Những thứ hàng ngày này sẽ giúp chúng tôi vượt qua. Chẳng cần bận tâm việc bộ đồ Batman của Charlie lấm lem bùn đất nghĩa trang. Về đến nhà, tôi giặt áo và mặc cho con bộ sạch sẽ. Khi không thể nạy mở nắp hộp bột giặt vì quá đau, tôi dùng bàn tay kia.

Tôi nhớ mình ngồi với Charlie khi chúng tôi nhìn nước đổ vào máy giặt, dâng lên sau lớp cửa kính. Chiếc máy lắc lư cho lời mở đầu ken két quen thuộc của mình, và mẹ con tôi có một cuộc nói chuyện hết sức thông thường. Đó là khoảnh khắc tồi tệ nhất đối với tôi. Chúng tôi nói về việc con muốn ăn gì trong bữa trưa. Charlie nói nó muốn ăn bim bim. Tôi phản đối. Nó nằng nặc. Tôi bằng lòng. Lúc đấy tôi là người dễ thuyết phục và con trai tôi biết điều đó. Tôi cũng nhượng bộ trước sốt cà chua và kem, và sự đắc thắng hiện lên trên mặt con còn nỗi khiếp sợ hiện lên trong mắt nó. Tôi nhận ra rằng với Charlie, và với tôi, đằng sau những danh từ thông thường là nỗi đau khác thường.

Chúng tôi ăn, rồi sau đó Ong Nhỏ đưa Charlie ra chơi ở sau vườn. Tôi đã quá tập trung vào con trai mình mà quên mất về cô bé và tôi thực sự ngạc nhiên khi cô bé vẫn còn ở đó.

Tôi ngồi bất động ở bàn ăn trong bếp. Mẹ và chị tôi đã về nhà cùng chúng tôi từ nhà thờ, họ di chuyển quanh tôi trong sự ồn ào và ngăn nắp mơ hồ, vì thế nếu chụp ảnh chúng tôi ở chế độ mở màn trập rất lâu, tấm ảnh sẽ chỉ cho thấy mình tôi, rõ nét, bao quanh là vòng hào quang ma quái có màu xanh lơ từ chiếc áo khoác len của chị tôi và sự lệch tâm từ ý định tiến đến gần tôi của mẹ tại đầu quỹ đạo của bà, để hỏi xem tôi có ổn không. Tôi nghĩ mình không nghe bà nói gì. Họ tiếp tục di chuyển quanh tôi trong một giờ, tôn trọng sự im lặng của tôi, rửa những tách trà mà không tạo ra tiếng lanh canh, phân loại thiệp chia buồn theo chữ cái trong khi cố gắng làm nhỏ tiếng sột soạt, cho đến khi tôi van nài họ, nếu thương tôi, hãy về nhà.

Sau khi họ ra về, một cách nhẹ nhàng, với những cái ôm kéo dài khiến tôi thấy hối hận vì đã xua đuổi họ, tôi ngồi xuống tại bàn ăn trong bếp và nhìn Ong Nhỏ chơi với Batman trong vườn. Tôi cho rằng chúng tôi đã thật bất cẩn khi bỏ nhà đi và dành cả buổi sáng ở đám tang. Lúc chúng tôi vắng mặt, vài kẻ ác thuộc hạng xấu xa nhất đã chiếm bụi nguyệt quế, và giờ đây phải bị tống khứ bằng súng nước và gậy tre. Đó có vẻ là một sứ mệnh nguy hiểm và hao hơi tổn sức. Đầu tiên Ong Nhỏ phải bò lên bụi nguyệt quế, vạt áo sơ mi Hawaii lê lết dưới đất. Khi phát hiện một kẻ xấu đang ẩn nấp, cô bé đâm hắn và hét toáng lên, buộc hắn phải xuất đầu lộ diện. Ở đó, con trai tôi đã sẵn sàng với cây súng nước để bắn phát ân huệ. Tôi ngạc nhiên khi thấy hai đứa nhanh chóng lập thành một đội. Tôi không rõ mình có muốn chúng làm như thế hay không. Nhưng tôi biết làm gì hơn? Bước ra ngoài vườn và nói, Ong Nhỏ này, cháu làm ơn đừng làm bạn với con của cô nữa được không? Con tôi sẽ lớn tiếng đòi giải thích và sẽ chẳng ích lợi gì khi nói với con rằng Ong Nhỏ không thuộc về phe chúng tôi. Không phải lúc này, khi cô bé và con tôi đã cùng nhau tiêu diệt quá nhiều kẻ xấu.

Không, cách đó không được nữa, chối bỏ cô bé, hoặc chối bỏ chuyện đã xảy ra ở châu Phi. Một kí ức có thể bị xua đuổi, thậm chí vĩnh viễn, trục xuất khỏi tri giác bằng sự bận rộn thường nhật của việc điều hành một quyển tạp chí thành công, làm mẹ của một cậu con trai, và chôn cất một người chồng. Một con người thì lại là một điều khác hẳn. Sự hiện hữu của một cô bé Nigeria, còn sống và đứng trong vườn nhà bạn – các chính phủ có thể chối bỏ những điều đó, hoặc phủi chúng sạch trơn như những sai số thống kê, nhưng con người thì không thể làm thế.

Tôi ngồi ở bàn ăn và nhìn qua đôi mắt đột ngột ngấn nước vào mẩu thịt ở nơi từng là một ngón tay. Tôi nhận ra cuối cùng đã đến lúc phải đối diện với chuyện xảy ra trên bãi biển.

Đương nhiên, chuyện đó lẽ ra không bao giờ xảy ra, theo lẽ thông thường. Có những đất nước trên thế giới, và những khu vực trong suy nghĩ riêng từng người mà ai sáng suốt sẽ không chọn để đến du lịch. Tôi đã luôn nghĩ như thế, và tôi đã luôn bất ngờ với chính mình vì là một phụ nữ nhạy cảm. Độc lập về suy nghĩ, nhưng không quá cực đoan. Tôi cũng muốn có một mối quan hệ ở khoảng cách vừa phải với những nơi xa lạ mà những người phụ nữ tinh tế khác dường như cũng có.

Tôi thật thông minh khi đã đi nghỉ ở một nơi khác lạ. Vào mùa đó ở Nigeria đang xảy ra một cuộc chiến dầu mỏ. Andrew và tôi không hề hay biết. Cuộc chiến rất chóng vánh, gây hoang mang, và hầu như không được đưa tin. Chính phủ Nigeria lẫn chính phủ Anh đến ngày nay vẫn phủ nhận về cuộc chiến đó. Chúa thừa biết, họ không phải là những người duy nhất tìm cách chối bỏ.

Tôi vẫn tự hỏi tại sao mình lại đi chấp nhận một kì nghỉ ở Nigeria. Ước gì tôi có thể nói nó là món quà khuyến mãi duy nhất từ ủy ban du lịch gửi đến tạp chí vào mùa xuân đó, nhưng chúng tôi nhận được hàng đống thùng chứa đầy quà khuyến mãi như thế – những thùng gỗ chứa các phong bì dán kín nhoe nhoét kem Piz Buin[17] xịt ra từ những gói sản phẩm dùng thử bị rách. Tôi đã có thể chọn Tuscany, hoặc Belize. Các nước Xô Viết là điểm đến thịnh hành vào mùa đó. Nhưng không. Thói cứng đầu cứng cổ của tôi – nguyên nhân khiến tôi lập Nixie thay vì đầu quân cho một tạp chí đẹp đẽ hiền lành nào đó; nguyên nhân khiến tôi bắt đầu vụng trộm với Lawrence thay vì sửa chữa những rào cản với Andrew – tính cách hướng ngoại từ lâu đó đã khiến tôi rùng mình thích thú khi một bưu kiện đặt lên bàn tôi với câu hỏi CHO KÌ NGHỈ CỦA BẠN NĂM NAY, TẠI SAO KHÔNG THỬ ĐẾN NIGERIA? Một nhân viên thích đùa nào đấy ở tòa soạn đã viết nguệch ngoạc dưới dòng chữ này, bằng bút lông đen nét to, câu trả lời rõ ràng. Hai vé máy bay không hạn chế ngày đi và một phiếu xác nhận đặt khách sạn rơi ra. Đơn giản như thể mặc bikini đến sân bay.

Andrew đi với tôi, dù thực lòng không muốn. Bộ Ngoại giao khuyến cáo chúng tôi không nên đi du lịch đến một số vùng ở Nigeria, nhưng chúng tôi không nghĩ nơi mình đến nằm trong số đó. Anh thử thuyết phục, nhưng tôi nhắc anh rằng chúng tôi đã đi hưởng tuần trăng mật ở Cuba, và nhiều vùng ở đất nước đó cũng thật khủng khiếp. Andrew nhượng bộ. Giờ đây nghĩ lại, tôi cho rằng anh đã nghĩ mình không có lựa chọn nào khác nếu muốn giữ tôi.

Ủy ban du lịch, nơi gửi chương trình khuyến mãi, lưu ý rằng bãi biển Ibeno là một “điểm đến mạo hiểm”. Kì thực, vào thời điểm chúng tôi đến, nó là một thảm họa được bao bọc tứ phía. Ở phía bắc là khu rừng bệnh sốt rét, ở phía tây là một châu thổ sông màu nâu rộng lớn. Con sông óng ánh vì có dầu. Giờ tôi mới biết nó đã phồng lên với những thi thể công nhân khai thác dầu mỏ. Ở phía nam là Đại Tây Dương. Ở điểm cực nam ấy, tôi đã gặp một cô bé không phải là đối tượng độc giả của tạp chí tôi. Ong Nhỏ đã trốn đến đông nam trên đôi chân rướm máu từ nơi đã từng là làng cô và không lâu sau đó đã trở thành một mỏ dầu. Cô bỏ trốn khỏi những gã sắp giết cô vì chúng được trả tiền để làm thế, và những đứa bé sẽ giết cô vì chúng được bảo phải làm thế. Tôi ngồi ở bàn ăn nhà bếp và tưởng tượng cảnh cô chạy trốn băng qua những cánh đồng và khu rừng, cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng cho tới khi cô đến bờ biển nơi Andrew và tôi đang có kì nghỉ khác người. Bờ biển đó là nơi xa nhất cô đến được.

Chỉ nghĩ về việc đó thôi cũng đủ làm ngón tay bị mất của tôi ngứa ngáy.

Khi hai đứa trẻ từ vườn vào, tôi cho Batman đi chơi ở hang dơi của nó, rồi chỉ chỗ tắm cho Ong Nhỏ. Tôi tìm ít quần áo cho cô bé. Sau đó, khi Batman đã đi ngủ, tôi pha hai cốc G&T[18]. Ong Nhỏ ngồi ôm cốc của mình trong tay, lắc lư những viên đá. Tôi nốc cạn cốc của mình như uống thuốc.

“Được rồi,” tôi nói. “Cô đã sẵn sàng. Cô đã sẵn sàng để cháu kể cho cô nghe chuyện gì đã xảy ra.”

“Cô muốn biết cháu đã sống sót như thế nào phải không?”

“Cháu kể từ đầu được không? Kể cho cô nghe khi lần đầu tiên ra biển thế nào.”

Thế là cô bé kể cho tôi nghe đã nấp như thế nào, vào ngày cô đến bãi biển. Cô đã chạy trong sáu ngày, băng qua những cánh đồng vào ban đêm và ẩn nấp trong các khu rừng và đầm lầy khi mặt trời ló dạng. Tôi tắt radio trong nhà bếp, và ngồi thật yên lặng trong lúc cô bé kể cho tôi nghe cô đã đào hố nấp trong thẻo rừng mọc nhoài ra doi cát thế nào. Cô bé nằm đó suốt khoảng thời gian nóng nhất của ngày, nhìn những con sóng. Cô bé kể cho tôi nghe rằng mình chưa từng thấy biển trước đó, và cô không thực sự tin là biển có thật.

Cuối buổi chiều hôm đó, chị gái của Ong Nhỏ, Nkiruka, từ rừng xuống và tìm thấy nơi ẩn nấp của cô bé. Cô ngồi xuống cạnh em gái mình. Họ ôm nhau thật lâu. Họ mừng rỡ vì Nkiruka đã lần theo được đường đi của Ong Nhỏ, nhưng họ sợ hãi vì như thế có nghĩa là những người khác cũng có thể làm vậy. Nkiruka nhìn vào mắt em gái và nói họ phải bịa ra tên mới cho mình. Không an toàn khi dùng tên thật nữa, vì nó nói lên quá rõ về bộ tộc của họ và khu vực họ sống. Nkiruka nói tên cô giờ đây là “Lòng Tốt”. Em gái cô muốn đáp lại Lòng Tốt, nhưng không thể nghĩ ra tên gì cho mình.

Hai chị em chờ đợi. Bóng chiều dần buông. Một đôi chim mỏ sừng đến để mổ hạt trên những tán cây trên đầu họ. Và rồi – ngồi tại bàn ăn nhà bếp của tôi, cô bé nói nhớ rất rõ chuyện này đến nỗi có thể giơ tay ra vỗ lên cái lưng đen vo ve ấy – một con ong bay vào theo làn gió biển và đậu lại giữa hai chị em. Con ong rất nhỏ và nó chạm xuống một bông hoa nhạt màu – hoa đại, cô bé nói với tôi, dù cô bảo mình không chắc lắm về tên gọi châu Âu của loài hoa đó – và rồi con ong lại bay đi, chẳng gây náo động gì. Cô bé không để ý đến bông hoa trước khi con ong đến, nhưng giờ cô thấy bông hoa ấy thật đẹp. Cô quay sang Lòng Tốt.

“Tên em là Ong Nhỏ,” cô nói.

Nghe thấy thế, Lòng Tốt mỉm cười. Ong Nhỏ kể với tôi rằng chị mình là một cô gái rất xinh đẹp. Cô là loại con gái mà cánh đàn ông nói có thể khiến họ quên hết rắc rối. Cô là loại con gái mà đám đàn bà nói là rắc rối của họ. Ong Nhỏ không biết chị cô sẽ rơi vào trường hợp nào.

Hai chị em nằm yên đến khi mặt trời lặn. Rồi họ bò xuống doi cát và rửa chân trong sóng biển. Muối xát lên những vết cắt đau nhói nhưng họ không khóc. Họ biết phải giữ im lặng. Toán người đuổi theo họ có thể đã bỏ cuộc, mà cũng có thể không. Vấn đề là, hai chị em đã nhìn thấy điều chúng làm với ngôi làng của họ. Có lẽ chẳng còn ai sống sót để kể lại. Toán người đang truy lùng những phụ nữ và trẻ em chạy trốn rồi chôn xác họ dưới những cành cây và tảng đá.

Trở lại chỗ trú ẩn, hai cô gái lấy lá cây rừng quấn quanh chân cho nhau và chờ trời sáng. Trời không lạnh, nhưng họ đã không ăn gì hai ngày rồi. Họ run lập cập. Đàn khỉ gào thét dưới ánh trăng.

Tôi vẫn nghĩ đến hai chị em ở đó, run rẩy suốt đêm thâu. Khi tôi mường tượng về họ hết lần này đến lần khác trong đầu, những con còng nhỏ màu hồng theo mùi máu thoảng bò đến nơi đôi chân họ vừa đứng trên bãi biển, nhưng chúng chưa tìm thấy thứ gì chết chóc ở đấy. Những con còng màu hồng mềm tạo ra những tiếng lách cách lớn dưới ánh sao sáng. Từng con một, chúng đào cát chui xuống và chờ đợi.

Tôi ước gì não mình đừng chứa đầy những chi tiết đáng sợ như thế này. Tôi ước gì tôi là người phụ nữ chỉ biết quan tâm đến giày dép và phấn che khuyết điểm. Tôi ước gì mình không phải loại người kết cục chỉ ngồi ở bàn ăn trong nhà bếp của mình lắng nghe một cô gái tị nạn nói về nỗi sợ kinh khủng đối với trời sáng.

Theo lời Ong Nhỏ, khi bình minh đến, một làn sương trắng bao trùm trong rừng và lọt ra trên cát. Hai chị em nhìn theo một đôi vợ chồng da trắng đi bộ ngược lên bãi biển. Ngôn ngữ họ nói là ngôn ngữ chính thức ở đất nước của Ong Nhỏ, nhưng đây là những người da trắng đầu tiên cô thấy. Cô và Lòng Tốt nhìn họ từ sau một hàng cọ. Hai chị em lùi lại khi đôi vợ chồng đi ngang qua nơi họ ẩn nấp.

Hai người da trắng dừng lại nhìn ra biển.

“Lắng nghe tiếng sóng xem, Andrew,” người phụ nữ da trắng nói. “Ở đây thật bình yên đến khó tin.”

“Nói thật, anh vẫn còn hơi sợ. Chúng ta nên quay lại khuôn viên khách sạn.”

Người phụ nữ da trắng mỉm cười. “Những khuôn viên khách sạn được xây lên là để bước ra khỏi chúng. Em đã sợ anh, lần đầu tiên em gặp anh.”

“Dĩ nhiên là em sợ rồi. Một gã khổng lồ Ireland như anh. Bọn anh là dã nhân đấy, em không biết à.”

“Người man rợ.”

“Bọn lang thang.”

“Lũ đê tiện.”

“Ôi, thôi nào, em yêu, chỉ có mẹ em mới nói thế.”

Người phụ nữ bật cười, áp sát vào người đàn ông. Cô hôn lên má ông.

“Em yêu anh, Andrew. Em rất vui vì chúng ta đã đi xa. Em thật tiếc vì đã làm anh thất vọng. Chuyện này sẽ không tái diễn.”

“Thật không?”

“Thật. Em không yêu Lawrence. Sao mà em yêu anh ta được chứ? Chúng ta hãy làm lại từ đầu, được không?”

Trên bãi biển, người đàn ông mỉm cười. Trong bóng tối, Ong Nhỏ khum bàn tay quanh tai Lòng Tốt. Cô thì thầm: Kẻ đê tiện là gì? Lòng Tốt nhìn sang em, đảo tròn mắt. Ngay bên dưới đấy, em gái, ngay cạnh cái ấy của em đấy[19]. Ong Nhỏ cắn bàn tay để không bật cười.

Nhưng rồi hai chị em nghe tiếng chó sủa. Họ nghe được mọi thứ, vì sáng hôm ấy có gió nhẹ, một làn gió đất liền đem theo mọi âm thanh. Đàn chó vẫn còn cách rất xa, nhưng hai chị em nghe thấy chúng đang sủa inh ỏi. Lòng Tốt nắm chặt tay Ong Nhỏ. Ở dưới bãi biển, người phụ nữ nhìn lên rừng.

“Ô, nghe kìa, Andrew,” cô nói. “Có chó!”

“Chắc là dân địa phương đi săn đấy mà. Rừng này hẳn là có nhiều thứ để săn.”

“Nhưng em vẫn không nghĩ họ lại dùng chó.”

“Vậy em nghĩ họ dùng cái quái gì nào?”

Người phụ nữ nhún vai. “Em không biết. Voi chăng?”

Người đàn ông bật cười. “Thật chịu không nổi người Anh bọn em. Vương triều vẫn còn sống đối với em, phải không? Em chỉ cần nhắm mắt lại thôi.”

Giờ thì một lính gác đang chạy lên bãi biển từ hướng mà đôi vợ chồng da trắng mới đến. Cậu ta thở hổn hển. Cậu mặc quần màu xanh ô liu, áo ghi lê màu xám nhạt ướt đẫm mồ hôi. Cậu mang giày bốt quân đội, cát ướt làm nó trở nên nặng trịch. Cậu đeo một khẩu súng sau lưng, nòng súng đang đung đưa chĩa lên trời.

“Ôi, mẹ kiếp,” người đàn ông da trắng nói, “lại một tên lính gác ngu ngốc.”

“Cậu ấy chỉ đang làm nhiệm vụ thôi.”

“Phải rồi, nhưng họ không để chúng ta làm việc riêng của mình dù chỉ trong một phút thôi sao?”

“Ôi, thư giãn đi nào. Kì nghỉ này miễn phí mà, anh nhớ không? Chúng ta sẽ không bao giờ được tận hưởng nó hoàn toàn theo cách của riêng mình.”

Người lính gác đi đến ngang chỗ đôi vợ chồng da trắng và dừng lại. Cậu ta ho sù sụ và chống tay lên đầu gối.

“Làm ơn, thưa ông, thưa bà,” cậu ta nói. “Xin lỗi, làm ơn quay lại khuôn viên khách sạn.”

“Nhưng tại sao?” Người phụ nữ hỏi. “Chúng tôi chỉ đi dạo dọc bãi biển thôi mà.”

“Không an toàn, thưa bà,” người lính đáp. “Không an toàn cho bà và chồng. Xin lỗi, ông chủ.”

“Nhưng tại sao?” Người đàn ông da trắng hỏi. “Thực sự thì có chuyện gì nào?”

“Không có chuyện gì,” người lính đáp. “Đây là một nơi rất tốt. Rất tốt. Nhưng mọi du khách phải làm ơn ở trong khuôn viên khách sạn.”

Khuất dạng trong rừng, bầy chó giờ sủa to hơn. Hai chị em nghe được tiếng quát tháo của những người đang chạy cùng chúng. Lòng Tốt run rẩy. Hai chị em ôm nhau. Giờ thì một con chó tru lên và những con khác cũng tru theo. Ở nơi ẩn nấp có tiếng nước bắn lên lá khô và mùi nước tiểu – thực tế nỗi sợ của Lòng Tốt. Ong Nhỏ nhìn vào mắt chị. Trông như chị cô thậm chí không nhìn thấy em gái mình.

Dưới bãi biển người đàn ông nói, “Đây có phải là chuyện tiền bạc không?”

Và người lính đáp, “Không, thưa ông.”

Người lính đứng thẳng dậy và nhìn vào rừng, nơi phát ra tiếng chó sủa. Cậu tháo súng ra khỏi lưng. Ong Nhỏ nhìn cách cậu ta cầm súng. Cậu ta tháo chốt an toàn và đưa tay xuống kiểm tra băng đạn. Hai băng – bản thân tôi còn nhớ - quấn vào nhau bằng băng dính hai mặt màu xanh dương.

Người đàn ông nói, “Ôi dào, đừng biểu diễn với chúng tôi nữa. Cứ nói cậu muốn bao nhiêu. Nói đi nào. Vợ tôi đã chán ngấy cảnh bị lùa vào cái khuôn viên chết tiệt đấy rồi. Cậu muốn bao nhiêu để cho chúng tôi được đi dạo một mình hả? Một đô la?”

Người lính lắc đầu. Cậu không nhìn người đàn ông. Cậu đang nhìn một bầy chim đỏ bay lên từ khu rừng, cách đấy gần hai trăm mét.

“Không đô la,” người lính đáp.

“Vậy thì mười đô la,” người phụ nữ lên tiếng.

“Ôi Chúa ơi, Sarah,” người đàn ông nói. “Như thế là quá nhiều. Bằng lương một tuần ở đây đấy.”

“Đừng keo kiệt thế,” người phụ nữ nói. “Mười đô với chúng ta có nghĩa lý gì? Làm được gì đấy cho những người này cũng tốt mà. Chúa thừa biết họ đã thiếu thốn quá nhiều rồi.”

“Chà, vậy thì xem nào, năm đô,” người đàn ông nói.

Người lính đang nhìn những ngọn cây. Cách đấy hơn một trăm mét, trên một rãnh nước cạn, những ngọn cây thiên tuế bị kéo giật.

“Hai vị hãy quay lại với tôi ngay,” người lính nói. “Khuôn viên khách sạn là nơi tốt nhất cho hai vị.”

“Nghe này,” người đàn ông nói. “Tôi xin lỗi nếu chúng tôi có xúc phạm cậu vì đã đề nghị đưa tiền và tôi tôn trọng cậu vì đã không nhận. Nhưng tôi bị biên tập viên bảo tôi phải làm gì là tốt nhất trong suốt năm mươi mốt tuần của năm rồi. Tôi không đến đây để bị ai đó biên tập kì nghỉ của mình.”

Người lính nâng họng súng lên. Cậu ta bắn ba phát chỉ thiên, ngay phía trên đầu người đàn ông. Tiếng chó sủa, tiếng người quát tháo im bặt trong chốc lát. Rồi chúng lại trở lại, ồn ào hơn. Hai vợ chồng người da trắng đứng yên bất động. Họ há hốc mồm. Họ bị sốc, có lẽ thế, vì những viên đạn bắn sượt qua họ.

“Làm ơn đi, thưa ông bà,” người lính nói. “Rắc rối sắp đến rồi. Ông bà không biết đất nước tôi đâu.”

Hai chị em nghe tiếng rựa phát quang đường đi. Lòng Tốt nắm tay Ong Nhỏ rồi kéo em đứng dậy. Hai chị em đi khỏi chỗ nấp trong rừng, bước ra bãi cát. Nắm tay nhau, họ đứng đấy nhìn lên người đàn ông da trắng và người phụ nữ da trắng – Andrew, và tôi – vẻ hi vọng và chờ đợi.

Tôi cho rằng họ không thể làm gì khác.

Họ đứng trên cát, nắm tay nhau, giữ thẳng người trên đôi chân chực ngã quỵ, Lòng Tốt rướn cổ trông chừng bầy chó đang tiến đến, còn Ong Nhỏ thì nhìn tôi không chớp mắt, chẳng màng đến Andrew, chẳng màng đến người lính.

“Xin cô làm ơn,” cô bé nói, “đưa chúng cháu vào khuôn viên khách sạn với cô.”

Người lính nhìn cô bé, rồi nhìn lại vào rừng. Cậu ta lắc đầu.

“Khuôn viên khách sạn chỉ dành cho du khách,” cậu nói. “Không phải cho lũ con gái chúng mày.”

“Xin làm ơn,” Ong Nhỏ nói, nhìn thẳng vào tôi. “Người xấu sắp làm hại chúng cháu. Họ sẽ giết chúng cháu.”

Cô bé nói với tôi như một người phụ nữ, biết rằng tôi sẽ hiểu. Nhưng tôi đã không hiểu. Ba ngày trước đó, ngay trước khi chúng tôi lên đường đến sân bay Heathrow, tôi đứng trên một phiến bê tông thô trong vườn nhà chúng tôi, hỏi Andrew chính xác thì khi nào anh mới định xây cái nhà kính chết tiệt của anh ở đấy. Đó là vấn đề lớn nhất trong đời tôi – cái nhà kính ấy, hoặc sự thiếu hụt nó. Cái nhà kính vắng mặt, và tất cả những kiến trúc trong quá khứ và tương lai có thể được dựng lên trong sự vắng mặt cảm xúc lớn hơn giữa tôi và chồng tôi. Tôi là một người phụ nữ hiện đại và sự thất vọng là điều tôi hiểu rõ hơn nỗi sợ hãi. Những thợ săn sẽ giết cô bé? Dạ dày tôi thắt lại, nhưng đầu óc tôi vẫn quả quyết rằng đó chỉ là cách nói ẩn dụ.

“Ôi, vì Chúa,” tôi nói. “Cháu là một đứa trẻ. Tại sao lại có ai nỡ giết cháu chứ?”

Ong Nhỏ nhìn lại tôi và nói, “Vì chúng cháu thấy họ giết những người khác.”

Tôi mở miệng nhưng Andrew lên tiếng trước. Tôi nghĩ anh cũng đang mang tâm trạng khó chịu vì lệch pha trí óc như tôi. Tựa như trái tim chúng tôi giờ đã đến bãi biển nhưng tâm trí thì còn nhiều giờ nữa mới đến nơi. Mắt Andrew lộ vẻ sợ hãi nhưng giọng anh nói, “Việc này thật là nhảm nhí hết sức. Đây đúng là kiểu lừa đảo kinh điển của Nigeria. Đi nào, chúng ta quay về khách sạn thôi.”

Andrew bắt đầu kéo tôi dọc theo bãi biển. Tôi đi với anh, ngoái đầu lại để nhìn hai chị em. Người lính đi theo sau chúng tôi. Cậu ta đi giật lùi và chĩa súng vào rừng. Ong Nhỏ đi theo Lòng Tốt, cách chúng tôi mười mét.

Người lính nói, “Hai đứa mày đừng đi theo chúng tao nữa.”

Cậu ta chĩa súng vào hai chị em. Họ nhìn thẳng vào cậu. Người lính lớn tuổi hơn hai chị em một chút, có lẽ mười sáu hay mười bảy tuổi, cậu ta để ria mép. Tôi cho rằng cậu ta rất tự hào khi để được bộ ria ấy. Cậu đội mũ beret màu xanh lá cây và mồ hôi đang nhỏ giọt từ dưới mũ. Tôi thấy những mạch máu trên thái dương cậu. Lòng trắng đôi mắt cậu vàng khè.

Ong Nhỏ hỏi, “Tên anh là gì, anh lính?”

Cậu ta đáp, “Tên tao là ‘Tao sẽ bắn nếu mày không chịu dừng lại’.”

Ong Nhỏ nhún vai rồi vỗ ngực. “Tên em là Ong Nhỏ,” cô bé nói. “Đây là tim em. Hãy bắn vào đây nếu anh muốn.”

Lòng Tốt nói, “Đạn cũng được. Đạn nhanh hơn.”

Hai cô bé tiếp tục đi theo chúng tôi dọc bãi biển. Đôi mắt người lính mở to. “Ai đang đuổi theo hai đứa mày?”

“Chính là bọn người đã đốt làng chúng em. Những người ở công ty dầu mỏ.”

Cây súng bắt đầu run trong tay người lính. “Lạy Chúa tôi,” cậu ta thốt lên.

Có tiếng người quát tháo và tiếng chó sủa, giờ rất to.

Tôi không còn nghe được tiếng sóng nữa.

Năm con chó nâu phóng ra khỏi rừng, chạy rất nhanh. Chúng đang phát điên vì tiếng tru. Thân người và bàn chân chúng rướm máu vì gai rừng. Hai chị em thét lên và chạy vượt lên khỏi người lính. Người lính dừng lại, nhấc súng lên và nã đạn. Con chó đầu đàn lộn nhào trên cát. Tai nó bị bắn mất và cả một phần đầu nó nữa, tôi nghĩ thế. Đàn chó trượt chân rồi dừng lại, xé xác con chó bị ngã. Chúng cắn ra từng miếng thịt cổ trong khi chân sau con vật vẫn còn co giật. Tôi thét lên. Người lính run bần bật.

Sáu gã đàn ông tiến ra khỏi rừng. Họ mặc quần thể thao, tất cả đều rách bươm, và áo ghi lê, mang giày thể thao, đeo dây chuyền vàng. Họ tiến nhanh đến chỗ chúng tôi. Họ phớt lờ đàn chó. Một gã đang cầm cung tên và căng dây cung. Những tên khác vung rựa, thách thức người lính nhả đạn. Họ đi thẳng đến chúng tôi.

Có một tên cầm đầu. Hắn bị thương ở cổ. Vết thương đang thối rữa – tôi có thể ngửi thấy mùi. Tôi biết hắn sắp chết. Một gã khác đeo một sợi dây chuyền bằng kim loại có treo những vật khô màu nâu trông giống như cây nấm. Khi trông thấy Lòng Tốt, gã này chỉ tay vào cô, rồi dùng ngón tay vẽ hình vòng tròn quanh núm vú hắn và cười nhăn nhở. Tôi đang cố gắng thuật lại việc này một cách thực tế hết sức trong khả năng của mình.

Người lính nói, “Cứ đi tiếp đi, thưa ông bà.”

Nhưng gã có vết thương ở cổ - gã cầm đầu – nói, “Không, bọn mày đứng lại.”

“Tao sẽ bắn,” người lính nói.

Nhưng gã đàn ông bảo, “Có thể mày sẽ giết được một người bọn tao, có thể hai người.”

Gã cầm cung tên đang nhắm vào cổ người lính, gã nói, “Cũng có thể chẳng giết được ai. Lẽ ra mày nên bắn chúng tao khi còn ở xa.”

Người lính không đi giật lùi nữa, và chúng tôi cũng dừng lại. Ong Nhỏ và Lòng Tốt vòng ra sau lưng chúng tôi.

Hai cô bé đặt vợ chồng tôi giữa họ và những tay thợ săn.

Những tay thợ săn đang chuyền nhau một chai gì đấy, tôi nghĩ là rượu. Chúng thay phiên nhau uống. Gã cầm cung tên đang cương cứng. Tôi nhìn thấy nó dưới lớp quần thể thao của gã. Nhưng nét mặt gã không thay đổi và mắt gã không rời khỏi cổ người lính của chúng tôi. Gã đeo một chiếc khăn rằn màu đen. Trên khăn có chữ EMPORIO ARMANI. Tôi nhìn Andrew. Tôi cố gắng nói một cách bình thản, nhưng những từ ngữ vỡ vụn trong họng tôi.

“Andrew,” tôi nói. “Làm ơn đưa cho chúng những gì chúng muốn.”

Andrew nhìn gã có vết thương ở cổ rồi nói, “Các người muốn gì?”

Đám thợ săn nhìn nhau. Gã có vết thương ở cổ tiến đến tôi. Mắt hắn hấp háy, đảo lên trong đầu, rồi vụt xuống trở lại và nhìn tôi điên dại, hai con ngươi nhỏ xíu, mống mắt đanh như đạn và lóe lên như đồng. Miệng hắn giật giật từ một cái cười nhếch mép thành một cái nhăn nhó, thành một đường mỏng nham hiểm, rồi thành một nét bệnh hoạn cay đắng và khoái trá. Những nét biểu cảm hiện ra trên khuôn mặt hắn như một màn hình ti vi nôn nóng chuyển kênh liên tục. Tôi ngửi thấy mùi mồ hôi và thịt rữa của hắn. Hắn phát ra tiếng động, một tiếng rên miễn cưỡng dường như làm chính hắn bất ngờ - mắt hắn mở to – rồi hắn giật phăng khăn choàng đi biển của tôi. Hắn nhìn xuống tấm vải màu hoa cà nhạt trong tay, tò mò, và làm ra vẻ thắc mắc tại sao nó lại nằm đấy. Tôi thét lên, vòng hai tay che ngực lại. Tôi rúm người lùi khỏi gã đàn ông, khỏi cách gã nhìn tôi – lúc thì vô cùng kiên nhẫn, như thể đang khích lệ một học sinh chậm hiểu; lúc thì giận dữ; lúc thì với một sự bình thản lặng lẽ, đầy ẩn ý.

Tôi đang mặc một bộ bikini màu xanh lá cây rất bé. Tôi sẽ nhắc lại lần nữa, và có lẽ tôi sẽ bắt đầu tự hiểu ra. Ở vùng châu thổ bị tranh chấp của một đất nước châu Phi giữa một cuộc chiến dầu mỏ ba bên, vì có một bãi biển cạnh cuộc chiến, vì ủy ban du lịch quốc gia đã gửi vé đến bãi biển đó cho tất cả những tạp chí đăng ký trong Kỷ yếu Văn nghệ sĩ, vì đó là năm suy thoái, và vì là chủ biên, tôi là người đầu tiên trong hàng khi những nhà phân phối gửi quà khuyến mãi của chính họ đến trụ sở tạp chí tôi, mà tôi đang mặc bộ bikini bé xíu màu xanh lá cây hiệu Hermès có dây quàng cổ. Tôi chợt nhận ra, trong lúc đứng đấy vòng tay che ngực, rằng tôi đã tự đưa mình vào chỗ chết.

Gã bị thương bước đến sát tôi đến nỗi tôi có thể cảm thấy cát lún xuống dưới chân tôi từ trọng lượng của hắn. Hắn lướt ngón tay trên vai tôi, lên làn da trần của tôi, rồi nói, “Chúng tao muốn gì à? Chúng tao muốn… thực hành… tiếng Anh của chúng tao.”

Đám thợ săn phá ra cười. Chúng lại chuyền nhau chai rượu. Có lúc, khi một gã đưa cái chai lên, tôi thấy thứ gì đó với một con ngươi nhìn ra khỏi chai. Nó đè lên vỏ chai. Rồi gã đàn ông đặt cái chai xuống, và vật đó biến mất vào trong chất lỏng. Tôi nói chất lỏng vì tôi không còn nghĩ nó là rượu nữa.

Andrew nói, “Chúng tôi có tiền, và lát nữa chúng tôi có thể lấy thêm.”

Gã bị thương cười hinh hích, phát ra âm thanh như tiếng lợn kêu, điều đó càng khiến hắn cười hăng hơn. Rồi mặt hắn đột ngột đanh lại với nét mặt cực kỳ nghiêm trọng. Hắn nói, “Chúng mày đưa cho tao những gì chúng mày có ngay bây giờ. Không có lát nữa.”

Andrew móc ví ra khỏi túi. Anh đưa nó cho gã bị thương. Hắn cầm lấy – tay hắn run run – rồi móc ra những tờ tiền giấy và ném chiếc ví xuống cát. Hắn chuyền số tiền ra phía sau cho những gã còn lại, chẳng buồn nhìn hoặc đếm. Hắn đang thở nặng nhọc, mồ hôi chảy xuống trên mặt. Vết thương ở cổ hắn rộng toang hoác. Nó có màu xanh bầm.

Trông nó thật kinh tởm.

Tôi nói, “Anh cần được chữa bệnh. Chúng tôi có thể tìm người giúp anh tại khách sạn.”

Hắn nói, “Thuốc men không chữa được những gì lũ con gái này đã thấy. Chúng phải trả giá vì những gì chúng thấy. Đưa chúng cho tao.”

Tôi đ?