← Quay lại trang sách

- 5 -

Tôi tỉnh giấc trên ghế sofa của Sarah. Thoạt tiên tôi không biết mình đang ở đâu. Tôi phải mở mắt nhìn xung quanh. Có vài chiếc gối đệm bằng lụa màu cam trên sofa. Trên gối thêu chim và hoa. Ánh nắng chiếu xuyên qua cửa sổ, và những khung cửa sổ này có màn chạm đến tận sàn nhà. Chúng làm bằng nhung màu cam. Có một chiếc bàn cà phê mặt kính, lớp kính dày đến nỗi nhìn ngang trông có màu xanh lục. Trên kệ dưới mặt bàn bày biện các quyển tạp chí. Một quyển về thời trang, một quyển về làm đẹp nhà cửa. Tôi ngồi dậy, cho chân xuống sàn. Sàn nhà lót gỗ.

Nếu tôi kể chuyện này với lũ con gái ở quê, chúng sẽ hỏi, Sao mà bàn làm từ cà phê được, vật mà cậu gọi là nhung ấy là gì, tại sao người phụ nữ mà cậu ở cùng không chất gỗ thành đống ở bên hông nhà như những người khác?

Sao cô ấy lại để chúng nằm trên sàn nhà, cô ấy lười lắm à? Và tôi sẽ phải trả lời chúng: bàn cà phê không phải làm từ cà phê, còn nhung là một chất liệu mềm mịn như mặt đáy những đám mây non, và gỗ trên sàn nhà Sarah không phải là củi nhóm lửa, mà là SÀN GỖ CÔNG NGHIỆP THỤY ĐIỂN PHỦ SƠN MÀI CỔ BA SỌC làm bằng gỗ thật, dày tối thiểu 3 mm, được hội đồng quản lý rừng (fsc) xác nhận là sản xuất bằng công nghệ trồng rừng đúng quy cách, và tôi biết thế vì tôi đã thấy sàn nhà trông hệt như thế này được quảng cáo trên tạp chí về những ngôi nhà đẹp đặt dưới bàn cà phê. Và lũ con gái ở nhà sẽ tròn xoe mắt rồi nói, Lạ nhỉ, vì giờ đây chúng hiểu ra rằng tôi cuối cùng đã đến một nơi ở xa hơn tận cùng của thế giới – một nơi mà gỗ được sản xuất bằng máy – và chúng sẽ tự hỏi tôi sẽ còn sống sót qua phép thuật nào nữa.

Hãy tưởng tượng xem tôi sẽ mệt mỏi ra sao khi phải kể chuyện cho lũ con gái ở quê nhà. Đây chính là lý do mà chẳng ai kể gì cho người châu Phi chúng tôi cả. Không phải người ta muốn lục địa chúng tôi chìm trong dốt nát, mà vì chẳng ai có thời gian để ngồi xuống và giải thích về Thế chiến thứ nhất từ những điều căn bản đầu tiên. Hoặc có thể bạn muốn làm thế, nhưng bạn không thể. Văn hóa của bạn đã trở nên cao siêu, như một chiếc máy tính, hoặc một loại thuốc bạn uống khi bị đau đầu. Bạn có thể dùng nó, nhưng bạn không thể giải thích nó hoạt động thế nào. Đương nhiên là không thể giải thích với những đứa con gái chất củi thành đống bên hông nhà được.

Nếu tôi kể cho bạn nghe, một cách thản nhiên, rằng nhà của Sarah nằm cạnh một công viên lớn có rất nhiều nai đã thuần hóa, thì bạn sẽ không nhảy dựng lên và hét toáng, Chúa ơi! Lấy cây súng ra đây để tôi đi săn một con nai ngốc nghếch xem nào! Không, thay vì vậy, bạn ngồi yên tại chỗ và xoa cằm đầy hiểu biết, rồi tự nhủ, Hmm, tôi nghĩ đấy là Công viên Richmond, nằm ở ngoại ô London.

Đây là câu chuyện dành cho những người cao siêu, như bạn.

Tôi không cần phải mô tả vị trà mà Sarah pha cho tôi khi cô đi xuống phòng khách nhà cô vào sáng hôm đó. Chúng tôi không bao giờ thưởng thức trà ở quê mình, dù chúng mọc ở miền đông Nigeria, nơi đất nhô cao lên đến tận mây xanh và quanh thân cây luôn có một lớp rêu như những bộ râu dài mềm mại từ không khí ẩm. Ở vùng phía đông ấy, đồn điền kéo dài đến tận những sườn đồi xanh và biến mất vào sương mù. Những cây trà họ trồng cũng biến mất. Tôi nghĩ trà được xuất khẩu hết cả rồi. Bản thân tôi chưa bao giờ thưởng thức trà cho đến khi tôi cũng được xuất khẩu chung với nó. Chiếc tàu tôi đi để đến nước bạn chất đầy trà. Trà được gói trong những bao giấy nâu dày, chất thành đống trong khoang hàng hóa. Tôi chui vào những bao trà để nấp. Sau hai ngày, tôi đã suy nhược đến mức không thể nấp được nữa, vì thế tôi ra khỏi khoang. Thuyền trưởng nhốt tôi trong một căn phòng. Ông ấy nói sẽ không an toàn nếu để tôi ở cùng thủy thủ đoàn. Thế là trong ba tuần và qua tám nghìn cây số, tôi nhìn đại dương qua một ô cửa sổ nhỏ bằng kính hình tròn và đọc một quyển sách do thuyền trưởng đưa. Quyển sách có nhan đề Những kì vọng lớn lao, kể về một cậu bé tên là Pip, nhưng tôi không biết nó kết thúc ra sao, vì chiếc tàu đến Anh và thuyền trưởng bàn giao tôi cho các nhà chức trách nhập cư.

Ba tuần và tám nghìn cây số trên một chiếc tàu chở trà – có lẽ nếu bạn cào vào da tôi, bạn sẽ vẫn thấy da tôi có mùi trà. Khi đưa tôi vào trại giam nhập cư, họ đưa tôi một chiếc chăn nâu và một tách trà bằng nhựa màu trắng. Và khi nếm thử, tôi chỉ muốn quay trở lại chiếc tàu để về nhà, về lại quê hương đất nước tôi. Trà là mùi vị của xứ sở tôi: đắng cay và ấm áp, mạnh mẽ và sắc nét từng ký ức. Nó có vị khao khát. Nó có vị của khoảng cách giữa nơi bạn đang ở và nơi bạn ra đi. Đồng thời, nó cũng biến mất – dư vị của nó tan biến trên lưỡi bạn trong khi môi bạn vẫn còn nóng rẫy sau khi chạm vào cốc. Nó tan biến, như những đồn điền kéo dài đến tận sương mù. Tôi nghe nói đất nước bạn uống nhiều trà hơn bất kì nơi nào khác. Điều đó hẳn phải khiến bạn buồn ghê lắm – như những đứa trẻ khao khát người mẹ đi vắng. Tôi rất lấy làm tiếc.

Và thế là, chúng tôi uống trà trong nhà bếp của Sarah. Charlie vẫn còn ngủ trong phòng trên lầu. Sarah đặt tay lên tay tôi.

“Chúng ta cần nói về chuyện đã xảy ra,” cô nói. “Cháu có sẵn sàng nói về chuyện ấy không? Về điều đã xảy ra sau khi bọn người ấy đưa cháu đi dọc bãi biển?”

Tôi không trả lời ngay. Tôi ngồi tại bàn, đưa mắt nhìn khắp nhà bếp một lượt, thu nhận tất cả những cảnh tượng mới mẻ và tuyệt diệu. Ví dụ như, có một chiếc tủ lạnh trong nhà bếp của Sarah, một chiếc hộp khổng lồ màu bạc có gắn máy làm đá. Mặt trước của máy làm đá bằng kính trong suốt nên bạn có thể thấy chuyện đang xảy ra bên trong. Nó đang tạo ra một viên đá bé xíu lấp lánh. Nó đã gần xong. Bạn sẽ cười tôi – cô gái nhà quê dở hơi– vì đã nhìn chăm chú vào một viên đá như thế. Bạn sẽ cười, nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy nước đông cứng lại. Thật là đẹp – vì nếu làm được thế này với nước, thì có lẽ cũng có thể làm được với mọi thứ khác thường trốn thoát và bỏ chạy, rồi biến mất vào cát hoặc sương mù. Mọi thứ lại có thể được đông cứng, đúng thế, ngay cả khoảng thời gian tôi chơi đùa cùng Nkiruka trong bụi đỏ ở chiếc xích đu. Vào những ngày ấy, tôi đã tin rằng những điều như thế có thể xảy ra ở đất nước bạn. Tôi biết có những phép màu vĩ đại chỉ đang đợi tôi đến để khám phá, nếu như tôi tìm ra được trung tâm, nguồn gốc của mọi điều kì diệu nhỏ bé này. Đằng sau lớp kính lạnh, viên đá run run trên cánh tay kim loại. Nó lấp lánh, như một linh hồn con người. Sarah nhìn tôi. Đôi mắt cô long lanh.

“Ong à?” Cô nói. “Cô thực sự cần biết. Cháu có sẵn sàng nói về chuyện đó chưa?”

Viên đá đã định hình. KENG, nó rơi xuống, vào khay đỡ.

Sarah chớp mắt. Máy làm đá lại bắt đầu tạo một viên mới.

“Cô Sarah ạ,” tôi đáp, “cô không cần phải biết chuyện gì đã xảy ra. Đó không phải là lỗi của cô.”

Sarah nắm tay tôi. “Làm ơn mà, Ong,” cô nói. “Cô cần được biết.”

Tôi thở dài bực bội. Tôi không muốn nói về chuyện đó, nhưng nếu Sarah buộc tôi phải làm thế thì tôi sẽ làm thật nhanh và sẽ không nương nhẹ cô ấy.

“Được rồi, cô Sarah,” tôi nói. “Sau khi cô đi, bọn người ấy đưa chúng cháu đi dọc theo bãi biển. Chúng cháu đi bộ một lúc, có lẽ khoảng một giờ. Chúng cháu lên một chiếc tàu trên bờ cát. Nó bị lật úp. Vài tấm ván đã gãy. Trông như nó đã bị bão đánh vỡ và ném lên bãi biển rồi để ở đấy. Đáy tàu bạc thếch vì nắng. Các lớp sơn đã bong tróc. Cả những con hàu trên tàu cũng đã vỡ vụn ra khỏi vỏ tàu. Đám thợ săn đẩy cháu xuống dưới tàu và bảo cháu nghe. Chúng nói chúng sẽ thả cháu đi, khi mọi việc đã xong. Dưới tàu rất tối, có nhiều con cua đang bò lổm ngổm dưới đấy. Chúng cưỡng hiếp chị cháu. Chúng đẩy chị ấy dựa vào thành tàu và cưỡng hiếp chị ấy. Cháu nghe chị rên la. Cháu không nghe được hết qua những tấm ván đóng tàu. Âm thanh bị chặn lại nghèn nghẹt. Cháu nghe chị cháu sặc sụa, giống như đang bị siết cổ. Cháu nghe tiếng cơ thể chị va đập lên ván tàu. Nó kéo dài rất lâu. Nó kéo dài đến khi ngày đã nóng rẫy, nhưng dưới tàu rất tối và mát. Ban đầu chị cháu còn đọc to những câu trong kinh thánh nhưng sau đó tâm trí chị không còn tỉnh táo nữa, và rồi chị bắt đầu hát to những bài hát mà chúng cháu thường hát cùng nhau lúc bé. Cuối cùng chỉ còn tiếng la hét. Thoạt đầu nó giống như những tiếng thét vì đau đớn, nhưng cuối cùng chúng chuyển sang giống tiếng khóc thét của một đứa trẻ sơ sinh. Không có nỗi đau buồn trong đó. Những tiếng thét tự động. Chúng cứ vang lên. Mỗi tiếng thét đều giống nhau, như đang phát ra từ chiếc máy vậy.”

Tôi ngước lên và thấy Sarah đang nhìn tôi trân trối. Khuôn mặt cô trắng bệch, đôi mắt đỏ hoe, hai tay cô bịt lấy miệng. Cô đang run rẩy và tôi cũng run, vì tôi chưa từng kể chuyện này cho ai nghe.

“Cháu không thấy được chúng đã làm gì với chị cháu. Ván tàu ở thân bên kia bị gãy. Đó là nơi cháu có thể nhìn ra ngoài. Kẻ giết người, gã có vết thương ở cổ, cháu có thể nhìn thấy gã. Gã đứng cách rất xa đám thuộc hạ. Gã đang đi bộ ở mép nước. Gã đang hút thuốc từ gói thuốc lấy ở túi của người lính bị gã giết. Gã nhìn ra đại dương. Trông như gã đang chờ đợi một điều gì đấy từ biển. Thỉnh thoảng gã đưa tay lên chạm vào vết thương trên cổ. Hai vai gã xụi xuống. Trông như gã đang đeo một khối nặng.”

Toàn thân Sarah đang run lẩy bẩy, mạnh đến nỗi chiếc bàn ăn cũng rung lên. Cô đang khóc.

“Chị cháu,” cô nói. “Chị gái xinh đẹp của cháu, ôi Chúa ơi, ôi Jesus, cô…”

Tôi không muốn làm Sarah đau đớn nữa. Tôi không muốn kể cho cô nghe chuyện đã xảy ra, nhưng giờ thì tôi phải kể. Tôi không thể dừng lại được vì tôi đã bắt đầu câu chuyện của mình, nó cần phải được kết thúc. Chúng ta không thể chọn nơi để bắt đầu và dừng lại. Những câu chuyện của chúng ta là người kể chuyện của chúng ta. “Đến gần cuối, cháu nghe Nkiruka van nài được chết. Cháu nghe đám thợ săn cười. Sau đó cháu nghe tiếng xương chị bị gãy từng chiếc một. Chị cháu đã chết như thế. Đúng, chị là một cô gái xinh đẹp, cô nói đúng. Trong làng cháu, người ta nói chị là loại con gái làm cho cánh đàn ông quên hết mọi rắc rối của họ. Nhưng đôi khi chuyện không diễn ra như người ta nói. Khi bọn người kia và đàn chó đã xử lý xong chị cháu, chúng ném xuống biển những phần thi thể còn lại không ăn được của chị.”

Lúc đó, Sarah nín khóc và thôi run rẩy. Cô ngồi yên bất động. Cô nắm chặt tách trà của mình, tựa như nếu không nắm lấy nó thì cô sẽ bị thổi bay đi mất.

“Còn cháu,” cô thì thầm. “Chuyện gì đã xảy ra với cháu?” Tôi gật đầu.

“Buổi chiều trời rất nóng, ngay cả ở dưới tàu. Một làn gió bắt đầu thổi vào từ biển. Nó thổi tung cát lên thành tàu. Cát rít lên khi va vào ván tàu. Cháu nhìn qua khe để xem chuyện gì đang xảy ra. Ở ngoài đó, trên đầu sóng là những con mòng biển đang bay lượn trong gió. Chúng rất bình thản. Đôi khi chúng lao xuống biển và bay lên trở lại với một con cá bạc ngậm trong mỏ. Cháu nhìn chúng không chớp mắt, vì cháu nghĩ rằng điều đã xảy ra với chị cháu lúc này sẽ xảy ra với cháu, và cháu muốn dán suy nghĩ của mình vào điều gì đó đẹp đẽ. Nhưng bọn người ấy không đến bắt cháu. Sau khi đã xử lý xong chị cháu, đám thợ săn và đàn chó quay vào rừng để ngủ. Nhưng tên cầm đầu, gã không trở lại cùng thuộc hạ. Gã đứng trong sóng biển. Những con sóng vỗ quanh đầu gối gã. Gã đang tựa mình vào gió. Sau đó trời nóng đến nỗi đàn mòng biển không bắt cá nữa. Chúng chỉ thả nổi trên sóng với cái đầu rút vào ức, như thế này này. Sau đó tên cầm đầu bước về phía những con sóng. Khi nước lên đến ngực, gã bắt đầu bơi. Gã bơi thẳng ra biển. Đàn mòng biển bay lên tránh đường cho gã rồi lại vỗ cánh đáp xuống. Chúng chỉ muốn ngủ. Gã đàn ông bơi thẳng ra khơi, và rồi chẳng mấy chốc cháu không còn thấy gã nữa. Gã biến mất và cháu chỉ còn thấy một đường thẳng, đường thẳng giữa biển và trời, rồi sau đó trời nóng đến độ ngay cả đường thẳng ấy cũng biến mất. Đó là khi cháu chui ra khỏi tàu, vì cháu biết bọn người kia lúc này đang ngủ. Cháu nhìn quanh. Bãi biển không một bóng người, cũng chẳng có bóng râm. Nóng đến độ cháu nghĩ mình sẽ chết vì nóng mất thôi. Cháu đi xuống mép nước, nhúng ướt quần áo rồi chạy vào khuôn viên khách sạn. Cháu chạy trên mép nước cạn để không bỏ lại dấu vết gì trên cát, như thế thì bọn chúng sẽ không thể theo dấu cháu được. Cháu đến nơi chúng đã giết người lính gác. Ở đấy có nhiều mòng biển hơn. Chúng đang tranh nhau mổ xác người lính. Chúng bay đi khi cháu tiến đến. Cháu không dám nhìn mặt người lính. Những con còng nhỏ bò vào bò ra từ ống quần anh ấy. Có một chiếc ví trên đất và cháu nhặt nó lên. Đó là ví của chú Andrew, cô Sarah ạ. Cháu xin lỗi. Cháu nhìn vào trong. Có nhiều thẻ bằng nhựa bên trong. Có một thẻ đề là GIẤY PHÉP LÁI XE và nó có ảnh của chồng cô. Đó là chiếc thẻ có địa chỉ nhà cô trên đấy. Đó là chiếc thẻ cháu đã lấy. Còn có một chiếc thẻ khác, danh thiếp của chú ấy, có cả số điện thoại, và cháu cũng lấy nó luôn. Nó bay khỏi tay cháu xuống biển, nhưng cháu nhặt nó lại. Rồi cháu vào rừng nấp, nhưng cháu chọn nơi nấp để vẫn có thể nhìn thấy biển. Rồi trời bắt đầu mát dần và một chiếc xe tải đến từ hướng khuôn viên khách sạn. Đó là một chiếc xe tải mui chăng vải bạt, loại xe quân đội ấy. Sáu người lính nhảy xuống từ phía sau xe rồi họ đứng nhìn người lính gác. Họ dùng mũi giày bốt chọc vào anh ta. Có một máy bộ đàm trên khoang lái xe tải, nó đang mở bài “One” của U2. Cháu biết bài này. Nó được mở ở nhà cháu suốt. Vì có lần những người đến từ thành phố cho chúng cháu máy nghe đài quay tay, mỗi nhà một chiếc. Chúng cháu lẽ ra phải vặn dây cót để nghe Tin thế giới từ BBC, nhưng chị Nkiruka lại chuyển đài nhà cháu sang kênh âm nhạc Port Harcourt. Bọn cháu thường tranh nhau chiếc hộp bé xíu đó vì cháu thích nghe tin tức và thời sự. Nhưng giờ đây khi đang nấp trong rừng sau bãi biển, cháu chỉ ước gì mình đã không bao giờ tranh giành với chị. Nkiruka yêu âm nhạc và giờ đây cháu thấy chị ấy đã đúng, vì cuộc sống cực kì ngắn ngủi và ta không thể nhảy nhót theo tiếng tin thời sự được. Đó là khi cháu bật khóc. Cháu không khóc khi chúng giết chị cháu nhưng cháu đã khóc khi nghe tiếng nhạc vọng ra từ xe tải của những người lính, vì cháu đã nghĩ, Đây là bài hát yêu thích của chị mình và chị ấy sẽ không bao giờ được nghe nó nữa. Cô nghĩ cháu có điên không, cô Sarah?”

Sarah lắc đầu. Cô đang gặm móng tay.

“Mọi người trong làng cháu đều thích U2,” tôi nói tiếp. “Có lẽ là mọi người ở đất nước cháu. Chẳng buồn cười sao, nếu những kẻ nổi loạn tranh giành dầu mỏ mở U2 tại các lán trại trong rừng của chúng, còn binh lính của chính phủ đang mở U2 trong xe tải của họ. Cháu nghĩ mọi người đang giết chóc lẫn nhau trong khi cùng nghe một loại nhạc. Cô biết gì không? Tuần đầu tiên cháu ở trong trại giam, U2 cũng là ban nhạc số một ở đấy. Đó là một trò đùa trớ trêu của cuộc đời, cô Sarah ạ. Chẳng ai thích nhau, nhưng mọi người đều thích U2.”

Sarah vặn vẹo tay trên bàn. Cô nhìn tôi. “Cháu kể tiếp được chứ?” Cô hỏi. “Cháu kể cho cô nghe cháu đã trốn thoát thế nào?”

Tôi thở dài. “Thôi được,” tôi nói. “Những người lính nhịp nhịp chân theo tiếng nhạc. Họ lăn xác chết lên một tấm vải. Họ túm tấm vải ở bốn góc rồi nhấc nó lên xe tải. Cháu nghĩ mình nên chạy ra nhờ họ giúp. Nhưng cháu rất sợ, vì thế cháu ở yên. Những người lính lái xe quay lại hướng bãi biển, và rồi không gian lại chìm vào tĩnh lặng. Đến lúc mặt trời lặn, cháu nghĩ mình không muốn đi đến khuôn viên khách sạn nữa. Cháu quá sợ những người lính, nên cháu đi theo hướng ngược lại. Những con dơi ăn quả bay tứ tung. Cháu đợi đến khi trời tối mới đi ngang qua nơi mà chúng đã giết chị cháu. Không có ánh trăng, chỉ có ánh sáng xanh từ những sinh vật nhỏ dưới biển. Thỉnh thoảng lại có một dòng nước ngọt chảy xuống biển, cháu có thể uống nước ở đấy. Cháu đi bộ suốt đêm và khi trời sáng, cháu quay vào rừng. Cháu tìm thấy một quả màu đỏ để ăn. Cháu không biết tên nó nhưng cháu đói lắm. Nó đắng nghét, khiến cháu buồn nôn. Cháu rất sợ bọn người kia sẽ đến và tìm thấy cháu. Khi phải tiêu tiểu, cháu chôn phân của mình để không bỏ lại dấu vết gì. Mọi tiếng động cháu nghe thấy, cháu đều nghĩ đó là bọn người kia đang quay lại. Cháu tự nhủ, Ong Nhỏ, bọn người ấy đang đến để xé toạc đôi cánh của mày. Tình hình tiếp diễn như thế trong hai đêm nữa và đến đêm cuối cùng, cháu đến một bến cảng. Có ánh đèn màu đỏ và màu xanh nhấp nháy trên biển, và có một con đê chắn biển dài bằng bê tông. Cháu đi lên tận đỉnh con đê. Sóng biển dội vào người cháu ướt sũng, nhưng chẳng có lính gác nào. Gần cuối đê, ở phía đất liền, có hai chiếc tàu được buộc lại cạnh nhau. Chiếc gần cháu treo cờ Ý. Chiếc kia treo cờ Anh, vì thế cháu trèo qua chiếc tàu Ý để lên tàu Anh. Cháu đi xuống khoang hàng hóa. Rất dễ tìm ra khoang này vì các bảng hiệu đều viết bằng tiếng Anh. Mà tiếng Anh thì, cô biết rồi đấy, là ngôn ngữ chính thức ở đất nước cháu.”

Đến đây tôi dừng lại, và nhìn xuống khăn trải bàn. Sarah đi đến chỗ tôi, cô ngồi xuống chiếc ghế cạnh tôi và ôm tôi thật lâu. Rồi chúng tôi ngồi đấy ôm tách trà đã nguội lạnh của mình. Tôi tựa đầu lên vai Sarah. Bên ngoài, ngày đang sáng dần. Chúng tôi không nói gì. Sau một lúc, tôi nghe tiếng bước chân trên cầu thang, và sau đó Charlie đi vào nhà bếp. Sarah lau nước mắt, hít một hơi sâu và nhanh chóng ngồi thẳng lưng. Charlie đang mặc bộ trang phục Batman, nhưng không có mặt nạ và chiếc đai mà nó cất đồ nghề của Batman bên trong. Có vẻ như cậu bé không nghĩ sẽ gặp rắc rối gì, vào buổi sáng hôm đó. Khi thấy tôi, nó chớp mắt. Tôi nghĩ, nó ngạc nhiên vì thấy tôi vẫn còn ở đó.

Nó dụi đôi mắt ngái ngủ rồi rúc đầu vào người mẹ.

“Ẫn òn ờ ngủ mà,” nó nói.

“Con nói gì cơ, Batman?” Sarah hỏi.

“Con nói, vẫn còn giờ ngủ mà. Sao mẹ thì thức?”

“À, sáng nay mẹ và Ong Nhỏ dậy sớm.”

“Mmm?”

“Mẹ và chị ấy có rất nhiều chuyện để kể cho nhau nghe.”

“Mmm?”

“Ôi Chúa ơi, Batman, như thế là con không hiểu, hay con không đồng ý nào?”

“Mmm?”

“Ồ, mẹ hiểu rồi, cục cưng à, con giống như một chú dơi nhỏ phát ra sóng âm vậy. Con sẽ tiếp tục phát ra những tiếng “Mmm” đấy cho đến khi một tiếng dội vào vật thể rắn nào đấy, phải không?”

“Mmm?”

Charlie nhìn mẹ không chớp mắt. Cô nhìn lại nó một lúc, và rồi cô quay sang mỉm cười với tôi. Nước mắt cô lại tuôn rơi.

“Charlie có đôi mắt tuyệt đẹp, phải không? Trông chúng như hệ sinh thái bị đóng băng vậy.”

“Không, chúng là không đóng băng,” Charlie nói.

Sarah bật cười. “Con yêu à, ý mẹ là, bất kì ai cũng có thể nhìn thấy có rất nhiều điều đang diễn ra bên trong đó.” Cô vỗ lên đầu Charlie.

“Hmm,” Charlie đáp. “Sao mẹ là khóc vậy, mẹ?”

Sarah nấc lên một tiếng thổn thức rồi phẩy tay. “Phải nói là sao mẹ lại khóc, Charlie, không phải sao mẹ là khóc,” cô nói.

“Sao mẹ lại khóc vậy, mẹ?”

Sarah suy sụp. Như thể mọi sức lực đã rút khỏi xương cốt cô. Cô chùng xuống, kê đầu lên cánh tay trên mặt bàn và khóc.

“Ôi, Charlie,” cô nói. “Mẹ khóc vì mẹ đã uống bốn cốc G&T tối hôm qua. Mẹ khóc vì một điều mà mẹ đã cố gắng không nghĩ đến. Mẹ xin lỗi, Charlie. Mẹ quá khôn lớn đến nỗi đã chai lì cảm xúc, cho nên khi cảm xúc trở lại, nó khiến mẹ ngạc nhiên.”

“Mmm?”

“Ôi, Charlie!” Sarah nói.

Cô dang tay ra và Charlie leo lên đùi cô, họ ôm nhau. Tôi cảm thấy mình không nên có mặt ở đấy, vì thế tôi đi ra vườn và ngồi xuống cạnh ao cá. Tôi nghĩ về chị gái mình thật lâu. Sau đó, khi mặt trời lên cao và tiếng xe cộ trên đường đã trở thành tiếng gầm gào không dứt, Sarah đi ra vườn để tìm tôi.

“Xin lỗi,” cô nói. “Cô phải đưa Charlie đến nhà trẻ.”

“Không sao đâu ạ.”

Cô ngồi xuống cạnh tôi và đặt tay lên vai tôi. “Cháu cảm thấy thế nào?”

Tôi nhún vai. “Ổn ạ,” tôi đáp.

Sarah mỉm cười, nhưng đó là một nụ cười buồn bã. “Cô không biết phải nói gì,” cô nói.

“Cháu cũng không biết.”

Chúng tôi ngồi đấy nhìn một con mèo lăn tròn trên cỏ ở bên kia vườn, trong vạt nắng rực rỡ.

“Con mèo đấy trông thật vui vẻ,” tôi nói.

“Mmm,” Sarah đáp. “Nó là mèo của hàng xóm.”

Tôi gật đầu. Sarah hít một hơi sâu.

“Nghe này, cháu có muốn ở lại đây một thời gian không?” Cô hỏi.

“Ở đây? Với cô ư?”

“Ừ. Với cô và Charlie.”

Tôi dụi mắt. “Cháu chẳng biết nữa. Cháu là người nhập cư chui, cô Sarah ạ. Những người ấy có thể đến đây bất cứ lúc nào để trả cháu về nước.”

“Tại sao họ lại thả cháu ra khỏi trại giam, nếu cháu không được phép ở lại?”

“Họ đã nhầm lẫn. Nếu cô trông được mắt hoặc cô khéo ăn nói, đôi khi họ sẽ nhầm lẫn vì cô.”

“Nhưng giờ thì cháu tự do rồi. Họ không thể muốn đến là đến, Ong ạ. Đây đâu phải là Đức Quốc Xã. Hẳn chúng ta có thể tiến hành làm thủ tục gì đấy, dạng phúc thẩm. Cô có thể kể cho họ nghe chuyện gì đã xảy ra với cháu ở đó. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cháu quay lại.”

Tôi lắc đầu. “Họ sẽ nói với cô Nigeria là một đất nước an toàn, cô Sarah ạ. Những người như cháu, họ có thể đến và chở bọn cháu ra thẳng sân bay.”

“Cô chắc rằng chúng ta có thể giải quyết được, Ong ạ. Cô làm chủ bút một tạp chí. Cô có quen biết. Chúng ta có thể làm to chuyện lên.”

Tôi nhìn xuống đất. Sarah mỉm cười. Cô đặt tay lên tay tôi.

“Cháu còn trẻ, Ong ạ. Cháu không biết cuộc đời này xoay chuyển thế nào đâu. Những gì cháu đã thấy chỉ là phiền toái, vì thế cháu nghĩ phiền toái là tất cả những gì cháu sẽ nhận được.”

“Cô cũng đã gặp phiền toái, cô Sarah. Cô sẽ phạm sai lầm nếu cô nghĩ rằng chuyện đấy là bất bình thường. Nói thật, những chuyện phiền toái giống như đại dương vậy. Nó bao phủ hai phần ba diện tích trái đất.”

Sarah giật nảy mình, tựa như có gì đó rơi trúng mặt cô.

“Gì đấy ạ?” Tôi hỏi.

Cô lấy tay ôm đầu. “Không có gì,” cô nói. “Thật ngớ ngẩn.”

Tôi không nghĩ ra được gì để nói. Tôi nhìn quanh khu vườn của cô hòng tìm ra thứ gì đấy để tự sát, trong trường hợp bọn người ấy đến bất thình lình. Có một cái nhà kho ở cuối khu vườn, bên ngoài dựng một cây chĩa ba làm vườn lớn. Đó là một công cụ tốt, tôi nghĩ. Nếu bọn người kia đột ngột đến, tôi sẽ bỏ chạy cùng cây chĩa ba đó và sẽ ném mình lên những mũi nhọn sắc bén ấy.

Tôi thọc ngón tay vào lớp đất của thảm hoa cạnh chúng tôi, rồi bóp đất dính giữa các ngón tay.

“Cháu đang nghĩ gì hở Ong?”

“Mmm?”

“Cháu đang nghĩ gì?”

“Ồ. Khoai mì ạ.”

“Tại sao lại là khoai mì?”

“Ở làng cháu, chúng cháu trồng khoai mì. Chúng cháu trồng cây, tưới nước, và khi nó lên cao – như thế này – chúng cháu vặt lá để tập trung cho rễ lớn, và khi nó đã đủ lớn thì chúng cháu đào nó lên, lột vỏ rồi bào nhuyễn, sau đấy thì ép, cho lên men, rồi phơi khô và trộn với nước để làm bột rồi ăn, ăn, ăn. Khi cháu ngủ vào ban đêm, cháu mơ thấy nó.”

“Cháu còn làm gì nữa?”

“Thỉnh thoảng chúng cháu chơi xích đu làm bằng vỏ bánh xe.”

Sarah mỉm cười. Cô nhìn sang hướng khác của khu vườn.

“Quanh đây không có nhiều khoai mì,” cô nói. “Chỉ có hàng tấn hoa dây leo. Vô vàn hoa trà.”

Tôi gật đầu. “Khoai mì không mọc được trên đất này.”

Sarah vừa mỉm cười vừa khóc. Tôi nắm tay cô. Nước mắt chảy dài trên má cô.

“Ôi, Ong ơi,” cô nói. “Cô cảm thấy vô cùng tội lỗi.”

“Đây không phải là lỗi của cô, cô Sarah ạ. Cháu đã mất bố mẹ và chị gái. Cô thì đã mất chồng. Cả hai chúng ta đều mất mát.”

“Cô không mất Andrew, Ong ạ. Cô đã hủy hoại chú ấy. Cô đã lừa dối chú ấy khi quan hệ với người đàn ông khác. Đó là lý do duy nhất bọn cô đến Nigeria. Bọn cô nghĩ mình cần một kì nghỉ mát. Để hàn gắn mọi chuyện. Cháu hiểu chưa?”

Tôi chỉ nhún vai. Sarah thở dài.

“Cô nghĩ cháu sẽ nói rằng cháu chưa bao giờ đi nghỉ mát.”

Tôi nhìn xuống tay mình. “Thật ra, cháu chưa hề có bạn trai.”

Sarah chớp mắt. “Đúng rồi. Dĩ nhiên. Đôi khi cô quên rằng cháu còn quá trẻ.”

Chúng tôi ngồi yên một lúc. Điện thoại di động của Sarah đổ chuông. Cô nghe điện thoại. Khi cuộc gọi kết thúc, trông cô rất mệt mỏi.

“Là nhà trẻ gọi. Họ muốn cô đến đón Charlie. Nó đánh nhau với mấy đứa trẻ khác. Họ bảo nó bị mất kiểm soát.” Cô cắn môi. “Nó chưa bao giờ làm thế.”

Cô lại lấy điện thoại ra và bấm vài phím. Cô đưa điện thoại lên tai trong lúc nhìn qua vai tôi, vào khu vườn. Cô vẫn đang cắn môi. Sau vài giây, có âm thanh của tiếng chuông điện thoại khác. Đó là một âm thanh nhỏ, ở xa, tận trong nhà. Khuôn mặt Sarah thất thần. Rồi sau đó, rất chậm rãi, cô hạ điện thoại xuống rồi ấn một phím. Từ trong nhà, tiếng chuông điện thoại ngừng reo.

“Ôi Chúa ơi,” Sarah nói. “Ôi không.”

“Chuyện gì? Có chuyện gì thế?”

Sarah hít một hơi sâu. Toàn thân cô run lẩy bẩy.

“Cô gọi cho Andrew. Cô không biết tại sao. Cô cứ thế mà bấm số, thậm chí chẳng nghĩ ngợi gì. Cháu biết đấy… nếu Charlie gặp rắc rối, cô luôn gọi cho Andrew. Cô chỉ quên mất rằng chú ấy… cháu biết đấy. Ôi Chúa ơi. Cô thật sự mất trí rồi. Cô cứ tưởng mình đã sẵn sàng, cháu biết đấy, để nghe chuyện đã xảy ra với cháu… và chị gái cháu. Nhưng cô chưa sẵn sàng. Cô chưa sẵn sàng cho chuyện đó. Ôi, Chúa ơi.”

Chúng tôi ngồi đấy, tôi nắm tay Sarah trong lúc cô khóc.

Sau cùng, cô đưa điện thoại cho tôi rồi chỉ lên màn hình.

“Chú ấy vẫn còn nằm trong danh bạ của cô. Cháu thấy không?”

Màn hình điện thoại cô có chữ ANDREW, và một con số. Chỉ là ANDREW – không có họ.

“Cháu xóa giùm cô được không, Ong? Cô không làm được.”

Tôi cầm điện thoại trong tay. Tôi đã nhìn thấy người ta nói chuyện trên điện thoại di động, nhưng tôi luôn nghĩ chúng sẽ rất phức tạp. Bạn sẽ cười tôi – lại nữa rồi, con bé dở người có làn da bốc mùi trà và vết bẩn vỏ khoai mì dính trên ngón tay – nhưng tôi luôn nghĩ phải dò ra tần số. Tôi tưởng bạn phải dò sóng cho đến khi tìm thấy tín hiệu của bạn bè mình, rất nhỏ và yếu, như dò kênh Tin quốc tế BBC trên radio quay tay vậy. Tôi đã cho rằng điện thoại di động khó sử dụng như thế đấy. Bạn sẽ phải dò sóng qua những âm thanh rè rè và chói tai, đầu tiên bạn sẽ nghe tiếng của bạn mình, rất lạ và rất mỏng, gần như chìm lỉm trong tiếng gào thét – như thể bạn của bạn đã bị đập bẹp gí như chiếc bánh quy rồi thả vào một chiếc hộp kim loại chứa toàn khỉ là khỉ - nhưng rồi bạn chỉ cần vặn kim dò một xíu xiu nữa thôi và đột nhiên bạn của bạn sẽ nói gì đấy như, Cầu Chúa phù hộ Nữ Hoàng! và nói cho bạn biết tất tần tật về thời tiết ở những nơi tàu bè qua lại tại các vùng biển ngoài khơi Vương quốc Anh và Bắc Ireland.

Sau đó, bạn có thể lên tiếng.

Nhưng kì thực, tôi phát hiện ra rằng dùng điện thoại di động dễ hơn thế nhiều. Mọi thứ đều thật dễ dàng ở đất nước bạn. Cạnh cái tên ANDREW có một dòng chữ đề LỰA CHỌN, và tôi bấm vào đấy. Lựa chọn 3 là XÓA, vì thế tôi bấm vào, và Andrew O’Rourke đã ra đi.

“Cám ơn cháu,” Sarah nói. “Cô quả thật không thể tự làm được.”

Cô nhìn xuống điện thoại một lúc lâu.

“Cô cảm thấy sợ chết khiếp, Ong ạ. Chẳng có ai để gọi. Andrew đôi khi rất quá quắt, nhưng chú ấy luôn rất nhạy cảm. Cô nghĩ mình thật điên rồ khi gửi Charlie thẳng trở lại nhà trẻ sau chuyện xảy ra ngày hôm qua. Nhưng cô nghĩ như thế sẽ tốt cho nó, trở lại thói quen thường ngày. Chẳng còn ai để hỏi ý kiến nữa, Ong ạ. Cháu có hiểu không? Cô không biết cô có thể làm việc này một mình được không. Phải đưa ra mọi quyết định đúng đắn cho Charlie và chính cô. Nhiều năm như thế, cháu thấy không? Hành vi phù hợp, trường học phù hợp, bạn bè phù hợp, trường đại học phù hợp, một người vợ phù hợp. Ôi, Chúa ơi, tội nghiệp Charlie.”

Tôi đặt tay lên tay cô. “Nếu cô muốn, cháu có thể đến nhà trẻ với cô,” tôi nói.

Sarah nghiêng đầu và nhìn tôi một lúc lâu. Đoạn cô mỉm cười. “Không mặc như thế được,” cô nói.

Mười phút sau, tôi rời khỏi nhà với Sarah. Tôi mặc một chiếc áo đầm mùa hè màu hồng do cô cho mượn. Đó là thứ đẹp đẽ nhất mà tôi từng khoác lên người. Quanh cổ áo đính những bông hoa trắng xinh xắn, rất tinh tế và sang trọng. Tôi cảm thấy như Nữ hoàng nước Anh. Đó là một buổi sáng đầy nắng và gió nhẹ, tôi nhảy lò cò trên vỉa hè sau lưng Sarh và mỗi khi chúng tôi đi ngang qua một con mèo hay một người đưa thư hoặc một phụ nữ đẩy xe nôi, tôi lại mỉm cười nói, Bạn có khỏe không? Tất cả họ đều nhìn tôi như thể tôi bị tâm thần, tôi chẳng biết tại sao nữa. Tôi nghĩ, Đấy không phải là cách chào đón Nữ hoàng của các người đâu nhé.

Tôi không thích nhà trẻ. Đó là một ngôi nhà to, có cửa sổ cao, nhưng những khung cửa sổ không được mở cho dù tiết trời hôm ấy thật đẹp. Bên trong, không khí thật ngột ngạt. Nó bốc mùi nhà vệ sinh và sơn áp phích, và đó chính xác là mùi của phòng trị liệu tâm lý tại trại giam nhập cư, vì thế tôi cảm thấy buồn khi hồi tưởng kí ức. Ở trại giam, họ không mở cửa sổ vì cửa sổ không mở được. Trong phòng trị liệu, họ cho chúng tôi sơn áp phích và cọ, rồi bảo chúng tôi phải thể hiện bản thân. Tôi dùng rất nhiều sơn màu đỏ.

Khi nhân viên trợ lý trị liệu nhìn vào tranh tôi vẽ, cô ta nói sẽ tốt hơn cho tôi nếu tôi tiến lên. Tôi nói, Vâng, thưa cô, đó sẽ là vinh dự cho cháu. Nếu cô chỉ cần mở một cửa sổ cho cháu, hoặc thậm chí tốt hơn nữa là một cánh cửa, thì cháu sẽ rất vui lòng tiến lên ngay lập tức. Tôi mỉm cười, nhưng người trợ lý trị liệu không nghĩ đó là câu nói đùa.

Trong nhà trẻ của Charlie, cô bảo mẫu cũng không nghĩ tôi là chuyện đùa. Tôi biết cô ấy là bảo mẫu vì cô đeo một huy hiệu trên chiếc tạp dề màu xanh lá cây có chữ BẢO MẪU. Cô ta nhìn tôi trân trối nhưng không nói chuyện với tôi, mà nói với Sarah. Cô ta nói, Tôi xin lỗi, chúng tôi không cho khách vào, đó là quy định. Đây có phải là người chăm sóc cháu bé không? Sarah nhìn tôi và rồi cô quay lại nhìn cô bảo mẫu. Cô nói, Nghe đây, chuyện này rất phức tạp, cô hiểu không? Cô bảo mẫu nhíu mày. Cuối cùng, cô ta để tôi đứng ở cửa trong lúc Sarah vào phòng và cố gắng trấn tĩnh Charlie.

Charlie tội nghiệp. Họ đã bắt nó cởi bộ trang phục Batman ra – đó là nguồn cơn sự việc. Họ bắt nó cởi ra vì nó tiểu tiện trong đó. Họ muốn nó sạch sẽ, nhưng Charlie không muốn sạch sẽ. Nó thích bốc mùi khai trong chiếc mặt nạ và áo choàng đen của mình hơn là có mùi sạch sẽ trong bộ đồ vải bông trắng họ đã mặc vào cho nó. Mặt nó đỏ au, lấm lem sơn áp phích và nước mắt nước mũi. Nó đang gào thét điên cuồng. Mỗi khi ai đó lại gần, nó lại đánh người đó, thoi vào đầu gối họ bằng nắm đấm nhỏ. Nó cắn xé, nó cào cấu, nó la hét. Nó đứng tựa lưng vào góc phòng.

Nó nhìn ra căn phòng và gào lên, KHÔNG KHÔNG KHÔNG KHÔNG KHÔNG!

Sarah đi đến chỗ nó. Cô quỳ xuống để mặt mình nằm gần mặt con. Cô nói, Ôi, con yêu. Charlie ngừng la hét. Nó nhìn Sarah. Môi dưới nó giật giật. Rồi hàm nó đanh lại. Nó rướn về mẹ nó, rồi nhổ nước bọt. Nó nói, CÚT ĐI, CON MUỐN BỐ CƠ!

Họ bắt những đứa trẻ khác ngồi khoanh chân trên sàn, ở góc xa của căn phòng. Lúc đó đang là giờ kể chuyện. Những đứa trẻ khác đang nhìn vào hướng khác với góc của Charlie, nhưng chúng cứ ngọ nguậy để nhìn qua vai bạn mình với khuôn mặt trắng bệch sợ hãi. Một người phụ nữ đang đọc truyện cho chúng. Cô ta mặc quần jeans xanh, áo khoác chui đầu màu ngọc lam và mang giày thể thao trắng. Cô đang nói, Và Max thuần hóa chúng bằng câu XOAY NGƯỜI VÀ NHÌN THẲNG, CAITLIN, bằng cách nhìn thẳng vào mắt chúng và nói, EMMA, HÃY TẬP TRUNG, JAMES, ĐỪNG THÌ THẦM NỮA, bằng cách nhìn thẳng vào mắt chúng và nói. NHÌN THẲNG NÀO, OLLIE, CHẲNG CÓ GÌ SAU LƯNG EM ĐÂU.

Sarah quỳ xuống sàn nhà và lau nước bọt của Charlie khỏi má. Cô đang khóc. Cô dang hai tay ra với Charlie. Charlie xoay lại và úp mặt vào góc. Người phụ nữ đọc truyện đang nói, Ngồi yên nào.

Tôi đi đến chỗ Sarah. Cô bảo mẫu nhìn tôi ngầm nói, Tôi đã bảo cô đứng ngoài cửa mà. Tôi nhìn lại cô ta ngầm nói, Sao cô dám? Đó là một ánh mắt lợi hại. Tôi học được từ Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhị, ở mặt sau tờ năm bảng Anh.

Cô bảo mẫu lùi lại một bước và tôi tiến đến chỗ Sarah. Tôi chạm vào vai cô.

Sarah ngước lên nhìn tôi. “Ôi, Chúa ơi,” cô nói. “Charlie đáng thương, cô không biết phải làm gì.”

“Cô thường làm gì khi nó như thế này?”

“Cô đối phó. Cô luôn luôn đối phó. Ôi, Chúa ơi, Ong ạ, cô không biết chuyện gì đang xảy ra với cô nữa. Cô đã quên cách đối phó rồi.”

Sarah lấy hai tay ôm mặt. Cô bảo mẫu dìu Sarah đi và tìm chỗ cho cô ngồi.

Tôi đi đến góc phòng với Charlie. Tôi đứng cạnh nó và cũng úp mặt vào tường. Tôi không nhìn nó, mà nhìn vào những viên gạch và không nói lời nào. Tôi rất giỏi nhìn gạch và chẳng nói gì. Trong trại giam nhập cư, tôi đã làm thế suốt hai năm, và đó là kỉ lục của tôi. Tôi nghĩ đó là điều tôi sẽ làm trong phòng học nhà trẻ đó, nếu bọn người ấy đột ngột kéo đến. Đó không phải là một căn phòng dễ dàng, thật lòng mà nói. Ví dụ như, chẳng có gì để cắt vào mình. Tất cả những cây kéo đều làm bằng nhựa và đầu của chúng được bo tròn mềm mại. Nếu tôi đột nhiên cần tự sát trong căn phòng đó, tôi không biết phải làm thế nào.

Một lúc lâu sau, Charlie ngước lên nhìn tôi. “Chị là làm gì?” Nó hỏi.

Tôi nhún vai. “Chị đang nghĩ cách trốn khỏi nơi này.”

Im lặng. Charlie thở dài. “Họ lấy bộ đồ Batman của em rồi.”

“Tại sao họ làm thế?”

“Vì là tại sao em đi tè trong đồ Batman của em.”

Tôi quỳ xuống và nhìn vào mắt Charlie. “Chúng ta đều giống nhau, em và chị. Chị từng ở hai năm trong một nơi như thế này. Họ buộc chúng ta làm những việc chúng ta không muốn. Điều đó có khiến em phát cáu không?” Charlie gật đầu.

Tôi nói, “Nó cũng khiến chị phát cáu.”

Ở sau lưng, tôi nghe thấy những học sinh còn lại của nhà trẻ đã trở lại buổi học thường lệ. Những đứa trẻ lại nói chuyện và la hét, còn những cô giáo thì giúp đỡ, cười và la mắng. Ở góc chúng tôi, Charlie nhìn xuống đất.

“Em muốn bố của em,” nó nói.

“Bố em chết rồi, Charlie. Em biết thế nghĩa là gì không?”

“Có. Là ở thiên đường.”

“Đúng rồi.”

“Thiên đường ở đâu?”

“Nó là một nơi giống thế này. Giống một cái nhà trẻ, hoặc một trại giam, hoặc một đất nước xa lạ. Chú ấy muốn về nhà với em, nhưng không được. Bố em cũng giống như bố chị vậy.”

“Ô. Bố của chị cũng chết rồi ư?”

“Phải rồi, Charlie. Bố chị chết rồi, mẹ chị chết rồi, và chị gái của chị cũng chết rồi. Họ đều chết cả rồi.”

“Tại sao?”

Tôi nhún vai. “Những kẻ xấu giết họ, Charlie ạ.”

Charlie vặn vẹo hai bàn tay rồi quỳ xuống sàn để nhặt lên một tờ giấy nháp màu đỏ. Nó xé tờ giấy, cho lên lưỡi để nếm, rồi tờ giấy dính vào ngón tay nó vì ẩm. Nó le lưỡi ra để có thể tập trung lột tờ giấy ra khỏi tay. Rồi nó ngước lên.

“Chị là buồn như em không?”

Tôi nở một nụ cười gượng gạo. “Trông chị có buồn không, Charlie?”

Charlie nhìn tôi. Tôi cù vào nách nó và nó bật cười.

“Trông chúng ta có buồn không, Charlie? Hử? Em và chị? Bây giờ chúng ta có buồn không?”

Charlie cuối cùng cũng cười và uốn éo, vì thế tôi kéo nó lại gần hơn rồi nhìn vào mắt nó. “Chúng ta sẽ không buồn đâu, Charlie à. Không phải em và chị. Nhất là không phải em, Charlie ạ, vì em là cậu bé may mắn nhất thế gian. Em biết tại sao không?”

“Tại sao?”

“Vì em có một người mẹ, Charlie ạ, và mẹ yêu em, và đấy là điều thật tuyệt, phải không nào?”

Tôi đẩy nhẹ Charlie về phía mẹ nó và nó chạy đến cô. Nó rúc mặt vào váy cô và họ ôm nhau. Sarah vừa khóc vừa cười. Cô đang nói vào tai Charlie, Charlie, Charlie, Charlie. Sau đó là tiếng của Charlie, vang lên nghèn nghẹt trên làn váy mẹ. Nó nói, Con KHÔNG PHẢI là Charlie, mẹ ơi, con là Batman.

Sarah nhìn tôi qua vai của Charlie và nói, Cảm ơn cháu, nhưng không tạo ra âm thanh nào mà chỉ mấp máy môi.

Chúng tôi đi bộ về nhà từ nhà trẻ, Charlie đung đưa trong tay chúng tôi. Ngày thật đẹp. Mặt trời nóng bỏng, không khí vo ve tiếng ong và khắp nơi tỏa ngát hương hoa.

Cạnh vỉa hè, những khu vườn trước sân của các ngôi nhà ngập tràn sắc màu êm dịu. Thật khó để không cảm thấy tràn trề hi vọng.

“Cô nghĩ cô sẽ dạy cho cháu tên của tất cả các loại hoa trong tiếng Anh,” Sarah nói. “Đây là hoa vân anh, đây là hoa hồng, đây là kim ngân. Sao nào? Cháu đang cười gì thế?”

“Ở đây chẳng có con dê nào. Nhờ vậy mà cô mới có hết những loài hoa đẹp này.”

“Ở làng cháu có dê à?”

“Vâng, và chúng ăn hết những bông hoa.”

“Cô rất tiếc.”

“Không sao đâu ạ. Chúng cháu ăn hết những con dê rồi.”

Sarah nhíu mày. “Dù thế đi nữa,” cô nói. “Cô nghĩ cô thà ăn kim ngân còn hơn.”

“Mai mốt cháu sẽ dẫn cô về quê cháu và cho cô ăn khoai mì trong một tuần, để xem khi đó cô có còn nói là cô thà ăn kim ngân chứ không ăn dê nữa không nhé.”

Sarah mỉm cười và nghiêng người ngửi mùi hoa kim ngân. Giờ tôi thấy cô lại đang khóc.

“Ôi, cô xin lỗi,” Sarah nói. “Hình như cô không nín được. Ôi, xem cô này, đụng đâu khóc đấy.”

Charlie ngước lên nhìn mẹ và tôi xoa đầu nó để bảo rằng mọi việc đều ổn. Chúng tôi lại đi tiếp. Sarah xì mũi vào khăn giấy. Cô nói, “Cháu nghĩ cô sẽ còn như thế này trong bao lâu nữa?”

“Cháu mất một năm, sau khi chúng giết chị cháu.”

“Trước khi cháu có thể suy nghĩ thông suốt trở lại?”

“Trước khi cháu có thể suy nghĩ ra hồn. Ban đầu cháu chỉ chạy, chạy, chạy – rời bỏ khỏi nơi nó xảy ra, cô biết không? Rồi là đến trại giam. Nó rất tệ. Ở trong đấy không thể nghĩ gì cho rõ ràng cả. Cô không hề phạm tội gì, vì thế cô chỉ có thể nghĩ rằng, Khi nào thì tôi mới được thả đây? Nhưng họ chẳng nói gì với cô cả. Sau một tháng, sáu tháng, cô bắt đầu nghĩ, Có lẽ mình sẽ già xọm trong này. Có lẽ mình sẽ chết rục ở đây. Có lẽ mình đã chết rồi. Trong năm đầu tiên cháu chỉ nghĩ đến việc tự kết liễu bản thân. Khi mọi người còn lại đã chết, đôi khi cô nghĩ sẽ dễ hơn nếu ta đến với họ, cô biết không? Nhưng cô phải tiến lên. Tiến lên, tiến lên, họ bảo cô. Như thể cô rất cứng đầu. Như thể cô đang nhai hoa của họ như một con dê. Tiến lên, tiến lên. Lúc năm giờ chiều, họ bảo cô tiến lên và lúc sáu giờ, họ nhốt cô lại vào phòng.”

“Họ không hề trợ giúp gì cho cháu trong đấy à?”

Tôi thở dài. “Họ cố gắng giúp cháu, cô biết không? Có một vài người tốt. Bác sĩ tâm lý, tình nguyện viên. Nhưng họ có quá nhiều việc phải làm cho chúng cháu trong đấy. Một bác sĩ tâm lý nói với cháu, Tâm lý học ở nơi này cũng giống như phục vụ một bữa ăn trên máy bay đúng vào lúc rơi máy bay vậy. Nếu cô muốn trị cho cháu, là bác sĩ, cô nên cho cháu một chiếc dù, không phải bánh mì kẹp phô mai và rau củ ngâm chua. Để tinh thần được khỏe mạnh, trước hết cô phải tự do đã, cô thấy chưa?”

Sarah chặm khăn giấy vào khóe mắt. “Cô không chắc ngoài này thì sẽ dễ dàng hơn, Ong ạ.”

“Nhưng cháu sẽ giúp cô.”

Sarah mỉm cười. “Cháu mới mười sáu tuổi. Cháu là một người tị nạn. Cháu là một trẻ mồ côi, vì Chúa. Cô là người nên giúp cháu mới phải.”

Tôi kéo vai Sarah để chặn cô lại. Tôi nắm tay trái của cô và đưa nó lên cho cô xem. Charlie đứng nhìn lên chúng tôi, mắt mở to.

“Nghe này, cô Sarah. Cô đã giúp cháu rồi còn gì. Cô đã chặt ngón tay cô vì cháu. Cô đã cứu mạng cháu.”

“Lẽ ra cô nên làm nhiều hơn. Lẽ ra cô đã có thể cứu chị của cháu rồi.”

“Như thế nào?”

“Cô có thể nghĩ ra gì đó.”

Tôi lắc đầu. “Cô đã làm hết sức rồi, cô Sarah.”

“Nhưng chúng ta lẽ ra không bao giờ rơi phải tình huống đó, Ong ạ. Cháu không hiểu sao? Bọn cô đi nghỉ mát ở một nơi mà bọn cô không có quyền đến.”

“Và nếu cô không đến đó thì sao, cô Sarah? Nếu cô và chú Andrew không đến đó, thì chị Nkiruka và cháu, chúng cháu đều đã chết cả rồi.” Tôi quay sang Charlie. “Mẹ em cứu mạng chị đấy, em biết không? Cô ấy cứu chị khỏi những kẻ xấu.”

Charlie ngước nhìn mẹ. “Như Batman à?” Nó hỏi.

Sarah mỉm cười, kiểu cười mà giờ đây tôi đã quen thuộc, với nước mắt chực rơi lần nữa. “Như Batmẹ.”

“Có phải vì thế mà mẹ là không còn một ngón tay không?”

“Vì thế mẹ đã không còn một ngón tay. Đúng vậy, con yêu.”

“Những kẻ xấu đã lấy nó đi rồi à? Chim cánh cụt à?”

“Không phải, con ạ.”

“Có phải là Puffin không?”

Sarah phì cười. “Đúng đấy con ạ, đó chính là Puffin độc ác.”

Charlie nhe răng. “Puffin hư, hư quá,” nó nói, và chạy lên phía trước chúng tôi trên vỉa hè, bắn kẻ xấu bằng cây súng mà mắt tôi không nhìn thấy. Sarah quay sang tôi.

“Chúa phù hộ cho cháu,” cô nói.

Tôi nắm chặt cánh tay cô và đặt lòng bàn tay trái của cô lên mu bàn tay trái của tôi. Tôi sắp xếp các ngón tay của tôi dưới ngón tay của cô, sao cho ngón tay duy nhất của tôi mà bạn có thể thấy được chính là ngón bị mất trên bàn tay Sarah. Tôi thấy nó trông ra sao. Tôi thấy chúng tôi có thể bắt đầu lại cuộc sống thế nào. Tôi biết nghĩ như thế thật điên rồ nhưng tim tôi đang đập thình thịch, thình thịch, thình thịch.

“Cháu sẽ giúp cô,” tôi nói. “Nếu cô muốn cháu ở lại thì chúng ta sẽ sống như thế này. Có thể cháu chỉ ở lại được một tháng, có thể chỉ một tuần. Một ngày nào đó, bọn người ấy sẽ đến. Nhưng khi cháu ở đây, cháu sẽ giống như con gái cô. Cháu sẽ yêu quý cô như thể cô là mẹ cháu và cháu sẽ yêu quý Charlie như thể nó là em trai cháu.” Sarah nhìn tôi trân trối. “Chúa ơi,” cô thốt lên.

“Có chuyện gì ạ?”

“Ồ, chỉ là trên đường về nhà từ nhà trẻ, với những bà mẹ khác, bọn cô thường nói về việc tập cho trẻ ngồi bô và các loại bánh trái.”

Tôi thả tay Sarah ra và nhìn xuống đất.

“Ôi, Ong, cô xin lỗi,” cô nói. “Chuyện này hơi đột ngột và cô có phần căng thẳng quá, thế thôi. Ruột gan cô đang rối bời. Cô cần thêm chút thời gian để suy nghĩ.”

Tôi lại ngước nhìn Sarah. Trong mắt cô, tôi thấy đây là việc mới mẻ, cảm giác không biết ngay phải làm gì. Đôi mắt cô là đôi mắt của loài sinh vật vừa mới ra đời. Trước khi nó làm quen với cuộc sống, chỉ có nỗi sợ. Tôi biết nét mặt này rất rõ. Một khi bạn đã nhìn thấy nhiều người như tôi đã thấy khi bị đẩy qua những cánh cửa của trại giam nhập cư, rất dễ nhận ra ánh mắt này. Nó khiến tôi muốn xóa nỗi đau khỏi cuộc đời Sarah càng nhanh càng tốt.

“Cháu xin lỗi, cô Sarah. Xin hãy tha lỗi cho cháu. Cháu sẽ ra đi. Cô thấy chưa? Bác sĩ tâm lý ở trại giam nói đúng, cô ấy không thể chữa gì cho cháu cả. Cháu vẫn bị điên.”

Sarah không nói gì. Cô chỉ nắm cánh tay tôi và chúng tôi đi theo Charlie xuống phố. Charlie đang chạy dọc theo vỉa hè và chặt những bông hoa hồng ở những khu vườn trước sân. Nó chặt hoa bằng những cú chặt karate. Những bông hoa rơi xuống, từng bông hoa một rơi rụng đột ngột cùng sự bùng nổ im lặng của cánh hoa. Như câu chuyện của tôi với Nkiruka, như câu chuyện của tôi với Yevette. Chân tôi nghiền nát những cánh hoa khi chúng tôi đi ngang qua chúng, và tôi nhận ra chuyện của tôi được tạo thành bằng toàn những đoạn kết.

Trở về nhà, chúng tôi ngồi trong gian bếp của Sarah. Chúng tôi lại uống trà và tôi tự hỏi không biết đấy có phải là lần cuối cùng hay không. Tôi nhắm mắt. Làng tôi, gia đình tôi, hương vị tan biến ấy. Mọi thứ đều biến mất và cạn khô thành cát hoặc sương mù. Đó là một mẹo hay.

Khi tôi mở mắt ra, Sarah đang nhìn tôi.

“Cháu biết không, Ong, cô đang nghĩ về điều cháu nói, về việc cháu ở lại. Về việc chúng ta giúp đỡ nhau. Cô nghĩ cháu nói đúng. Có thể đã đến lúc phải nghiêm túc. Có thể đây là lúc nghiêm túc.”