← Quay lại trang sách

- 6 -

Thời điểm nghiêm túc bắt đầu vào một ngày xám xịt ảm đạm ở London. Tôi không có ý định tìm kiếm chuyện nghiêm túc. Nếu thành thật mà nói, tôi cho rằng mình định tìm điều ngược lại kia. Charlie sắp được hai tuổi, và tôi đang thoát khỏi giai đoạn thu mình vào kén những ngày mới làm mẹ. Tôi mặc vừa trở lại những chiếc váy mình ưa thích. Tôi cảm thấy như đang tung cánh.

Tôi đã quyết định đi thực tế cả ngày. Dụng ý là nhắc những cô nàng biên tập viên của tôi rằng tự thân mình vẫn viết bài phóng sự được. Tôi hi vọng bằng cách truyền cảm hứng cho nhân viên dốc hết tâm huyết vào một bài báo nhỏ, quỹ nhuận bút của tôi sẽ tăng thêm một chút. Đó chỉ đơn giản là chuyện ghi chép những lời nhận xét ngắn gọn của mình vào giấy thay vì viết ngoằn ngoèo chúng trên các thùng hàng mẫu, tôi đã nhẹ nhàng bảo tòa soạn như thế.

Thật tình, tôi chỉ muốn nhân viên của mình được vui. Ở tuổi họ, tôi vẫn còn phơi phới với tấm bằng báo chí và say sưa với công việc. Vạch trần tham nhũng, phơi bày sự thật. Công việc ấy thích hợp với tôi xiết bao, giấy thông hành tuyệt đối cho phép tôi bước đến trước mặt những người làm điều xấu và chất vấn ai, cái gì, ở đâu, khi nào và tại sao? Nhưng giờ đây, đứng ở tiền sảnh trụ sở Bộ Nội vụ trên phố Marsham, chờ đến cuộc phỏng vấn lúc mười giờ, tôi chợt nhận ra mình không hề trông đợi nó. Có lẽ ở tuổi hai mươi, người ta thường tò mò về cuộc sống, nhưng bước sang tuổi ba mươi, họ chỉ đơn giản là hoài nghi về tất cả những ai vẫn còn óc tò mò. Tôi siết chặt quyển sổ ghi chép mới cáu và chiếc máy ghi âm hiệu Dictaphone, hi vọng sự lạc quan tươi trẻ của chúng sẽ truyền sang tôi.

Tôi đang phát cáu với Andrew. Tôi không thể tập trung. Tôi thậm chí trông chẳng có điểm nào giống nhà báo cả - quyển sổ gáy lò xo của tôi trắng tinh tươm. Trong khi chờ đợi, tôi bôi bẩn nó bằng những ghi chép về một cuộc phỏng vấn tưởng tượng. Những con người làm việc nhà nước lê bước qua tiền sảnh của trụ sở Bộ Nội vụ trong những đôi giày đã mòn đế, giữ thăng bằng cốc cà phê sáng trên khay đựng bằng giấy bồi. Các bà các cô núng nính trong những bộ vest công sở hiệu M&S, nọng cằm tung tẩy, vòng tay leng keng. Các anh các chú trông ủ rũ như bị chứng thiếu oxy máu do cà vạt thít chặt lấy cổ. Ai nấy đều còm lưng, hoặc hối hả, hoặc bồn chồn lo lắng. Họ lôi mình đi như những người dự báo thời tiết trên truyền hình đang chuẩn bị kéo kì vọng của người xem về kì nghỉ lễ ngân hàng[21] cuối tuần xuống.

Tôi cố gắng tập trung vào bài báo mình muốn viết. Lúc đó, thứ tôi cần là một bài báo lạc quan, một điều gì đấy tươi sáng và tích cực. Nói cách khác, một điều gì đấy hoàn toàn khác với những gì Andrew thường viết trong mục bình luận của anh trên Times. Andrew và tôi suốt ngày cãi nhau. Bài viết của anh ngày càng âm u ảm đạm. Tôi nghĩ anh đã thực sự bắt đầu tin rằng nước Anh sắp chìm xuống biển. Tội ác khắp nơi, trường học thất thế, người nhập cư tràn lan và đạo đức công chúng xuống cấp. Cứ như tất tần tật mọi thứ đều đang rò rỉ, ngổn ngang và nhoe nhoét, và tôi ghét điều đó. Giờ thì Charlie đã gần hai tuổi, tôi nghĩ mình đang nhìn vào tương lai mà con mình sẽ sống, và nhận ra rằng chửi đổng về nó có thể không phải là chiến lược mang tính xây dựng nhất. Tại sao anh lúc nào cũng bi quan chán đời như thế? Tôi hỏi Andrew. Nếu đất nước này quả thật đang đi xuống, thì sao không viết về những người đang làm gì đấy để khắc phục chuyện đó?

“Thế ư? Như ai nào?”

“À thì, như Bộ Nội vụ chẳng hạn. Dù sao họ cũng là những người ở tiền tuyến.”

“Ôi, thật là thông minh, Sarah ạ, thật đấy. Vì người dân thật sự tin vào Bộ Nội vụ, phải không nhỉ? Thế em gọi bài báo khen ngợi tử tế của em là gì?”

“Ý anh là tựa đề bài báo của em ư? Xem nào, thì là Cuộc chiến vì nước Anh, được không?”

Tôi biết mà. Andrew phá ra cười. Chúng tôi cãi nhau tóe lửa. Tôi bảo với anh cuối cùng tôi cũng làm được một điều gì đó mang tính xây dựng bằng quyển tạp chí của mình. Anh bảo tôi cuối cùng cũng thoát khỏi đối tượng độc giả quen thuộc của tạp chí. Nói cách khác là, tôi không chỉ già đi, mà mọi việc tôi đã làm trong một thập kỉ qua đều quá tầm thường. Thật đau như dao cắt. Tôi vẫn còn nổi đóa khi đặt chân đến trụ sở Bộ Nội vụ. Em vẫn luôn giữ tính cách dân Surrey, phải không nào? Đó là đòn chí mạng của Andrew. Chính xác thì em đòi hỏi Bộ Nội vụ làm gì cho đất nước thối tha này hở Sarah? Bắn nát lũ choai choai vô lại bằng máy bay khạc lửa à? Andrew có biệt tài chọc ngoáy vào vết cắt mà anh tạo ra. Đó không phải là cuộc cãi vã đầu tiên của chúng tôi từ khi Charlie chào đời, và anh luôn làm thế vào lúc cuối – lôi xuất thân của tôi ra để nói, và nó khiến tôi nổi nóng vì đó là điều duy nhất tôi không thể chịu đựng nổi.

Tôi đứng tại tiền sảnh khi những công chức phục trang lỗi mốt lướt qua xung quanh. Tôi chớp mắt, nhìn xuống giày, và nảy ra suy nghĩ lý trí đầu tiên trong ngày. Tôi nhận ra hôm nay mình bước vào cuộc đời không phải để chứng tỏ điều gì với đội ngũ biên tập viên của mình. Những biên tập viên cấp cao quay lại với công việc đưa tin không hẳn vì vài đồng nhuận bút quèn. Tôi nhận ra mình đến đấy hoàn toàn chỉ để chứng tỏ với Andrew.

Và khi Lawrence Osborn đi xuống và tự giới thiệu vào đúng mười giờ - cao ráo, tươi cười, không đẹp trai một cách lộ liễu – tôi hiểu rằng điều tôi muốn chứng tỏ với Andrew không nhất thiết phải là một bài báo.

Lawrence nhìn xuống chiếc bìa kẹp hồ sơ của anh. “Kì lạ thật,” anh nói, “họ ghi chú đây là cuộc phỏng vấn “ôn hòa” cơ mà.”

Tôi nhận ra mình đang nhìn anh đầy hằn học. Tôi đỏ mặt. “Ôi, Chúa ơi, tôi xin lỗi. Một buổi sáng tồi tệ.”

“Đừng nhắc chuyện đó. Chỉ cần nói với tôi rằng cô sẽ tử tế với tôi. Nhà báo các cô dạo này dường như cứ nhằm chúng tôi mà thịt.”

Tôi mỉm cười. “Tôi sẽ tử tế với anh. Tôi nghĩ các anh đang làm một việc phi thường.”

“A, đó là do cô chưa thấy những con số thống kê mà chúng tôi đã thấy đó thôi.”

Tôi bật cười, và Lawrence nhướn mày.

“Chắc cô nghĩ tôi đang nói đùa,” anh nói.

Giọng anh đều đều và không có gì đặc biệt. Cách phát âm không giống người từng học trường tư. Những nguyên âm của anh phát ra hơi cứng, hoặc có cảm giác hoang sơ, tựa như anh đang nỗ lực lắm. Thật khó để xác định giọng anh thuộc vùng miền nào. Anh đưa tôi đi tham quan tòa nhà một vòng. Chúng tôi ghé qua Cơ quan tịch thu tài sản phạm pháp và Cục Dữ liệu tội phạm. Không khí làm việc giống doanh nghiệp, nhưng thư giãn hơn. Giảm một ít tội ác, uống thêm một ít cà phê – có vẻ như đó là không khí chủ đạo. Chúng tôi đi dọc những gallery khác thường với thảm trải sàn bằng vật liệu tự nhiên và ngập tràn ánh sáng thiên nhiên.

“Vậy, Lawrence này,” tôi hỏi, “anh nghĩ nước Anh đang gặp vấn đề gì?”

Lawrence dừng lại và xoay sang tôi. Khuôn mặt anh bừng sáng trong tia nắng vàng ươm lọc qua lớp kính màu.

“Cô hỏi nhầm người rồi,” anh đáp. “Nếu tôi biết câu trả lời thì tôi đã khắc phục điều đó.”

“Chẳng nhẽ đấy không phải là nhiệm vụ của anh ở Bộ Nội vụ à? Khắc phục điều đó?”

“Thật tình tôi không làm việc ở một ban bệ nào cả. Họ thử bố trí tôi làm chỗ này một lúc, chỗ kia một tẹo, nhưng tôi nghĩ mình không thích lắm. Vì thế tôi mới làm ở Phòng Báo chí.”

“Nhưng chắc hẳn anh phải có quan điểm chứ?”

Lawrence thở dài. “Mọi người đều có quan điểm mà, đúng không? Có lẽ đó chính là vấn đề của đất nước này. Sao thế? Sao cô lại cười?”

“Ước gì anh nói thế với chồng tôi.”

“À. Anh ấy có nhiều quan điểm lắm, phải không?”

“Về một loạt chủ đề khác nhau.”

“Chà, có lẽ anh ấy nên làm việc ở đây. Họ thích tranh luận chính sách về những đề tài này lắm, thật đấy. Như người đầu tiên mà cô sẽ phỏng vấn chẳng hạn…” Lawrence nhìn xuống chiếc bìa kẹp hồ sơ, tìm một cái tên.

“Xin lỗi?” Tôi nói. “Tôi tưởng anh là người tôi sẽ phỏng vấn chứ.”

Lawrence ngước lên. “À, không. Tôi chỉ là người giới thiệu thôi. Tôi xin lỗi, lẽ ra tôi phải giải thích trước.”

“Ồ.”

“Thôi mà, đừng làm vẻ thất vọng thế. Tôi đã sắp xếp một ngày tốt đẹp cho cô, thật đấy. Cô có ba trưởng ban xếp hàng chờ phỏng vấn, và một Thứ trưởng thường trực rất năng động. Đảm bảo họ sẽ cung cấp cho cô nhiều hơn những gì cô cần cho bài báo.”

“Nhưng tôi thích nói chuyện với anh.”

“Cô sẽ đổi ý thôi.”

“Anh nghĩ thế à?”

Lawrence mỉm cười. Anh có mái tóc xoăn màu đen, khá bóng bẩy nhưng cắt ngắn một cách khó hiểu ở sau gáy và đoạn tóc mai. Bộ vest của anh cũng thế - là hiệu tốt, tôi nghĩ là Kenzo – rất vừa vặn với anh, nhưng cách anh mặc nó trông cứ ngượng nghịu thế nào. Anh giữ cánh tay cách xa người một đoạn – tựa như bộ vest là tấm da của một loài vật thanh lịch nào đấy, mới bị giết và chưa được xử lý đến nơi đến chốn nên máu tươi của nó khiến da anh sởn gai ốc.

“Họ không thích tôi nói chuyện với khách,” Lawrence nói. “Tôi nghĩ mình chưa đủ chuẩn để làm phát ngôn viên của Bộ Nội vụ.”

Tôi ngạc nhiên khi thấy mình bật cười. Chúng tôi đi tiếp dọc theo hành lang. Ở đâu đó giữa Cục Dữ liệu tội phạm và Phòng Pháp y, tâm trạng đã biến đổi. Người ta chạy ngang qua chúng tôi về cuối hành lang. Một đám người vây quanh màn hình ti vi. Tôi nhận thấy cách Lawrence đặt bàn tay che chở lên thắt lưng tôi khi anh hướng tôi đi qua cảnh hỗn loạn đột ngột. Có gì đó không ổn. Tôi nhận ra mình đang đi chậm lại để cảm nhận sức ép của bàn tay anh trên lưng mình.

Dòng chữ TIN NÓNG hiện lên trên màn hình ti vi. BỘ TRƯỞNG NỘI VỤ TỪ CHỨC. Ti vi phát cảnh một người đàn ông trông có vẻ mệt mỏi dắt theo con chó dẫn đường leo lên băng sau của nỗi khổ hạnh mà vào lúc đó trông vẫn còn giống một chiếc xe bộ trưởng.

Lawrence rướn đầu về phía những người đang nhìn chằm chằm vào màn hình. Anh ghé tai tôi thì thầm. “Nhìn lũ khốn này mà xem. Ông ta đang đau khổ như thế mà bọn họ đã kịp vui mừng về tương lai sự nghiệp của họ rồi.”

“Còn anh thì sao? Anh không bận tâm ư?”

Lawrence nhoẻn miệng cười. “Ôi, đó là tin xấu cho tôi,” anh thì thầm. “Với thành tích chói lọi của mình, tôi sẽ là ứng viên tiếp theo trở thành con chó dẫn đường của ông ta.”

Lawrence đưa tôi vào phòng làm việc của anh. Anh nói cần phải kiểm tra tin nhắn. Tôi rất hồi hộp, chẳng hiểu tại sao. Trên tường không hề có dấu vết gì của Lawrence – chỉ là một bức ảnh Cầu Waterloo đóng khung, loại ảnh in hàng loạt, và một sơ đồ phủ laminate chỉ những điểm tập kết trong trường hợp có hỏa hoạn. Tôi bắt gặp mình đang ngắm nghía ảnh phản chiếu của mình trên cửa sổ và rồi tự nhủ, Ôi, đừng ngốc nghếch thế. Tôi đổi trọng tâm ánh mắt cho đến khi nó dán vào một bức tường màu xám nhẵn nhụi của tòa nhà văn phòng cạnh bên. Tôi chờ đợi trong lúc Lawrence kiểm tra email.

Anh ngước lên. “Tôi xin lỗi,” anh nói. “Chúng tôi phải hẹn lại cuộc phỏng vấn của cô. Vài ngày tới ở đây sẽ hỗn loạn lắm.”

Điện thoại reo và Lawrence nghe một lúc. Anh thốt lên, “Cái gì? Không phải một người cấp cao hơn sẽ làm việc đó sao? Thật không? Ôi, hay nhỉ. Tôi có thời gian bao lâu?” Anh đặt điện thoại xuống rồi tựa đầu lên bàn. Ở hành lang ngoài phòng anh, có tiếng cười, tiếng la hét, tiếng đóng sầm cửa.

“Lũ khốn kiếp,” Lawrence nói.

“Có chuyện gì?”

“Cuộc điện thoại ấy à? Nói riêng với cô thôi nhé?”

“Dĩ nhiên.”

“Tôi phải viết một bức thư cho Bộ trưởng Nội vụ vừa từ chức, bày tỏ lòng tiếc nuối sâu sắc của sở chúng tôi trước việc ông ta ra đi.”

“Nghe họ không có vẻ tiếc nuối lắm.”

“Và nghĩ xem, nếu không có sự nhạy bén nghề nghiệp đến từng chi tiết của cô, chúng tôi sẽ không bao giờ nhận ra điều đó.”

Lawrence dụi mắt rồi quay sang màn hình máy tính. Anh đặt tay lên bàn phím, sau đó chần chừ.

“Chúa ơi!” Anh thốt lên. “Ý tôi là, cô sẽ viết gì?”

“Đừng hỏi tôi. Anh có quen ông ấy không?”

Lawrence lắc đầu. “Tôi đã đến những căn phòng ông ta từng đến, chỉ thế thôi. Ông ta là một thằng ngốc, thật sự là vậy, chỉ có điều cô không thể nói thế vì ông ta bị mù. Tôi nghĩ nhờ đó mà ông ta mới tiến xa đến vậy. Ông ta thường hơi chồm người về trước, tay nắm sợi dây cương cột chó dẫn đường. Ông ta thường chồm người như thế này này, và tay ông ta run run. Tôi nghĩ ông ta chỉ đóng kịch. Ông ta không hề run tay khi đọc chữ nổi Braille.”

“Nghe như anh cũng sẽ không nhớ ông ta nhiều lắm nhỉ.”

Lawrence nhún vai. “Tôi đã khá ngưỡng mộ ông ta. Ông ta có điểm yếu và đã chuyển nó thành thế mạnh. Một hình mẫu cho những kẻ là đồ bỏ đi như tôi.”

“Ôi,” tôi nói. “Anh lại tự ti rồi.”

“Thì sao?”

“Thì không có tác dụng chứ sao. Nghiên cứu đã chứng minh rồi. Trong các cuộc khảo sát, phụ nữ chỉ giả vờ thích thế thôi.”

“Có thể tôi chỉ đang giả vờ tự ti. Có thể tôi là người giỏi giang. Có thể việc trở thành một tay cán bộ báo chí mồm mép ở Bộ Nội vụ là đỉnh cao Everest của tôi.”

Anh nói ra những câu này mà không biến đổi sắc mặt. Anh nhìn chăm chú vào mắt tôi. Tôi chẳng biết phải nhìn đi đâu.

“Chúng ta quay lại bài báo của tôi nào,” tôi nói.

“Phải rồi, quay lại đi,” Lawrence hưởng ứng. “Vì nếu không thì chuyện này đang đi theo một hướng khác, phải không nào?”

Tôi cảm thấy adrenalin nhói lên trong ngực. Chuyện đang xảy ra vào lúc ấy, có vẻ như nó đã trượt thật khẽ ra khỏi ranh giới nào đấy. Nó đã trở thành một chuyện được thừa nhận, dù ở một hình thức tương đối còn kiểm soát được vì hai chúng tôi vẫn còn có thể lùi lại. Nó ở đây, nếu chúng tôi muốn, treo trên một cái hố căng giữa hai chúng tôi: một mối tình giữa hai người trưởng thành, nhỏ bé nhưng đã tượng hình, đã có đủ những chốn hẹn hò cấm đoán, cơn bộc phát bóp nghẹt và sự phản bội vỡ vụn, như những búp ngón tay ngón chân.

Tôi nhớ mình đã dán mắt xuống lớp thảm trải sàn trong phòng làm việc của Lawrence. Giờ đây tôi vẫn thấy được chúng, rõ mồn một đến khó tin, từng sợi tơ acrylic xám nhỏ bé, sáng lên dưới ánh đèn huỳnh quang, thô ráp, bóng và xoăn tít, khêu gợi, tục tĩu, đám lông mu xám của một cơ quan hành chính già cỗi. Tôi dán mắt vào chúng như thể chưa từng thấy thảm trải sàn bao giờ. Tôi không muốn chạm phải ánh mắt của Lawrence.

“Làm ơn,” tôi nói. “Dừng lại đi.”

Lawrence chớp mắt và nghiêng đầu, vẻ ngây thơ. “Dừng cái gì?” Anh hỏi.

Và, chỉ như thế, vào khoảnh khắc đó, nó biến mất.

Tôi lấy lại hơi thở. Phía trên chúng tôi, một bóng đèn huỳnh quang đang kêu xẹt xẹt ầm ĩ.

“Tại sao Bộ trưởng Nội vụ phải từ chức?” Tôi hỏi.

Lawrence nhướn mày. “Đừng nói cô không biết nhé. Tôi tưởng cô là nhà báo cơ đấy.”

“Không phải nhà báo chính thống. Nixie đưa tin thời sự giống như kiểu The Economist đưa tin về giày dép ấy mà. Theo kiểu tin-cần-biết.”

“Bộ trưởng Nội vụ từ chức vì đã giải quyết cấp thị thực nhanh cho vú em của nhân tình ông ta.”

“Anh tin thế à?”

“Thật ra tôi cũng chẳng quan tâm nó đúng hay sai. Nhưng tôi cảm thấy ông ta chưa bao giờ ra vẻ ngốc đến thế. Ôi, nghe họ xem.”

Ngoài phòng làm việc của Lawrence, vẫn còn tiếng cười nói la hét. Tôi nghe tiếng giấy vo viên. Tiếng chân lê trên thảm. Một viên giấy phang vào giỏ đựng rác bằng kim loại.

“Họ đang chơi bóng đá hành lang đấy,” Lawrence nói. “Họ quả là đang ăn mừng.”

“Anh nghĩ họ cài bẫy ông ta à?”

Anh thở dài. “Tôi sẽ không bao giờ biết được họ đã làm gì với ông ta, Sarah ạ. Tôi đâu có được đào tạo bài bản cho việc đó. Công việc của tôi chỉ là viết thư tạm biệt gửi đến ông ta. Cô sẽ viết gì?”

“Rất khó nếu anh không quen biết ông ta. Tôi nghĩ anh chỉ cần bám vào đại ý thôi.”

Lawrence rên rỉ. “Nhưng khoản này thì tôi dở tệ. Tôi thuộc tuýp người phải biết mình đang nói gì. Tôi không thể chỉ viết một bài diễn văn suông.”

Tôi nhìn quanh phòng làm việc của anh.

“Tôi cũng đang ở trong hoàn cảnh tương tự đây,” tôi nói. “Và dù anh có thích hay không thì hình như anh cũng đã trở thành người trả lời phỏng vấn cho tôi rồi.”

“Thì sao?”

“Thì, anh đang làm khó tôi đấy.”

“Như thế nào?”

“Ừm, anh chẳng trang trí gì cho căn phòng này cả, đúng không? Chẳng có cúp đánh golf, chẳng có ảnh gia đình, chẳng có gì cho tôi manh mối nhỏ nhất để hình dung anh là ai.”

Lawrence ngước lên nhìn tôi. “Vậy tôi đoán là cô chỉ cần bám vào đại ý thôi,” anh nói.

Tôi mỉm cười, đáp. “Hay lắm.”

“Cám ơn.”

Tôi lại cảm thấy adrenaline nhói lên.

“Anh thật sự không hợp với nơi này, đúng không?”

“Nghe này, tôi rất nghi ngờ khả năng mình còn được làm việc ở đây vào ngày mai, nếu tôi không thể nghĩ ra được ý gì mang tính vừa đánh vừa xoa để viết cho sếp cũ, trong vòng hai mươi phút nữa.”

“Vậy anh viết cái gì đi.”

“Nhưng nói thật, tôi chẳng nghĩ ra được gì.”

Tôi thở dài. “Chán thật. Anh có vẻ quá tử tế, không giống đồ bỏ đi chút nào.”

Lawrence nhoẻn miệng cười. “Chà,” anh nói, “còn cô thì đủ xinh đẹp để người ta nhìn nhầm đấy.”

Tôi nhận ra mình đang mỉm cười với anh. “Tôi có vẻ tóc vàng hoe một tí, nhỉ?”

“Hmm. Tôi nghĩ cô đang lộ chân tóc ra rồi.”

“Chà, tôi không nghĩ anh là đồ bỏ đi, nếu anh thật sự muốn biết. Tôi chỉ nghĩ anh không được vui.”

“Ô, cô nghĩ thế à? Bằng con mắt sắc lẻm rà cảm xúc của cô?”

“Vâng, tôi nghĩ vậy đấy.”

Lawrence chớp mắt rồi nhìn xuống bàn phím. Tôi nhận ra anh đang đỏ mặt.

“Ôi, xin lỗi,” tôi nói, “Chúa ơi, lẽ ra tôi không nên nói thế. Tôi lạc đề mất rồi, tôi còn chẳng biết gì về anh cơ mà, tôi thành thật xin lỗi. Tôi đã làm anh tổn thương.”

“Có thể tôi chỉ đang giả vờ yếu đuối mà thôi.”

Lawrence rút cùi chỏ về - thật ra là thu toàn bộ bản thân về, khiến anh trông có vẻ như đã rúc vào cơ thể mình trên tấm đệm màu xanh dương của ghế xoay. Anh dừng lại, rồi gõ một dòng trên máy tính. Bàn phím anh dùng là loại rẻ tiền, những con phím lỏng lẻo phát ra tiếng rít khi bị nhấn xuống. Anh ngồi bất động một lúc lâu đến nỗi tôi phải đi ra sau bàn anh để nhìn xem anh đã viết gì.

Ông đã nỗ lực hết sức và vẫn chưa kịp chứng kiến

Đó là câu văn dang dở, không giải pháp mà cũng chẳng dự báo, nằm trên màn hình máy tính. Con trỏ nhấp nháy ở cuối dòng. Ngoài đường, chập chờn tiếng còi hụ của xe cảnh sát. Anh quay sang tôi. Yên ghế kêu cót két.

“Vậy, hãy cho tôi biết một chuyện,” anh nói.

“Vâng?”

“Có phải chồng cô khiến cô không hạnh phúc?”

“Cái gì? Anh chẳng biết gì về chồng tôi cả.”

“Đó là một trong những điều đầu tiên cô nói với tôi mà. Về chồng cô và quan điểm của anh ấy. Tại sao cô lại nhắc đến anh ấy với tôi?”

“Vì ta đang nói đến đề tài đó.”

“Đề tài về chồng cô ư? Cô đưa nó ra mà.”

Tôi khựng lại, há hốc, cố gắng nhớ lại xem anh ta sai ở điểm nào. Lawrence mỉm cười, vẻ cay đắng nhưng không kém phần lém lỉnh.

“Tôi nghĩ đó là vì cô cũng không được hạnh phúc,” anh nói.

Tôi bước nhanh ra khỏi bàn anh – đến lượt tôi đỏ mặt – và đi đến cửa sổ. Tôi lăn đầu trên lớp kính mát lạnh và nhìn xuống cuộc sống thường nhật trên đường. Lawrence đến đứng sau lưng tôi.

“Vậy,” anh lên tiếng. “Bây giờ đến lượt tôi xin lỗi rồi. Tôi tưởng cô sẽ bảo rằng tôi nên để phần quan sát chi tiết cho nhà báo các cô.”

Tôi mỉm cười gượng gạo. “Anh đang viết dở câu gì đấy nhỉ?” Tôi hỏi.

“Ông đã nỗ lực hết sức và vẫn chưa kịp chứng kiến… Tôi không biết, tôi định nói, vẫn chưa kịp chứng kiến thành quả tốt đẹp mà công việc của ông sẽ đem lại, hoặc, vẫn chưa kịp chứng kiến công việc vất vả của ông sẽ đem lại những thành công gì. Đại khái là một câu để ngỏ như thế.”

“Hoặc anh có thể để nguyên như thế,” tôi nói.

“Đó là câu văn chưa hoàn chỉnh,” Lawrence đáp.

“Nhưng nó cũng hay,” tôi nói. “Nó đã đưa chúng ta tiến xa được chừng này, phải không nào?”

Con trỏ nhấp nháy và môi tôi hé ra, chúng tôi hôn nhau đắm đuối. Tôi ôm ghì lấy anh và thì thầm vào tai anh. Cuối cùng, tôi nhặt quần lót của mình từ lớp thảm xám và kéo nó lên dưới váy. Tôi vuốt phẳng áo sơ mi, còn Lawrence ngồi lại vào bàn.

Tôi nhìn qua cửa sổ vào một thế giới khác với thế giới mà tôi đã bỏ lại ngoài đấy.

“Em chưa làm thế bao giờ,” tôi nói.

“Ừ, anh biết,” Lawrence nói. “Anh sẽ ghi nhớ điều đó.”

Anh nhìn vào màn hình suốt một phút với câu văn dang dở và rồi, với vết son của tôi vẫn còn vương trên môi, anh đặt dấu chấm câu. Ông đã nỗ lực hết sức và vẫn chưa kịp chứng kiến. Hai mươi phút sau, lá thư được chuyển mã thành chữ nổi Braille và gửi đến hộp thư của ông ta. Các đồng nghiệp của Lawrence thậm chí chẳng buồn đọc lại.

Andrew gọi. Điện thoại tôi vang lên trong phòng của Lawrence và tôi sẽ không bao giờ quên điều đầu tiên Andrew nói: “Tin hay sốt dẻo, Sarah ơi. Chuyện này sẽ được đưa tin đậm trong nhiều tuần. Họ đã giao cho anh viết bài phóng sự dài kì về sự ra đi của Bộ trưởng Nội vụ. Đây là cả một mỏ vàng, Sarah ạ. Họ đã giao cho anh một nhóm thu thập thông tin. Nhưng anh phải túc trực ở tòa soạn cho đề tài này. Em sẽ trông Charlie được mà, phải không?” Tôi tắt máy, rất nhẹ nhàng. Như thế đơn giản hơn phải tuyên bố với anh về sự thay đổi trong cuộc sống của chúng tôi. Như thế dễ dàng hơn phải giải thích với anh: cuộc hôn nhân của chúng tôi vừa bị trọng thương thập tử nhất sinh, một cách tình cờ, vì một loạt đạn nhằm vào một người mù.

Tôi đặt điện thoại xuống và nhìn Lawrence. “Em rất muốn gặp lại anh,” tôi nói.

Mối quan hệ của chúng tôi thuộc dạng ngoại tình công sở. Chuyện tình bữa trưa dài trong chiếc váy ngắn. Chuyện tình buổi chiều trốn việc trong khách sạn đẹp đẽ. Thỉnh thoảng có cả buổi tối. Andrew phải thức trắng đêm ở tòa soạn, và chỉ cần tôi tìm được người trông trẻ, Lawrence và tôi có thể làm gì tùy thích. Thỉnh thoảng trong một buổi ăn trưa kéo dài đến gần giờ trà chiều, với cốc rượu vang trắng trong tay và Lawrence nằm trần truồng cạnh bên, tôi nghĩ đến tất cả những nhà báo không được người hướng dẫn tham quan, tất cả những buổi điểm tâm gặp-gỡ-báo-chí chưa được sắp xếp, và tất cả những thông cáo báo chí đang chờ đợi trên máy tính của Lawrence với con trỏ nhấp nháy cuối câu kết dang dở. Mục tiêu mới này thể hiện một bước tiến quan trọng nữa trong chương trình đang diễn ra của chính phủ về

Phát bữa ăn trong lúc máy bay rơi. Mối tình của chúng tôi là thế. Lawrence và tôi bỏ trốn khỏi những bi kịch của bản thân để chạy trốn vào bi kịch của nhau, và trong sáu tháng, nước Anh trở nên ngày càng chậm chạp trong giờ công sở bình thường. Tôi ước gì mình có thể nói mọi chuyện chỉ có thế. Chẳng có gì nghiêm túc. Chẳng có gì sướt mướt. Chỉ là một sự gián đoạn nhẹ nhàng. Một con trỏ ngắn gọn, nhấp nháy trước khi câu chuyện cũ của chúng tôi trở lại.

Nhưng nó đã rất tuyệt diệu. Tôi trao trọn bản thân cho Lawrence theo cách mà tôi không bao giờ làm với Andrew. Nó xảy đến rất dễ dàng, tôi chẳng cần nỗ lực gì. Tôi khóc khi chúng tôi làm tình. Nước mắt tự nhiên rơi; không phải tôi đóng kịch. Tôi ôm anh đến khi hai tay đau buốt và tôi cảm thấy cơn đau mãnh liệt trong những dịu dàng. Tôi không bao giờ để anh biết. Tôi cũng không bao giờ để anh biết rằng tôi xem trộm điện thoại Blackberry của anh, đọc email của anh, đọc suy nghĩ của anh trong lúc anh ngủ. Khi bắt đầu mối tình này, tôi nghĩ nó có thể xảy ra với bất kì ai. Nó là mối tình không thể tránh khỏi, không phải vì người đàn ông cụ thể nào. Nhưng dần dần, tôi bắt đầu yêu Lawrence thiết tha. Tôi bắt đầu nhận ra rằng ngoại tình là một sự vượt rào tương đối bình thường. Nhưng để thực sự thoát khỏi Andrew, thực sự trở thành chính mình, tôi phải làm mọi cách và phải yêu thật lòng. Và một lần nữa, tôi không cần phải cố gắng để yêu Lawrence. Tôi chỉ cần cho phép bản thân mình sa ngã. Chuyện này khá an toàn, tôi tự nhủ: tâm lý được chuẩn bị để tiếp nhận cú sốc của những sự trượt ngã như thế.

Tôi vẫn khóc khi chúng tôi làm tình, nhưng giờ đây tôi cũng khóc khi chúng tôi không thể ở bên nhau.

Phải che giấu mối quan hệ này đã trở thành nguồn cơn khiến tôi lo lắng. Tôi giấu nhẹm những lần vụng trộm này với Andrew, đương nhiên, và tôi cố gắng không bao giờ nhắc đến Andrew hay công việc của anh khi ở bên Lawrence, đề phòng anh trở nên tò mò muốn biết. Tôi dựng tường rào cao quanh mối quan hệ này. Trong đầu, tôi tuyên bố nó là một quốc gia khác và không ngừng canh phòng biên giới.

Khó giấu diếm hơn là sự thay đổi không thể chối cãi trong tôi. Tôi cảm thấy tuyệt vời. Tôi chưa bao giờ cảm thấy tự nhiên, thoải mái, và được sống thật với mình đến thế. Da tôi bắt đầu tỏa sáng. Nó rõ ràng đến độ tôi phải dùng phấn nền để che giấu, nhưng chẳng có tác dụng: tôi chỉ đơn giản là rạng ngời niềm hạnh phúc yêu đời. Tôi bắt đầu tiệc tùng trở lại, vì đã không chơi bời gì kể từ lúc đôi mươi. Lawrence dẫn tôi đến tất cả các sự kiện của Bộ Nội vụ. Tân Bộ trưởng Nội vụ thích gặp gỡ báo chí, để kể với họ trong lúc dùng thức ăn nhẹ về việc ông ta sẽ cứng rắn thế nào. Những buổi dạ hội tiếp diễn miên man, và sau đó luôn có những tiết mục khác. Tôi gặp những con người mới. Diễn viên, họa sĩ, doanh nhân. Tôi cảm thấy niềm hưng phấn đến run người mà tôi chưa từng cảm nhận từ trước khi gặp Andrew – cơn phấn khích khi nhận ra mình hấp dẫn, khi biết bản thân mình có sức hút khó cưỡng, khi ngà ngà say rượu champagne và nhìn vào những gương mặt rạng ngời, tươi cười xung quanh và cười khúc khích khi tôi nhận ra rằng bỗng nhiên chuyện gì cũng có thể xảy ra.

Vì thế lẽ ra tôi không nên bất ngờ khi có chuyện xảy đến. Như một điều tất yếu, tại một buổi tiệc, tôi chạm trán chồng mình, phờ phạc và mắt đỏ ngầu, đến từ tòa soạn. Andrew ghét tiệc tùng – tôi đoán anh chỉ đến đấy để tìm hiểu thông tin. Lawrence thậm chí còn giới thiệu chúng tôi với nhau. Căn phòng chật cứng người. Âm nhạc – âm nhạc hàng đầu của Anh – một ban nhạc nào đấy nổi đình nổi đám trên internet. Lawrence, cười tươi, ửng đỏ vì champagne, tay liều lĩnh đặt trên thắt lưng tôi.

“Ô, xin chào! Xin chào! Andrew O’Rourke, đây là Sarah Summers. Sarah làm biên tập ở Nixie. Andrew là cây bút bình luận của tờ The Times, cây bút xuất sắc, quan điểm mạnh mẽ. Chắc chắn hai người sẽ hợp nhau cho mà xem.”

“Linh mục cũng nói thế,” Andrew nói.

“Xin lỗi?”

“Ông ấy tin chắc chúng tôi sẽ hợp nhau. Khi ông ấy làm lễ cưới cho chúng tôi.”

Andrew, vẻ dửng dưng, như mỉm cười. Lawrence – Lawrence đáng thương – nhanh chóng rút tay khỏi lưng tôi. Andrew nhận thấy. Andrew bỗng không cười nữa.

“Anh không biết em đến đây đấy, Sarah ạ.”

“Vâng. Em. Ồ. Đột xuất thôi. Tạp chí… anh biết đấy.”

Cơ thể phản bội tôi, đỏ lựng từ đầu đến chân. Tuổi thơ tôi, phần Surrey trong tôi, bị đánh thức và muốn trả thù, vẽ lại những đường biên thôn quê để thôn tính cuộc sống mới của tôi. Tôi nhìn xuống giày. Tôi ngước lên. Andrew vẫn ở đó, bất động, im phăng phắc – mọi quan điểm, trong chốc lát, biến mất khỏi đầu óc anh.

Tối hôm đó chúng tôi đứng trên nền móng cuối khu vườn, nơi Andrew định xây một cái nhà kính, và nói về việc cứu vãn cuộc hôn nhân của chúng tôi. Chỉ có câu chữ gây đau đớn. Mọi điều Andrew nói đều giống như bài bình luận trên tờ Times của anh, còn mọi điều tôi nói đều có thể được rút ra từ trang báo uất ức trên tạp chí của tôi.

“Từ lúc nào chúng ta quên đi rằng hôn nhân là sự cam kết cả đời?”

“Em chỉ cảm thấy quá thiếu thốn, quá dồn nén.”

“Hạnh phúc đâu phải là món ta có thể cầm lên từ kệ hàng, nó là điều chúng ta phải nỗ lực để đạt được.”

“Anh đã bắt nạt em. Em không bao giờ cảm thấy được yêu thương hay ủng hộ.”

“Niềm tin ở người trưởng thành là điều khó đạt được, là thứ dễ vỡ, rất khó xây dựng lại.”

Nó giống một cuộc nói chuyện thì ít, mà giống một bài viết bị trộn lẫn lúc được in ra thì nhiều. Nó chỉ chấm dứt khi tôi ném chậu hoa vào Andrew. Chậu hoa trượt qua vai anh rồi vỡ tan tành trên nền xi măng, Andrew giật nảy mình và bỏ đi. Anh lấy xe đi biền biệt suốt sáu ngày. Sau này tôi mới biết anh bay về Ireland để uống say bí tỉ với anh trai mình.

Charlie bắt đầu đi nhà trẻ vào tuần đó, và Andrew đã không có mặt cho sự kiện này. Tôi làm một chiếc bánh để đánh dấu cột mốc này cho Charlie, lủi thủi trong nhà bếp vào một buổi tối. Tôi không quen ở nhà một mình. Khi Charlie ngủ rồi, căn nhà rất im ắng. Tôi có thể nghe tiếng chim hoét đen hót trong ánh chạng vạng. Thật dễ chịu, không có những lời kêu ca phàn nàn và bình luận chính trị của Andrew. Như nốt trầm của kèn túi, ta không nhận ra nó được chơi cho đến khi nó ngừng hẳn, và rồi sự im lặng trỗi lên thành một vật có thể sờ mó được: một sự im lặng tuyệt đối.

Tôi nhớ mình vừa rải kẹo chocolate Smarties màu vàng lên lớp phủ trang trí vừa nghe chương trình Quyển sách trong tuần trên Radio 4, và bỗng dưng cảm thấy lòng dạ rối bời đến nỗi òa khóc. Tôi nhìn chiếc bánh của mình: ba lớp chuối, với những vụn chuối khô và lớp phủ chuối. Lúc này vẫn còn hai năm nữa mới đến mùa hè Batman của Charlie. Vào năm hai tuổi, thứ Charlie yêu thích nhất trần đời là chuối. Tôi nhớ mình nhìn chiếc bánh đó và nghĩ: Mình thích được làm mẹ của Charlie. Giờ đây cho dù chuyện gì xảy ra chăng nữa, đó là điều duy nhất khiến mình thấy tự hào.

Tôi dán mắt vào chiếc bánh nằm trên vỉ hong bánh đặt trên mặt bàn.

Điện thoại reo.

Lawrence hỏi, “Anh đến được không?”

“Cái gì, bây giờ á? Đến nhà em à?”

“Em nói Andrew không có ở nhà.”

Tôi run rẩy. “Ôi Chúa ơi. Ý em là… anh còn không biết em sống ở đâu.”

“Vậy thì, em sống ở đâu?”

“Em ở Kingston.”

“Bốn mươi phút nữa anh đến.”

“Không, Lawrence… không.”

“Nhưng tại sao chứ? Sẽ không ai biết được đâu, Sarah à.”

“Em biết nhưng… đợi đã, làm ơn, để em suy nghĩ đã.”

Anh chờ đợi. Trên radio, người dẫn chương trình đang hứa hẹn những tiết mục hấp dẫn trong chương trình kì sau. Dường như có rất nhiều ngộ nhận về hệ thống tín dụng thuế, và chương trình của họ sẽ làm sáng tỏ một số ngộ nhận đó. Tôi bấm móng tay vào lòng bàn tay không cầm điện thoại và tuyệt vọng đấu tranh trước phần nào đó trong người mình đang lý luận rằng: một buổi tối trên giường với Lawrence và một chai Pouilly-Fumé có lẽ sẽ thú vị hơn Radio 4.

“Không, em xin lỗi. Em không thể để anh đến nhà em được.”

“Nhưng tại sao lại không?”

“Vì nhà em là em, Lawrence ạ. Nhà anh là gia đình anh, còn nhà em là gia đình em, và ngày anh tìm đến nhà em sẽ là ngày cuộc sống của chúng ta rối rắm hơn những gì em sẵn sàng đương đầu.”

Tôi đặt điện thoại xuống. Tôi đứng yên một lúc, nhìn vào điện thoại. Tôi làm thế là để bảo vệ Charlie, giữ khoảng cách giữa tôi và Lawrence. Đó là một việc làm đúng đắn. Sự việc đã đủ phức tạp rồi. Nó là việc mà tôi không bao giờ có thể giải thích với mẹ tôi, tôi đoán thế: rằng có những tình huống chúng ta sẽ cho phép người đàn ông bước vào cơ thể mình, nhưng không được vào nhà mình. Cơ thể tôi vẫn còn đau đớn trước âm thanh giọng nói của Lawrence, và nỗi chán chường trỗi lên trong tôi đến khi tôi cầm điện thoại lên và đập nát nó, nện liên tục xuống chiếc bánh đã được phủ kem hoàn hảo của tôi. Khi chiếc bánh đã nát như tương, tôi hít một hơi sâu, bật lò nướng lên, và bắt tay vào làm một chiếc khác.

Ngày hôm sau – ngày đầu tiên Charlie đi nhà trẻ - chuyến tàu của tôi bị hủy, vì thế tôi muộn giờ đến đón con từ chỗ làm. Charlie khóc như mưa khi tôi đến nơi. Nó là đứa bé cuối cùng ở đó, gào khóc ngay giữa sàn nhà trát sáp ong, thoi nắm đấm bé xíu vào chân cô bảo mẫu. Khi tôi đến gần, nó không thèm nhìn tôi. Tôi đẩy nó lên xe về nhà, đặt nó ngồi xuống bàn, hạ ánh sáng đèn, rồi đem vào chiếc bánh chuối với hai mươi ngọn nến lung linh. Charlie quên mất nó đang dỗi và nhoẻn miệng cười. Tôi hôn Charlie, và giúp con thổi nến.

“Con ước đi!” Tôi nói.

Mặt Charlie lại xụ xuống. “Muốn Bố cơ,” nó nói.

“Thế à, Charlie? Con muốn bố thật sao?”

Charlie gật đầu. Môi dưới nó giật giật, và trái tim tôi cũng run run theo nó. Sau khi ăn bánh, nó rời khỏi chiếc ghế cao và đi lẫm chẫm đến chơi với những chiếc xe hơi đồ chơi. Một dáng đi kì lạ, chập chững. Thật ra có phần chệnh choạng – con trai tôi ở tuổi lên hai – mỗi bước đi là một sự ngẫu hứng vội vã, không ngã vừa nhờ may mắn, vừa nhờ óc phán đoán. Một cuộc đời trên đôi chân ngắn.

Sau đó, khi Charlie đã nằm gọn trên giường, tôi gọi điện cho chồng.

“Charlie muốn anh quay về, Andrew ạ.” Im lặng.

“Andrew?”

“Charlie muốn, phải không?”

“Phải.”

“Còn cô thì sao? Cô có muốn tôi quay về không?”

“Em muốn những gì Charlie muốn.”

Giọng cười của Andrew ở đầu dây bên kia – cay đắng, chế giễu. “Cô đúng là biết cách làm cho người khác cảm thấy họ trở nên đặc biệt đấy.”

“Làm ơn đi. Em biết em đã làm tổn thương anh rất nhiều. Nhưng mọi việc đã khác rồi.”

“Cô nói đúng, mọi việc sẽ khác.”

“Em không thể nuôi con của chúng ta một mình, Andrew ạ.”

“Còn tôi thì không thể nuôi con trai mình với một người mẹ dâm đãng.”

Tôi siết chặt điện thoại, cảm thấy cơn giận dữ trỗi lên trong người. Andrew thậm chí chẳng lên giọng. Một người mẹ dâm đãng. Lạnh lùng, kĩ thuật, như thể anh cũng đã cân nhắc đến những từ con đàn bà hư hỏng, bị cắm sừng và kẻ ích kỉ trước khi lựa chọn chính xác danh từ thích hợp nhất. Tôi cố gắng kiểm soát giọng nói của mình nhưng nghe được sự run rẩy trong đó.

“Làm ơn đi, Andrew. Chúng ta đang nói đến anh, em và Charlie đấy. Em quan tâm đến cả hai người rất nhiều, anh không hình dung được đâu. Chuyện em làm với Lawrence… em thành thật xin lỗi.”

“Tại sao cô làm thế?”

“Nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Chỉ là vì sex thôi.” Lời nói dối buột khỏi miệng tôi dễ dàng đến nỗi tôi nhận ra tại sao nó lại thường được người ta viện đến như một cái cớ.

“Chỉ vì sex thôi à? Bây giờ nó đã trở thành thông lệ rồi, phải không? Sex đã trở thành từ cô có thể đặt ngay phía trước. Còn chuyện gì khác cô muốn nói nhẹ đi vào lúc này không, Sarah? Chỉ thiếu chung thủy? Chỉ phản bội? Chỉ làm tan nát trái tim tôi?”

“Thôi đi, làm ơn, thôi đi! Em có thể làm gì? Em có thể làm gì để sửa chữa sai lầm?”

Andrew nói anh không biết. Andrew khóc trong điện thoại. Đây là hai điều anh chưa bao giờ làm. Không biết, và khóc. Nghe Andrew khóc trên đường dây điện thoại đứt quãng, tôi cũng khóc theo. Khi cả hai đã nín, chỉ có im lặng. Và sự im lặng này mang một ý nghĩa mới: rằng cuối cùng, vẫn còn lại điều gì đó khiến chúng tôi khóc. Sự nhận thức này treo lơ lửng trên đường dây điện thoại. Ngập ngừng, như một cuộc đời chờ được viết ra.

“Làm ơn đi, Andrew. Có lẽ chúng ta cần một sự thay đổi hoàn cảnh. Một sự khởi đầu mới.”

Im lặng. Anh hắng giọng. “Ừ. Cũng được.”

“Chúng ta cần phải tránh xa mọi chuyện. Chúng ta cần đi khỏi London, khỏi công việc chúng ta, và khỏi cả Charlie nữa – chúng ta có thể gửi nó cho bố mẹ em vài ngày. Chúng ta cần một kì nghỉ.”

Andrew rên rỉ. “Ôi, Chúa ơi. Một kì nghỉ?”

“Đúng. Andrew. Làm ơn đi.”

“Chúa ơi. Được thôi. Ở đâu?”

Ngày hôm sau, tôi gọi lại cho anh.

“Em được vé miễn phí Andrew ạ – Bãi biển Ibeno ở Nigeria, vé máy bay không giới hạn. Chúng ta có thể đi vào thứ Sáu.”

“Thứ Sáu tuần này ư?”

“Anh có thể nộp bài trước khi chúng ta đi, và anh sẽ quay về kịp lúc cho số tiếp theo.”

“Nhưng châu Phi ư?”

“Ở đó có một bãi biển, Andrew à. Ở đây đang mưa, trong khi ở đấy đang là mùa khô. Thôi nào, hãy đi hưởng chút nắng trời.”

“Nhưng mà là Nigeria ư? Tại sao không phải là Ibiza, hay Canaries?”

“Đừng chán phèo thế, Andrew. Dù sao thì nó cũng chỉ là một kì nghỉ ở miền biển thôi mà. Xem nào, nó có thể tồi tệ thế nào chứ?”

Những thời điểm trọng đại. Khi đã đến, chúng sẽ lởn vởn trên đầu bạn như đám mây tích bay là đà. Đó là tình cảnh giữa tôi và Andrew, sau khi chúng tôi trở về từ châu Phi. Choáng váng, sau đó là trách móc lẫn nhau, rồi hai năm trầm cảm ngày một nặng của Andrew, rồi mối tình tiếp diễn với Lawrence mà tôi dường như không thể nào dừng lại.

Tôi nghĩ có lẽ mình cũng bị trầm cảm, suốt khoảng thời gian đó. Bạn đi đến chỗ này, đi đến chỗ kia, cố gắng thoát khỏi đám mây, nhưng chẳng có tác dụng gì, và rồi một ngày bạn nhận ra đã đem theo thời tiết đi khắp nơi với mình. Tôi đang giải thích với Ong Nhỏ như thế vào buổi chiều cô bé đi cùng tôi để đón Batman từ nhà trẻ về. Tôi ngồi cạnh cô bé, uống trà tại bàn ăn.

“Cháu biết không, Ong, cô đang nghĩ về điều cháu nói, về việc ở lại. Về việc chúng ta giúp nhau. Cô nghĩ cháu nói đúng. Cô nghĩ cả hai chúng ta đều cần tiến lên.”

Ong Nhỏ gật đầu. Dưới bàn, Batman đang chơi với tượng Batman. Có vẻ như Batman nhỏ đang dính vào một cuộc chiến tuyệt vọng với một bát bánh bột ngô nướng ăn dở. Tôi bắt đầu giải thích với Ong Nhỏ cách giúp cô bé.

“Việc đầu tiên cô sẽ làm là tìm ra nhân viên xã hội phụ trách trường hợp của cháu – ôi, Charlie, thức ăn không phải đồ chơi – tìm ra nhân viên xã hội phụ trách trường hợp của cháu và tìm xem hồ sơ của cháu giữ ở đâu. Sau đó chúng ta có thể - làm ơn đi, Charlie, đừng làm bánh bột ngô văng tứ tung, đừng để mẹ phải nhắc con lần nữa – rồi sau đó chúng ta có thể xem xét tư cách pháp lý của cháu, tìm hiểu xem liệu chúng ta có thể xin phúc thẩm không, đại loại thế. Cô đã tìm hiểu việc này trên mạng và có vẻ như – Charlie! Làm ơn đi con! Nếu mẹ phải nhặt chiếc thìa lên một lần nữa, mẹ sẽ tịch thu tượng Batman của con đấy – có vẻ như chúng ta có thể xin thẻ tạm trú cho cháu, cô có thể thu xếp để cháu đi thi quốc tịch Anh, đề thi rất dễ, thật đấy – Charlie! Vì Chúa! Thôi, đủ rồi đấy. Đi ra ngoài. Đi ngay! Ra khỏi nhà bếp, khi nào chịu ngoan ngoãn thì quay lại – câu hỏi rất đơn giản về các ông vua bà hoàng và nội chiến Anh và đại loại thế, và cô sẽ giúp cháu ôn bài, rồi sau đó – ôi, Charlie, ôi, Chúa ơi, mẹ xin lỗi, mẹ không cố ý làm con khóc đâu. Mẹ xin lỗi, Batman. Mẹ thành thật xin lỗi. Lại đây nào.”

Batman vùng vằng khỏi tay tôi. Đôi môi nó giật giật, khuôn mặt đỏ phừng phừng, và nó khóc ré lên, phó thác bản thân cho nỗi buồn theo cách chỉ có trẻ sơ sinh và siêu anh hùng mới làm được – cách biết rằng nỗi khổ sở là vô đáy và không thể nào nguôi – cách thành thật ấy. Ong Nhỏ xoa đầu Batman, và nó dụi khuôn mặt đeo mặt nạ vào chân cô bé. Tôi nhìn chiếc áo choàng dơi nhỏ bé của nó rung lên khi nó nức nở.

“Ôi, Chúa ơi, Ong,” tôi nói. “Cô xin lỗi, lúc này cô thật là tệ hại.”

Ong Nhỏ mỉm cười. “Không sao đâu, cô Sarah, không sao đâu.”

Vòi nước trong nhà bếp nhỏ giọt. Để có việc mà làm, tôi đứng dậy, đi đến khóa vòi, nhưng nước vẫn nhỏ giọt xuống. Tôi không hiểu tại sao điều đó lại khiến tôi bực tức đến thế.

“Ôi, Ong ơi,” tôi nói. “Chúng ta phải siết lại, cả hai chúng ta. Chúng ta không thể để mình trở thành những kẻ may nhờ rủi chịu.”

Sau đó, có tiếng gõ cửa. Tôi xốc lại bản thân rồi đi băng qua ngôi nhà. Tôi mở cửa và gặp Lawrence, ăn mặc chỉnh tề, túi du lịch đeo trên vai. Tôi thấy sự thở phào nhẹ nhõm, nụ cười ngượng ngùng trên mặt anh khi gặp tôi.

“Anh không biết mình có đến đúng địa chỉ không nữa,” anh nói.

“Em không chắc là anh đã đến đúng.”

Nụ cười của anh vụt tắt. “Anh tưởng em sẽ vui.”

“Em chỉ mới chôn cất chồng mình. Chúng ta không thể làm thế này. Còn vợ anh thì sao?”

Lawrence nhún vai. “Anh bảo Linda anh đi học một khóa quản lý,” anh nói. “Ở Birmingham. Ba ngày. Kĩ năng lãnh đạo.”

“Anh nghĩ chị ấy tin anh ư?”

“Anh chỉ nghĩ: có thể em cần được an ủi.”

“Cám ơn anh,” tôi đáp. “Em đã có rồi.”

Anh nhìn qua vai tôi và thấy Ong Nhỏ đang đứng ở lối đi. “Là nó, phải không?”

“Cô bé sẽ ở đây đến khi nào nó muốn.”

Lawrence hạ giọng. “Nó có hợp pháp không?”

“Em cóc quan tâm chuyện đó. Anh thì sao?”

“Anh làm việc cho Bộ Nội vụ, Sarah ạ. Anh có thể mất việc nếu anh biết em đang chứa chấp một người nhập cư chui mà anh chẳng phản ứng gì. Về nguyên tắc, nếu anh còn nghi ngờ dẫu chỉ một chút, thì anh có thể bị sa thải ngay khi vừa bước qua cánh cửa này.”

“Vậy thì… ừm… đừng bước.”

Lawrence đỏ mặt, lùi lại một bước và lấy tay gãi đầu.

“Chuyện này cũng chẳng dễ chịu đối với anh, Sarah ạ.

Anh không thích cảm giác anh có về em. Sẽ tốt biết bao nếu anh yêu vợ mình và sẽ tuyệt biết bao nếu anh không làm việc cho thế lực xấu xa. Anh ước gì anh lý tưởng được như em. Nhưng đó không phải là anh, Sarah ạ. Anh không thể hành động như thể anh là một người nào khác. Anh chẳng là cái đinh gì cả. Ngay cả câu chuyện bịa đặt của anh cũng chẳng là gì. Ba ngày ở Birmingham – Birmingham, mẹ kiếp! Cho một khóa tập huấn để học điều mà mọi người đều công nhận rằng anh không có khả năng. Thật hợp lý đến mức bi kịch, phải vậy không? Anh đã nghĩ như thế, ngay cả khi anh bịa ra nó. Anh không xấu hổ về chuyện ngoại tình của mình, Sarah ạ. Anh xấu hổ về câu chuyện bịa đặt khốn nạn của mình.”

Tôi mỉm cười. “Hình như em vẫn còn nhớ tại sao em thích anh. Không ai có thể cáo buộc anh tội tự cao tự đại, phải không?”

Lawrence phồng má rồi phì hơi ra, vẻ buồn bã. “Để có đầy đủ chứng cứ thì không,” anh nói.

Tôi lưỡng lự. Anh tiến đến và nắm tay tôi. Tôi nhắm mắt lại và cảm thấy mọi quyết tâm rút hết ra khỏi cơ thể mình, chảy qua làn da lạnh giá của anh. Tôi bước lùi một bước vào nhà. Tôi suýt lảo đảo, thật thế. “Vậy em có cho anh vào nhà không nào?”

“Đừng vội quen với việc đó,” tôi nói.

Lawrence nhoẻn miệng cười, nhưng rồi sau đó anh ngập ngừng ở ngưỡng cửa. Anh nhìn Ong Nhỏ. Cô bé đi đến đứng ngay sau lưng tôi.

“Đừng lo về cháu,” cô bé nói. “Chính thức thì chú không thể thấy cháu được. Chú ở Birmingham, còn cháu ở Nigeria mà.”

Lawrence cười mỉm. “Chú tự hỏi ai trong chúng ta sẽ bị phát hiện trước,” anh nói.

Chúng tôi đi qua lối vào phòng khách. Batman đang gắn chiếc xe chữa cháy màu đỏ của nó vào bên hông phòng khách của một gia đình đang cầu cứu. (Trong thế giới của Charlie, tôi nghĩ nhân viên các dịch vụ khẩn cấp đều là thành phần cách mạng.) Nó ngước lên khi chúng tôi đi vào.

“Batman, đây là chú Lawrence. Chú Lawrence là bạn của mẹ.”

Batman đứng dậy rồi đi đến phía Lawrence. Nó dán mắt nhìn anh. Giác quan dơi hẳn đã mách bảo nó điều gì.

“Chú thì là bố mới của cháu hả?” Nó hỏi.

“Không, không, không,” tôi đáp.

Charlie trông có vẻ bối rối. Lawrence quỳ xuống để mặt anh ngang với mặt nó. “Không, Batman ạ, chú chỉ là bạn của mẹ thôi.”

Batman nghiêng đầu. Đôi tai trên chiếc mũ trùm dơi ngả sang bên. “Chú thì là người tốt hay người xấu?” Nó nói chậm rãi.

Lawrence nhoẻn miệng cười và đứng dậy. “Nói thật ư, Batman? Chú nghĩ chú là một người qua đường vô tội mà cháu thấy làm nền trong truyện tranh. Chú chỉ là một người trong đám đông thôi.”

“Nhưng chú thì là người tốt hay người xấu?”

“Đương nhiên chú ấy là người tốt rồi,” tôi nói. “Thôi nào, Charlie. Chẳng lẽ con nghĩ mẹ sẽ để người xấu vào nhà sao?”

Batman khoanh tay lại và mím môi. Không ai nói gì. Bên ngoài vọng lên tiếng các bà mẹ gọi con từ vườn vào nhà để uống trà tối.

Sau đó, khi đã đưa Charlie đi ngủ, tôi làm bữa tối trong lúc Lawrence và Ong Nhỏ ngồi ở bàn ăn. Mò mẫm sau tủ để tìm thêm tiêu cho vào lọ, tôi thấy một gói bánh quy amaretto mà Andrew từng thích ăn, nay còn một nửa. Tôi ngửi chúng, một cách bí mật, đưa gói bánh lên sát mũi, lưng xoay về Lawrence và Ong Nhỏ. Mùi quả mơ và hạnh nhân phát ốm xộc thẳng lên – nó khiến tôi nghĩ đến hình ảnh Andrew đi lững thững quanh nhà trong những đêm mất ngủ. Anh thường quay lại giường khi đã muộn với mùi đó trong hơi thở. Đến phút cuối, thứ duy nhất giúp chồng tôi tồn tại là sáu chiếc bánh quy amaretto và một viên Cipralex[22] mỗi ngày.

Tôi cầm gói bánh quy của Andrew trên tay. Tôi nghĩ đến việc vứt nó đi, và nhận ra mình không thể. Nỗi buồn cũng thật là hai mặt, tôi thầm nghĩ. Tôi đang đứng đấy, yếu lòng đến nỗi không thể ném đi thứ đã cho Andrew chút an ủi, thậm chí trong lúc tôi đang nấu bữa tối cho Lawrence. Đột nhiên tôi cảm thấy mình bội bạc kinh khủng. Đây chính xác là lý do tại sao không nên để tình nhân bước vào nhà mình, tôi nghĩ.

Khi bữa tối đã làm xong – món trứng rán nấm, bị khét một chút trong lúc tôi nghĩ về Andrew – tôi ngồi xuống ăn với Lawrence và Ong Nhỏ. Thật kinh khủng – họ không nói chuyện với nhau, và tôi nhận ra họ đã không nói gì trong suốt thời gian tôi nấu bữa tối. Chúng tôi ăn trong im lặng, chỉ có tiếng của dao nĩa vang lên. Cuối cùng Ong Nhỏ thở dài, dụi mắt, rồi đi lên lầu để ngủ trên chiếc giường tôi đã dọn cho cô bé trong phòng ngủ dành cho khách.

Tôi dằn mớ đĩa vào máy rửa bát và nện chảo vào bồn rửa.

“Sao thế?” Lawrence hỏi. “Anh đã làm gì nào?”

“Lẽ ra anh đã có thể cố gắng,” tôi nói.

“Ừ, phải rồi. Anh tưởng anh sẽ được ở một mình với em đêm nay. Đấy không phải là một tình huống dễ dàng thích nghi.”

“Cô bé là khách của em, Lawrence ạ. Ít nhất anh cũng nên tỏ ra lịch sự chứ.”

“Anh chỉ không nghĩ là em biết mình đang làm gì, Sarah ạ. Anh nghĩ sẽ không tốt nếu em giữ con bé ở đây. Mỗi khi thấy nó, em sẽ nhớ lại chuyện đã xảy ra.”

“Suốt hai năm qua em đã phủ nhận chuyện xảy ra trên bãi biển đó. Phớt lờ nó, để nó mưng mủ. Andrew cũng đã làm thế, và cuối cùng nó đã giết chết anh ấy. Em sẽ không để nó giết chết em và Charlie. Em sẽ giúp Ong Nhỏ, và sửa chữa mọi thứ, và sau đó có thể sống tiếp cuộc đời mình.”

“Đúng, nhưng nếu em không thể sửa chữa nó thì sao? Em biết kết cục gì có thể xảy đến với con bé đấy mà, phải không? Họ sẽ trục xuất nó.”

“Em chắc chắn chuyện đó sẽ không xảy ra.”

“Sarah, bọn anh có hẳn một ban để đảm bảo chuyện đó sẽ xảy ra. Chính thức thì Nigeria là đất nước khá an toàn, và nó không có gia đình ở đây, theo thừa nhận của chính nó. Chẳng có lý do khỉ gì để họ cho nó ở lại cả.”

“Em không thể không thử.”

“Em sẽ bị thủ tục hành chính làm thoái chí, và trước sau gì họ cũng sẽ gửi con bé về nước. Em sẽ đau buồn. Chuyện này sẽ hành hạ em. Mà đó là điều cuối cùng em cần vào lúc này. Em cần những ảnh hưởng tích cực trong cuộc đời em. Giờ đây em có một cậu con trai mà em phải tự tay nuôi nấng. Em cần những người tiếp cho em năng lượng, chứ không phải rút cạn năng lượng của em.”

“Và đó là anh, phải không?”

Lawrence nhìn lại tôi, rồi ngả người về trước. “Anh muốn trở thành người quan trọng với em, Sarah ạ. Anh đã muốn như thế từ giây phút em bước vào cuộc đời anh với quyển sổ tay phóng viên mà em không hề viết xuống một chữ và chiếc máy ghi âm mà em không hề bật lên. Và anh chưa từng làm em thất vọng, phải không nào? Bất chấp mọi thứ. Bất chấp vợ anh, bất chấp chồng em và bất chấp tất cả những người khác. Chúng ta vui vẻ bên nhau, Sarah ạ. Đó chẳng phải là điều em muốn sao?”

Tôi thở dài. “Em quả thật không nghĩ chuyện này chỉ để cho vui nữa.”

“Vậy em có thấy anh bỏ chạy không? Chúng ta đang nói về chuyện làm điều tốt nhất cho em. Anh sẽ không dừng lại chỉ vì mọi việc trở nên nghiêm trọng. Nhưng em phải chọn. Anh không thể giúp em nếu em dành hết tâm trí cho con bé đó.”

Tôi cảm thấy máu chảy cạn khỏi mặt mình. Tôi cố gắng nói khẽ và bình thản hết mức. “Hãy nói không phải anh đang buộc em chọn giữa anh và con bé.”

“Anh tuyệt đối không buộc em làm thế. Nhưng điều anh đang nói là em sẽ phải chọn giữa cuộc sống của em và cuộc sống của nó. Đến một lúc nào đó em phải bắt đầu nghĩ đến tương lai cho em và Charlie. Làm từ thiện là nghĩa cử rất đáng quý, Sarah ạ, nhưng phải có điểm dừng hợp lý.”

Tôi nện bàn tay cụt ngón xuống bàn, các ngón tay xòe ra. “Em đã chặt ngón tay mình vì cô bé đó. Anh hãy nói cho em biết khi nào thì là lúc hợp lý để dừng một việc có khởi đầu như thế? Anh có thực sự muốn em lựa chọn như thế không? Em đã chặt chính ngón tay của mình. Anh có nghĩ em sẽ không chặt ngón tay của anh không?”

Im lặng. Lawrence đứng dậy. Ghế của anh cào lên sàn nhà. “Anh xin lỗi,” anh nói. “Lẽ ra anh không nên đến.”

“Đúng. Có lẽ. Anh không nên đến.”

Tôi ngồi bên bàn ăn, lắng nghe tiếng Lawrence gỡ áo khoác của anh khỏi cây móc áo trong l?