← Quay lại trang sách

- 7 -

Sarah kể cho tôi nghe tại sao cô ngoại tình với Lawrence. Chuyện đó không có gì khó hiểu. Tất cả chúng ta đều đang cố gắng được tự do trong cuộc đời này. Tự do với tôi là ngày mà tôi không còn sợ lũ người ấy đến giết mình. Tự do với Sarah là một tương lai dài, ở đó cô có thể sống cuộc đời do cô lựa chọn. Tôi không nghĩ cô yếu đuối hoặc ngu ngốc vì đã sống cuộc đời cô sinh ra đã có. Chó phải là chó, sói phải là sói – tục ngữ quê tôi nói vậy.

Thật ra ở nước tôi người ta không nói thế. Tại sao chúng tôi lại nhắc đến sói trong tục ngữ cơ chứ? Chúng tôi có hai trăm câu tục ngữ về khỉ, ba trăm câu về khoai mì. Chúng tôi thông thái về những gì chúng tôi biết. Nhưng tôi đã nhận ra, ở nước bạn, tôi có thể nói gì cũng được miễn là tôi nói, Tục ngữ quê tôi nói vậy. Khi đó mọi người sẽ gật đầu và làm ra vẻ nghiêm trọng. Đây là một mánh hay. Tự do với Sarah là một tương lai dài, ở đó cô có thể sống cuộc đời do cô lựa chọn. Chó phải là chó, sói phải là sói, còn ong phải là ong. Tự do với một đứa con gái như tôi là sống sót qua mỗi ngày.

Tương lai là một điều nữa tôi phải giải thích với lũ con gái ở quê. Tương lai là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của đất nước tôi. Nó ra đi quá nhanh qua những cảng biển, hầu hết người dân nước tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó và họ không biết mặt mũi nó ra sao. Ở nước tôi, tương lai tồn tại ở những quặng vàng ẩn trong đá, hoặc tích tụ trong những mỏ dự trữ tăm tối nằm sâu dưới lòng đất. Tương lai chúng tôi giấu mình trong bóng tối, nhưng người dân các bạn đến đất nước chúng tôi cùng với tài năng phát hiện ra nó. Theo cách này, từng chút từng chút một, tương lai chúng tôi trở thành tương lai các bạn. Tôi ngưỡng mộ xã hội các bạn vì sự tinh tế và đa dạng của nó. Mỗi thế hệ lại có một quá trình khai thác khác nhau. Đúng là chúng tôi rất ngây thơ. Ví dụ như, ở làng tôi, chúng tôi đã vô cùng sửng sốt khi thấy tương lai có thể được bơm vào những thùng 160 lít rồi gửi đến nhà máy lọc dầu. Nó xảy ra khi chúng tôi đang chuẩn bị bữa tối, trong lúc làn khói xanh của củi đun hòa lẫn với làn hơi nghi ngút của nồi khoai mì trong ánh chiều vàng ruộm. Nó xảy ra quá nhanh đến nỗi đám phụ nữ phải túm lấy trẻ con chúng tôi và cùng chúng tôi chạy vào rừng. Chúng tôi nấp ở đấy trong lúc lắng nghe tiếng thét gào của những người đàn ông ở lại để chiến đấu – và trong lúc đó, tại nhà máy lọc dầu, thông qua quá trình chưng cất, tương lai làng chúng tôi được tách ra thành từng phần. Phần nặng nhất, trí tuệ của ông bà chúng tôi, được dùng để trải nhựa đường cho các bạn. Phần ở giữa, từng đồng xu lẻ mà các mẹ các dì chúng tôi chắt chiu dành dụm sau mùa thu hoạch, phần này được dùng để làm cho xe ô tô của các bạn chạy. Và phần nhẹ nhất – những ước mơ kì ảo của lũ trẻ con chúng tôi vào khoảnh khắc tĩnh lặng nhất trong những đêm trăng tròn – chà, chúng trở thành khí đốt để bạn đóng chai và tích trữ cho mùa đông. Bằng cách này, những ước mơ của chúng tôi sưởi ấm các bạn. Giờ thì chúng là một phần trong tương lai bạn, tôi không muốn trách bạn vì đã sử dụng chúng. Có lẽ bạn cũng chẳng biết chúng đến từ đâu.

Các bạn không phải là người xấu. Các bạn mù lòa trước thực tại còn chúng tôi mù lòa trước tương lai. Ở trại giam nhập cư, tôi thường mỉm cười khi các nhân viên giải thích với tôi, Lý do các người đến đây, dân châu Phi các người, là vì các người không có một chính phủ tốt ở đấy. Tôi thường bảo họ rằng gần làng tôi có một con sông rất rộng và sâu, dưới bờ sông có những hang tối, cá sống trong những hang đó có màu nhạt và bị mù. Trong hang không có ánh sáng, vì thế sau hàng nghìn thế hệ, năng lực thị giác đã bị tách rời khỏi chủng loài của chúng. Các bạn có hiểu ý tôi không? Tôi hỏi những nhân viên trại giam. Không có ánh sáng, làm sao bạn giữ được thị giác? Không có tương lai, làm sao bạn giữ gìn được tầm nhìn của chính phủ? Trong thế giới của tôi, chúng tôi có thể cố gắng hết sức. Chúng tôi có thể có một Bộ trưởng Nội vụ tận tụy nhất vào giờ ăn trưa. Chúng tôi có thể có một Thủ tướng xuất sắc nhất vào xế chiều tĩnh lặng. Nhưng khi trời chạng vạng – bạn thấy chưa? – thế giới của chúng tôi biến mất. Nó không thể thấy được quá ngày hôm nay, vì các bạn đã lấy đi ngày mai mất rồi. Và bởi vì các bạn có ngày mai trước mắt mình, các bạn không thể thấy điều gì đang xảy ra hôm nay.

Các nhân viên trại giam thường cười vào mũi tôi, lắc đầu, rồi quay trở lại đọc báo. Đôi khi họ cho tôi mượn báo sau khi đọc xong. Tôi thích đọc báo của các bạn vì tôi nhất định phải học cách nói ngôn ngữ của bạn giống như cách bạn nói. Khi báo chí các bạn viết về nơi tôi ra đi, họ gọi nó là thế giới đang phát triển. Bạn sẽ không nói đang phát triển nếu bạn không tin rằng đã để lại cho chúng tôi một tương lai để làm điều đó. Vì vậy tôi biết các bạn không phải là người xấu.

Thật ra, thứ các bạn đã để lại cho chúng tôi là những vật dụng bỏ đi. Khi nghĩ đến lục địa chúng tôi, có lẽ bạn sẽ nghĩ đến động vật hoang dã – đến sư tử, linh cẩu và khỉ. Khi tôi nghĩ đến nó, tôi nghĩ đến những cỗ máy bị hỏng, đến tất cả những thứ mòn vẹt, móp méo, vỡ vụn và nứt nẻ. Đúng, chúng tôi có sư tử. Chúng đang nằm ngủ trên nóc những thùng container gỉ sét. Chúng tôi cũng có linh cẩu. Chúng đang tách sọ của những người đàn ông chậm chân, không kịp chạy trốn khỏi chính binh đoàn của họ. Còn lũ khỉ? Lũ khỉ đang tràn ra bìa làng, đùa giỡn trên đỉnh núi máy tính cũ mà các bạn gửi đến để giúp đỡ trường học của chúng tôi – ngôi trường không có điện.

Các bạn đã lấy đi tương lai từ đất nước chúng tôi và gửi đến đất nước chúng tôi những đồ vật từ quá khứ các bạn. Chúng tôi có vỏ mà không có hạt, chúng tôi có sọ người mà không có linh hồn. Vâng, sọ người. Đó là điều tôi sẽ nghĩ đến nếu tôi phải đặt một cái tên hay hơn cho đất nước mình. Nếu một hôm Thủ tướng xuất sắc nhất vào xế chiều tĩnh lặng gọi điện cho tôi và nói, Này Ong Nhỏ, cháu có vinh dự to lớn được đặt tên cho lục địa lâu đời và đáng yêu của chúng ta, thì tôi sẽ nói, Thưa ngài, thế giới của chúng ta sẽ được gọi là Golgotha, xứ sở của sọ người.

Đó sẽ là một cái tên hay cho làng tôi, ngay cả trước khi lũ người đến rồi thiêu rụi những túp lều tranh của chúng tôi và khoan tìm dầu. Đó sẽ là một cái tên hay cho khu đất trống quanh cây limba, nơi lũ trẻ con chúng tôi chơi xích đu trên vỏ bánh xe cũ, nhảy tưng tưng trên yên chiếc Peugeot hỏng của bố tôi và chiếc Mercedes hỏng của bác tôi (ở yên những chiếc xe đó, lò xo lộ cả ra ngoài), rồi hát những bài hát nhà thờ từ quyển sách thánh ca mất bìa và các trang được dán vào nhau bằng băng dính. Golgotha là nơi tôi lớn lên, nơi ngay cả những người truyền đạo cũng đã đóng cửa giáo hội và bỏ lại cho chúng tôi những quyển sách giáo lý không đáng tốn tiền để gửi về nước các bạn. Ở làng chúng tôi, quyển kinh thánh duy nhất bị mất các trang từ câu thứ bốn mươi sáu trong chương hai mươi bảy của sách Matthew, vì thế đoạn kết tôn giáo của chúng tôi, theo những gì chúng tôi biết, là Chúa ơi, Chúa ơi, tại sao Người rời bỏ con?

Chúng tôi đã sống như thế, vui vẻ, vô vọng. Lúc đó tôi còn bé, và tôi không hoài vọng chuyện mất một tương lai vì tôi không hề biết mình được quyền sở hữu nó. Tất cả những gì chúng tôi biết về phần còn lại của thế giới là những bộ phim xưa thật là xưa của các bạn. Về những người lúc nào cũng bận bịu, đôi khi lái máy bay phản lực, đôi khi lái xe mô tô, và đôi khi lộn ngược.

Về tin tức, chúng tôi chỉ có duy nhất một chiếc ti vi Golgotha, loại mà bạn phải gánh luôn cả phần thực hiện chương trình. Chỉ có cái khung gỗ bọc quanh nơi từng có màn hình, và cái khung nằm trong bụi đỏ dưới cây limba. Chị Nkiruka của tôi thường đặt đầu vào trong khung để lên sóng. Đây là một mánh hay. Tôi biết lẽ ra chúng tôi nên gọi nó là tivi thực tế.

Chị tôi thường chỉnh lại chiếc nơ trên áo, cài một bông hoa lên tóc, và mỉm cười qua màn hình rồi nói: Xin chào, đây là bản tin từ đài BBC Anh, hôm nay tuyết kem sẽ rơi từ trên trời xuống và không ai phải đi bộ đến sông để lấy nước vì các kĩ sư sẽ đến từ thành phố và lắp một trụ nước ở giữa làng. Và lũ trẻ con chúng tôi ngồi thành vòng bán nguyệt quanh ti vi để xem chị Nkiruka đọc bản tin. Chúng tôi yêu những phần nhẹ nhất này trong ước mơ của chị. Trong bóng râm mát mẻ của buổi chiều, chúng tôi thường há hốc mồm thích thú và tất cả chúng tôi cùng thốt lên, Đã quá!

Một trong những điều tốt đẹp về thế giới bị bỏ rơi là bạn có thể nói chuyện lại với ti vi. Lũ trẻ con chúng tôi thường hét toáng lên với chị Nkiruka:

“Trận tuyết kem này chính xác sẽ rơi lúc mấy giờ thế?”

“Dĩ nhiên là buổi tối rồi, vì lúc đó ngày mát mẻ hơn.”

“Làm sao bà biết được điều đó hả Quý bà Phát thanh viên Truyền hình?”

“Vì ngày phải đủ mát để kem không bị chảy, đương nhiên là thế rồi. Trẻ con các em chẳng biết gì hết à?”

Và lũ trẻ con chúng tôi sẽ ngồi xuống rồi gật gù với nhau – rõ ràng ngày phải đủ mát trước đã. Chúng tôi rất hài lòng với bản tin truyền hình.

Bạn có thể chơi trò giống như vậy với ti vi ở đất nước bạn, nhưng sẽ khó hơn vì ti vi không chịu lắng nghe. Vào buổi sáng sau khi Lawrence ở lại qua đêm lần đầu tiên tại nhà Sarah, chính Charlie là người muốn bật ti vi. Tôi nghe tiếng nó thức dậy khi Sarah và Lawrence vẫn còn ngủ, vì thế tôi đi vào phòng nó. Tôi nói, Chào buổi sáng, em trai bé bỏng, em có muốn ăn sáng không? Nó đáp, Không, em là không muốn ăn sáng, em là muốn TI VI. Nên tôi nói, Mẹ em có nói em được phép xem ti vi trước khi ăn sáng không? Charlie nhìn tôi với ánh mắt kiên nhẫn, như một giáo viên đã nhắc lại câu trả lời với bạn ba lần mà bạn vẫn quên. Thật ra thì, mẹ đang ngủ, nó nói.

Thế là chúng tôi bật ti vi lên. Chúng tôi xem hình ảnh không có tiếng. Đó là bản tin BBC buổi sáng, họ đang chiếu cảnh Thủ tướng đọc diễn văn. Charlie nghiêng đầu sang một bên để xem. Đôi tai trên mũ trùm Batman của nó ngả sang bên.

Nó nói, “Đó là Joker[23], phải không?”

“Không, Charlie ạ. Đó là Thủ tướng.”

“Ông ta là người tốt hay người xấu?” Tôi ngẫm nghĩ một lúc.

“Một nửa người dân nghĩ ông ta là người tốt, nửa kia nghĩ ông ta là kẻ xấu.”

Charlie cười khúc khích. “Ngốc thật,” nó nói.

“Đó là dân chủ,” tôi đáp. “Nếu em không có dân chủ, thì em sẽ thèm muốn nó lắm.”

Chúng tôi ngồi xem môi Thủ tướng chuyển động.

“Ông ta đang nói gì?”

“Ông ấy nói là sẽ tạo ra một trận tuyết kem.”

Charlie quay ngoắt sang nhìn tôi. “KHI NÀO?” Nó hỏi.

“Khoảng ba giờ chiều, nếu thời tiết đủ mát. Ông ấy cũng nói rằng những người trẻ phải chạy trốn khỏi rắc rối ở đất nước họ sẽ được phép ở lại đây, miễn sao họ làm việc chăm chỉ và không gây rối.”

Charlie gật đầu. “Em nghĩ Thủ tướng là người tốt.”

“Vì ông ta sẽ đối xử tốt với người tị nạn sao?” Charlie lắc đầu. “Vì tuyết kem,” nó đáp.

Có tiếng cười từ cửa. Tôi quay lại và thấy Lawrence đang đứng đó. Chú ấy mặc áo ngủ, đứng đấy trên đôi chân trần. Tôi không biết chú đã nghe chúng tôi nói chuyện bao lâu.

“Ái chà,” chú lên tiếng, “chúng ta biết cách mua phiếu bầu của cậu bé này rồi.”

Tôi nhìn xuống sàn. Tôi ngượng ngùng vì Lawrence đứng đấy.

“Ô, đừng mắc cỡ,” chú nói. “Cháu hợp với Charlie lắm. Đến đây ăn sáng nào.”

“Vâng ạ,” tôi đáp. “Batman, em có muốn ăn sáng không?”

Charlie nhìn Lawrence trân trối rồi lắc đầu, vì thế tôi chuyển kênh ti vi cho đến khi tìm thấy kênh mà Charlie thích, sau đó tôi đi vào nhà bếp.

“Sarah vẫn còn ngủ,” Lawrence nói. “Tôi nghĩ cô ấy cần nghỉ ngơi. Trà hay cà phê?”

“Trà ạ, cám ơn chú.”

Lawrence đun ấm nước và pha trà cho hai chúng tôi. Chú đặt tách trà của tôi xuống bàn trước mặt tôi, thật cẩn thận, và xoay quai tách về phía tay tôi. Chú ngồi xuống ở bên kia bàn, mỉm cười. Mặt trời đang chiếu sáng nhà bếp. Nó có màu vàng đậm – một ánh sáng ấm áp, nhưng không chói lòa. Nó không muốn nhận vinh quang vì thắp sáng căn phòng. Nó làm cho từng đồ vật trông như tự tỏa sáng bằng ánh sáng sâu thẳm bên trong. Lawrence, chiếc bàn với lớp khăn trải màu xanh bằng cotton sạch sẽ, tách trà màu cam của chú và màu vàng của tôi – tất cả đều tỏa sáng từ bên trong. Ánh sáng khiến tôi cảm thấy vui phơi phới. Tôi tự nhủ, Đó là một mánh hay.

Nhưng Lawrence rất nghiêm trọng. “Nghe này,” chú nói, “tôi nghĩ tôi và cháu cần lập một kế hoạch cho cháu. Tôi sẽ rất rõ ràng về chuyện này. Tôi nghĩ cháu nên đến trình diện ở đồn cảnh sát gần đây. Tôi nghĩ thật không phải nếu cháu để Sarah đối mặt với áp lực vì chứa chấp cháu.”

Tôi mỉm cười. “Không phải cô ấy đang chứa chấp cháu. Cháu đâu phải là một chiếc tàu[24].”

“Chuyện này không buồn cười đâu.”

“Nhưng chẳng có ai đi tìm cháu cả. Tại sao cháu phải đến đồn cảnh sát?”

“Tôi nghĩ việc cháu ở đây là không đúng. Như thế sẽ không tốt cho Sarah vào lúc này.”

Tôi thổi trà của mình. Khói bốc lên vào không khí tĩnh lặng của nhà bếp, và nó tỏa sáng. “Chú có nghĩ chú sẽ đem lại điều tốt cho cô Sarah vào lúc này không, chú Lawrence?”

“Có. Có chứ.”

“Cô ấy là người tốt. Cô ấy đã cứu mạng cháu.”

Lawrence mỉm cười. “Tôi biết Sarah rất rõ,” chú nói. “Cô ấy đã kể hết chuyện đó cho tôi nghe.”

“Vậy thì chú phải tin rằng cháu chỉ ở đây để giúp cô ấy thôi.”

“Tôi không tin cháu là sự giúp đỡ mà cô ấy cần.”

“Cháu giúp đỡ theo kiểu trông chừng con cô ấy như thể nó là em trai ruột của cháu. Cháu giúp đỡ theo kiểu dọn dẹp nhà cửa cho cô Sarah, giặt quần áo cho cô, hát cho cô khi cô buồn. Chú giúp thế nào hả chú Lawrence? Có lẽ chú chỉ giúp đỡ khi muốn quan hệ tình dục thôi.”

Lawrence lại mỉm cười. “Tôi sẽ không giận vì câu nói đó,” chú nói. “Cháu thuộc tuýp phụ nữ có suy nghĩ buồn cười về đàn ông đấy.”

“Cháu thuộc tuýp phụ nữ đã chứng kiến đàn ông làm những chuyện không buồn cười chút nào.”

“Ôi, làm ơn đi. Đây là châu Âu mà. Chúng tôi được huấn luyện cho phải phép ở đây rồi.”

“Khác với chúng cháu, chú có nghĩ thế không?”

“Nói như thế cũng được.”

Tôi gật đầu. “Sói phải là sói, chó phải là chó.”

“Ở nước cháu người ta nói như thế à?” Tôi mỉm cười.

Lawrence nhíu mày. “Tôi không hiểu cháu,” chú ấy nói. “Tôi nghĩ cháu không biết tình hình của mình nghiêm trọng thế nào đâu. Nếu biết, cháu sẽ không cười nổi.”

Tôi nhún vai. “Nếu cháu không cười nổi thì cháu nghĩ tình hình của cháu phải nghiêm trọng hơn nhiều cơ.”

Chúng tôi uống trà, Lawrence nhìn tôi, tôi nhìn Lawrence. Chú có mắt màu xanh lá cây, xanh như mắt cô mặc sari vàng vào hôm chúng tôi rời khỏi trại giam. Chú nhìn tôi không chớp mắt.

“Chú sẽ làm gì?” Tôi hỏi. “Chú sẽ làm gì nếu cháu không đến đồn cảnh sát?”

“Ý cháu là liệu tôi có bắt cháu đi không chứ gì?”

Tôi gật đầu. Lawrence gõ ngón tay lên thành tách trà.

“Tôi sẽ làm điều tốt nhất cho Sarah,” chú đáp.

Nỗi sợ chạy thẳng vào tôi, thẳng vào bụng tôi. Tôi nhìn những ngón tay của Lawrence gõ gõ. Chú có làn da trắng bệch như trứng chim biển, và cũng mỏng manh như vỏ trứng. Chú dùng hai tay ôm tách trà. Chú có ngón tay dài mượt mà, những ngón tay uốn cong quanh chiếc tách bằng gốm màu cam, tựa như tách trà là một con vật bé nhỏ có thể làm chuyện dại dột nếu thoát ra.

“Chú là người thận trọng, chú Lawrence nhỉ.”

“Tôi cố gắng để được như thế.”

“Tại sao ạ?”

Lawrence cười khì. “Nhìn tôi mà xem. Tôi không hề thông minh. Tôi không đẹp trai ngời ngời. Tất cả những gì cháu có thể nói về tôi là tôi cao một mét tám và không hoàn toàn ngu ngốc. Cuộc đời không cho một kẻ như tôi nhiều sợi dây an toàn, nên có sợi nào thì tôi phải cố nắm lấy sợi đó.”

“Như cô Sarah ư?”

“Tôi yêu Sarah. Cháu không tưởng tượng nổi cô ấy có ý nghĩa gì với tôi đâu. Không có cô ấy, cuộc đời tôi chỉ là rác rưởi. Tôi làm việc cho bộ máy khủng khiếp nhất, vô tâm nhất, công việc của tôi tuyệt đối chẳng có ý nghĩa gì, và sếp tôi chỉ khiến tôi muốn tự sát cho xong, quả thật là thế. Về đến nhà, lũ trẻ thì gào khóc, còn Linda thì cằn nhằn không dứt về những chuyện chẳng đâu vào đâu. Thời gian tôi có với Sarah là khoảng thời gian duy nhất tôi cảm thấy mình đang làm việc gì đấy do mình lựa chọn. Đó là khoảng thời gian duy nhất tôi được sống thật với mình. Ngay cả lúc này, ngồi đây nói chuyện với cháu. Ý tôi là, việc này có kì cục không chứ, cháu và tôi lại nói chuyện với nhau trong một cái nhà bếp của Anh? Chuyện này thật khó tin. Đây là việc mà bình thường chẳng bao giờ xảy ra trong đời tôi, và tất cả là vì Sarah.”

“Chú lo cháu sẽ cướp mất cô Sarah của chú. Đó là lý do chú không muốn cháu có mặt ở đây. Nó chẳng liên quan gì đến chuyện điều gì là tốt nhất cho cô ấy.”

“Tôi lo Sarah sẽ làm chuyện dại dột để cố gắng giúp cháu. Thay đổi trọng tâm, thay đổi cuộc sống hơn những gì cô ấy cần vào chính lúc này.”

“Và chú lo cô ấy sẽ quên mất chú trong cuộc sống mới của cô.”

“Đúng, đúng thế, đúng là như vậy. Nhưng cháu không thể tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra với tôi nếu tôi mất Sarah. Tôi sẽ sụp đổ. Tôi sẽ tuyệt vọng. Bùm. Đó sẽ là dấu chấm hết cho tôi. Điều đó khiến tôi hoảng sợ, dù cho cháu có thể nghĩ rằng như thế thật thảm hại.”

Tôi nhấp một ngụm trà. Tôi thận trọng thưởng thức nó. Tôi lắc đầu. “Chuyện đó không thảm hại. Trong thế giới của cháu, cái chết sẽ đến đuổi bắt cháu. Trong thế giới của chú, nó sẽ bắt đầu thì thầm vào tai chú để hủy hoại chú. Cháu biết điều này vì nó đã bắt đầu thì thầm vào tai cháu khi cháu ở trong trại giam. Cái chết là cái chết, chúng ta ai cũng sợ nó.”

Lawrence xoay tách trà vòng vòng trong tay.

“Có thật là cháu chạy trốn khỏi cái chết không? Ý tôi là, thật vậy sao? Nhiều người đến đây là để tìm kiếm một cuộc sống tiện nghi cơ mà.”

“Nếu họ trục xuất cháu về Nigeria, cháu sẽ bị bắt. Nếu họ biết được cháu là ai, và cháu đã thấy gì, thì các chính trị gia sẽ tìm ra cách để thủ tiêu cháu. Hoặc nếu cháu may mắn, họ sẽ tống cháu vào tù. Nhiều người từng chứng kiến các công ty dầu mỏ làm gì, họ bị ở tù rất lâu. Những chuyện xấu xa xảy ra trong nhà tù Nigeria. Nếu người ta có được ra tù đi nữa, họ cũng không còn muốn nói chuyện.”

Lawrence khẽ lắc đầu, rồi nhìn xuống tách trà của mình. “Thấy chưa, cháu kể những chuyện đấy cho tôi nghe, nhưng tôi lại không nghĩ chúng có thể xảy ra. Cháu sẽ ổn thôi, nhìn cháu mà xem, tôi chắc chắn cháu sẽ tìm ra cách. Nếu tôi muốn báo cảnh sát thì chẳng có gì khó. Tôi chỉ cần đi xuống phố rồi làm thôi. Và khi đó tôi sẽ lấy lại cuộc đời mình, chỉ đơn giản như thế.”

“Thế còn cuộc đời cháu?”

“Đó không phải là chuyện của tôi. Tôi không thể chịu trách nhiệm với tất cả những phiền phức trên thế gian này.”

“Ngay cả khi cuộc đời của chú sẽ hủy diệt cháu?”

“Nghe này, chuyện gì sắp xảy ra với cháu rốt cục cũng sẽ đến, dù tôi có làm hay không làm gì đi nữa. Đây không phải là quê hương cháu. Họ sẽ đến bắt cháu, tôi đảm bảo họ sẽ đến. Cuối cùng họ sẽ đến để bắt tất cả những người như cháu.”

“Chú có thể che giấu cháu.”

“Ừ, phải rồi, giống như người ta giấu Anne Frank trên gác mái ấy. Nhìn xem việc đó đem lại kết quả gì cho cô ấy nào.”

“Anne Frank là ai?”

Lawrence nhắm mắt, chắp hai tay sau gáy, rồi thở dài.

“Cũng là một cô gái chả can dự gì đến tôi,” chú trả lời.

Tôi cảm thấy cơn giận bùng nổ trong lòng, mãnh liệt đến nỗi nó khiến hai tròng mắt tôi đau đớn. Tôi đập bàn tay xuống bàn, khiến chú giật bắn mình, trợn tròn mắt.

“Cô Sarah sẽ ghét chú, nếu chú báo cảnh sát về cháu!”

“Sarah sẽ không biết. Tôi đã chứng kiến cách làm việc của những người ở cơ quan nhập cư. Họ sẽ đến bắt cháu vào buổi tối. Cháu sẽ không có thời gian để kể với Sarah. Cháu sẽ chẳng kịp nói một lời.”

Tôi đứng dậy. “Cháu sẽ tìm cách. Cháu sẽ tìm được cách kể với cô ấy những gì chú đã làm. Và cháu sẽ tìm cách kể với cả cô Linda nữa. Cháu sẽ phá hoại cả hai cuộc sống của chú, chú Lawrence ạ. Cuộc sống gia đình và cuộc sống bí mật của chú.”

Lawrence có vẻ ngạc nhiên. Chú đứng dậy, đi quanh nhà bếp. Chú lấy tay vuốt tóc. “Phải,” chú nói, “tôi thực lòng nghĩ cháu sẽ làm thế.”

“Đúng vậy. Xin chú đừng nghĩ đến chuyện cháu tha thứ cho chú, chú Lawrence ạ. Cháu cam đoan sẽ không để chú yên.”

Lawrence nhìn ra ngoài vườn rồi thốt lên một tiếng “Ôi!”

Tôi chờ đợi. Sau một lúc lâu, chú lên tiếng, “Buồn cười thật. Tôi đã nằm thao thức cả đêm để nghĩ xem sẽ làm gì với cháu. Tôi đã nghĩ đến điều gì là tốt nhất cho Sarah, và điều gì là tốt nhất cho tôi. Tôi thật tâm không hề nghĩ đến việc cháu sẽ làm. Lẽ ra tôi nên nghĩ đến nó mới phải. Tôi cứ tưởng cháu sẽ không phản ứng mạnh như thế. Khi Sarah kể về cháu tôi đã tưởng tượng, tôi không biết nữa… nhưng đó là một người không giống như cháu.”

“Cháu đã ở đất nước chú được hai năm. Cháu đã học ngôn ngữ của chú, học quy tắc của chú. Giờ đây cháu giống chú hơn là giống cháu.”

Lawrence lại phì cười. “Thật tình tôi thấy cháu chả có điểm nào giống tôi cả.”

Rồi chú lại ngồi xuống bên bàn ăn, chống tay lên cằm. “Tôi là đồ thối tha,” chú ta thán. “Tôi là kẻ bỏ đi, vậy mà cháu còn đẩy tôi vào bước đường cùng.”

Chú ngước lên nhìn tôi. “Cháu sẽ không nói với cô Linda chứ?”

Đôi mắt chú mệt lả. Tôi thở dài, ngồi xuống đối diện chú.

“Chúng ta nên làm bạn, chú Lawrence ạ.”

“Làm như thế nào?”

“Chú và cháu, chúng ta không khác nhau như chú nghĩ đâu.”

Lawrence bật cười. “Tôi vừa mới thừa nhận với cháu rằng tôi sẽ bán đứng cháu nếu có thể. Cháu là cô bé tị nạn nhỏ bé dũng cảm, còn tôi là thằng tồi ích kỉ. Tôi nghĩ vị trí của chúng ta ở đây được phác họa khá rõ rồi, nhỉ?”

Tôi lắc đầu. “Cháu cũng ích kỉ lắm, chú ạ.”

“Làm gì có.”

“Bây giờ thì chú nghĩ cháu là cô bé dễ thương đáng yêu đúng không? Trong đầu chú, chú vẫn không nghĩ cháu thực sự tồn tại. Chú không ngờ rằng cháu có thể thông minh, như một người da trắng. Rằng cháu có thể ích kỉ, như một người da trắng.”

Tôi nhận ra mình quá giận đến nỗi đang hét lên.

Lawrence chỉ bật cười.

“Ích kỉ! Cháu ư? Cháu lấy chiếc bánh quy cuối cùng trong hộp à? Hay không đậy nắp tuýp kem đánh răng sau khi dùng?”

“Cháu khiến chồng cô Sarah treo cổ tự vẫn,” tôi đáp.

Lawrence trợn tròn mắt nhìn tôi. “Gì cơ?”

Tôi uống thêm trà, nhưng giờ nó đã lạnh tanh, đến nỗi tôi phải đặt tách xuống bàn. Ánh sáng trong nhà bếp cũng đã trở nên nguội lạnh. Tôi nhìn vầng sáng mờ dần khỏi tất cả đồ vật trong phòng, và tôi cảm thấy hơi lạnh chảy trong xương tủy. Toàn bộ cơn giận đã đi ra khỏi người tôi.

“Chú Lawrence?”

“Cái gì?”

“Có lẽ cháu nên đi đến một nơi nào khác thì tốt hơn.”

“Dừng lại. Đợi đã. Cháu vừa nói gì?”

“Có lẽ chú đúng. Có lẽ nếu cháu không ở đây thì sẽ tốt hơn cho cô Sarah, cho Charlie và cho chú. Cháu có thể bỏ trốn. Cháu bỏ trốn giỏi lắm, chú Lawrence ạ.”

“Im đi,” Lawrence khẽ nói. Chú nắm lấy cổ tay tôi.

“Chú thôi đi! Đau quá!”

“Vậy thì cho tôi biết cháu đã làm gì.”

“Cháu không muốn cho chú biết. Giờ cháu sợ rồi.”

“Tôi cũng thế. Nói đi.”

Tôi vịn cạnh bàn, hít thở trong sợ hãi. “Cô Sarah nói cảm thấy lạ khi cháu đến vào ngày tang lễ chú Andrew.”

“Ừ?”

“Việc đó không phải trùng hợp.”

Lawrence thả tay tôi ra, đứng phắt dậy và đặt bàn tay lên gáy. Chú đi đến cửa sổ nhà bếp rồi nhìn ra ngoài một lúc lâu. Sau đó chú quay lại nhìn tôi. “Chuyện gì đã xảy ra?” Chú thì thầm.

“Cháu nghĩ không nên nói với chú. Lẽ ra cháu không nên nói gì cả. Cháu giận quá mất khôn thôi.”

“Kể đi.”

Tôi nhìn xuống mu bàn tay mình. Tôi nhận ra tôi muốn kể với ai đó, và tôi biết tôi sẽ không bao giờ có thể kể với Sarah. Tôi ngước lên nhìn chú.

“Cháu đã gọi điện cho chú Andrew vào buổi sáng họ thả cháu ra khỏi trại giam nhập cư. Cháu bảo là cháu sắp đến tìm chú ấy.”

“Chỉ có vậy thôi sao?”

“Sau đó cháu đi từ trại giam đến đây. Cháu đi mất hai ngày. Cháu nấp trong vườn.” Tôi chỉ ra ngoài cửa sổ. “Ở đó,” tôi nói, “sau bụi cây chỗ con mèo đang nằm. Rồi cháu chờ đợi. Cháu không biết mình muốn làm gì nữa. Cháu nghĩ cháu muốn nói cám ơn cô Sarah vì đã cứu mạng cháu, nhưng đồng thời cháu cũng muốn trừng phạt chú Andrew vì đã để chị cháu bị giết. Và cháu cũng chẳng biết làm những việc này thế nào nữa, nên cháu cứ chờ đợi.

Cháu đợi hai ngày hai đêm, không ăn không uống gì, khi trời tối cháu mới ra ngoài ăn hạt mà người ta ném cho lũ chim và uống nước ở vòi nước nằm bên ngoài căn nhà. Ban ngày cháu quan sát qua cửa sổ, cháu nghe ngóng khi họ đi ra ngoài vườn. Cháu thấy chú Andrew nói chuyện với cô Sarah và Charlie. Chú ấy thật kinh khủng. Lúc nào chú ấy cũng phát cáu. Chú ấy không chơi với Charlie. Khi cô Sarah nói chuyện, chú ấy chỉ nhún vai hoặc vặc lại cô. Chú thường đứng một mình cuối vườn và độc thoại, đôi khi chú ấy tự quát tháo bản thân mình, hoặc dùng nắm tay đánh vào đầu mình, như thế này này. Chú ấy khóc rất nhiều. Đôi khi chú ngã quỵ xuống trong vườn và khóc suốt một giờ. Đó là khi cháu nhận ra chú ấy bị ma quỷ bủa vây.”

“Anh ta bị trầm cảm kinh niên. Sarah rất khổ sở.”

“Cháu nghĩ chú ấy cũng rất khổ sở. Cháu nhìn chú ấy thật lâu. Một lần, khi chú ấy đang khóc, cháu mải nhìn đến quên cả nấp, và chú ấy nhìn lên rồi thấy cháu. Cháu nghĩ, Ôi không, vậy là xong rồi, Ong Nhỏ ơi. Nhưng chú Andrew không đến chỗ cháu. Chú ấy nhìn cháu trân trối rồi nói, Ôi, Chúa ơi, mày không có thật, mày không đứng đó, đi ra khỏi đầu tao mau lên. Và rồi chú nhắm nghiền mắt và dụi liên hồi, lúc đó cháu nấp trở lại vào sau bụi cây. Khi chú ấy mở mắt ra, chú nhìn lại nơi cháu đã đứng, nhưng không thấy cháu. Rồi chú lại quay về nói chuyện với chính mình.”

“Anh ta nghĩ đang gặp ảo giác về cháu ư? Tên khốn tội nghiệp.”

“Đúng, nhưng thoạt đầu cháu không thấy thương hại chú ấy. Mãi sau này cơ. Ngày thứ Ba chú ấy lại ra vườn, trong lúc cô Sarah đang đi làm còn Charlie đi nhà trẻ. Chú ấy đã say, cháu nghĩ vậy. Những lời chú ấy thốt ra rất chậm rãi và lẫn lộn.”

“Có thể là tác dụng của thuốc,” Lawrence nói. Khuôn mặt chú giờ đã trắng bệch, và chú vẫn còn nhìn tôi bằng đôi mắt sáng rực. “Kể tiếp đi.”

“Lúc đó vẫn còn sớm. Chú Andrew bắt đầu la hét. Chú ấy nói, Ra đây, ra đây, mày muốn gì? Cháu không nói gì cả. Làm ơn đi mà, chú ấy van nài. Tao biết mày là hồn ma. Mày muốn tao làm sao mày mới chịu đi? Cháu bước ra từ phía sau bụi nguyệt quế và chú ấy lùi lại một bước. Cháu không phải là ma, cháu nói. Chú ấy bắt đầu đánh vào đầu mình và nói, Mày không có thật, mày ở trong đầu tao, mày không đứng đó. Chú ấy nhắm mắt lại và lắc đầu. Khi chú nhắm mắt, cháu bước đến chỗ chú, đủ gần để chạm vào người chú. Khi chú mở mắt ra và nhận thấy cháu đứng rất gần, chú thét lên và chạy vào trong nhà. Cháu cảm thấy thật tội nghiệp cho chú ấy. Cháu theo chú ấy vào nhà. Làm ơn nghe cháu, cháu nói. Cháu không phải là ma. Cháu đến vì cháu không quen biết ai khác. Rồi chú ấy bảo, Chạm vào người tao đi. Hãy chứng tỏ mày không phải là ma. Thế là cháu tiến đến gần hơn và đặt tay mình lên tay chú ấy. Khi cảm nhận được bàn tay cháu, chú ấy nhắm mắt lại một lúc rất lâu, rồi mở mắt ra. Cháu đi lên cầu thang, chú ấy đi trước cháu. Chú ấy đi giật lùi lên cầu thang. Chú ấy hét ầm lên, Đi ra! Đi ra! Chú chạy vào phòng làm việc, phòng đọc sách của mình, rồi đóng sầm cửa lại. Vì vậy cháu đứng ngoài cửa và hét toáng lên, Đừng sợ cháu! Cháu chỉ là một con người thôi! Im lặng rất lâu, vì thế cháu bỏ đi.”

Hai tay Lawrence run bần bật. Có những gợn sóng trên mặt tách trà của chú.

“Một lúc sau cháu quay lại. Chú Andrew đang đứng trên một cái ghế ở giữa phòng. Chú ấy đã buộc một sợi dây điện quanh xà gỗ trên trần nhà. Chú ấy đã buộc đầu kia quanh cổ mình. Chú nhìn cháu và cháu nhìn chú. Rồi chú thì thầm với cháu. Chú nói, Chuyện đó đã lâu lắm rồi, được chưa? Lâu thật lâu rồi. Sao mày không ở lại đấy? Nên cháu nói, Cháu xin lỗi, ở đấy không an toàn. Chú nói, Tao biết mày đã chết ở đó. Tao biết mày chỉ ở trong đầu tao thôi. Chú nhìn cháu một lúc lâu. Đôi mắt chú đỏ ngầu, chúng nhấp nháy quanh căn phòng. Cháu tiến đến gần hơn nhưng chú hét lên. Chú bảo, Nếu mày lại gần, tao sẽ bước khỏi cái ghế này. Vì vậy cháu đứng lại. Cháu nói, Tại sao chú lại làm chuyện này? Chú trả lời bằng giọng rất khẽ. Chú bảo, Vì tao đã nhìn ra con người thật của mình. Cháu nói, Nhưng chú là người tốt, chú Andrew ạ. Chú quan tâm đến cuộc đời này. Cháu đã đọc bài viết của chú, trên tờ The Times, khi cháu học tiếng Anh. Chú Andrew lắc đầu. Từ ngữ chẳng là gì cả. Con người thật của chú là người cháu đã gặp trên bãi biển. Hắn biết đặt dấu phẩy ở đâu, nhưng lại không chịu chặt ngón tay mình để cứu cháu. Thế là cháu mỉm cười với chú ấy và nói, Không sao đâu ạ. Chú nhìn xem, cháu ở đây rồi, cháu còn sống mà. Và chú ấy suy nghĩ một lúc rất lâu. Chú ấy nói, Chuyện gì đã xảy ra với cô gái đi cùng cháu? Cháu đáp, Chị ấy ổn rồi. Chị ấy không thể đến đây với cháu, chỉ vậy thôi. Lúc đó chú ấy nhìn vào mắt cháu. Chú cứ nhìn không chớp mắt, cho đến khi cháu không thể nhìn vào mắt chú được nữa mà phải nhìn xuống sàn nhà. Sau đó chú ấy nói, Nói dối. Rồi chú nhắm mắt và bước khỏi ghế. Những tiếng thốt ra từ cổ họng chú, chúng giống như những tiếng chị cháu thốt ra khi chúng giết chị ấy.” Lawrence tựa lên mặt bàn.

“Mẹ kiếp,” chú thốt lên.

“Cháu cố gắng giúp chú ấy nhưng chú ấy nặng quá. Cháu không thể nhấc người chú ấy lên được. Cháu cố gắng đến khi kiệt sức, cháu khóc, nhưng vẫn không thể nhấc người chú ấy khỏi sợi dây. Cháu đẩy chiếc ghế đến dưới chân chú ấy nhưng chú ấy đá nó đi. Sau một lúc lâu, chú ấy không còn vùng vẫy nữa, nhưng vẫn còn sống. Cháu có thể thấy đôi mắt chú nhìn cháu. Chú xoay vòng vòng quanh sợi dây. Chú xoay rất chậm, và mỗi khi người chú quay sang nhìn cháu, mắt chú lại nhìn cháu cho đến khi xoay đi thật xa. Mắt chú ấy lồi ra, khuôn mặt tím tái, nhưng chú ấy vẫn nhìn cháu. Cháu nghĩ, Mình phải giúp chú ấy. Cháu nghĩ, Mình phải gọi điện cho hàng xóm hoặc mình phải gọi xe cấp cứu. Cháu bắt đầu chạy xuống cầu thang để kêu cứu. Nhưng rồi cháu nghĩ, Nếu mình kêu cứu, chính quyền sẽ biết mình đang ở đây. Và nếu chính quyền biết mình đang ở đây, họ sẽ trục xuất mình, hoặc thậm chí còn tệ hơn. Vì vấn đề là thế này, chú Lawrence ạ: sau khi họ thả chúng cháu ra khỏi trại giam nhập cư, một trong những cô gái cháu đi cùng, chị ấy cũng treo cổ. Cháu đã bỏ chạy khỏi nơi đó nhưng cảnh sát hẳn sẽ biết cháu đã ở đó. Hai vụ treo cổ, chú hiểu không? Cảnh sát sẽ nghi ngờ. Họ sẽ nghĩ cháu có liên quan gì đấy. Cháu không thể để họ tìm ra cháu như thế. Vì thế cháu chạy khỏi phòng làm việc của chú Andrew, chống cằm và cố gắng nghĩ ra nên làm gì, liệu cháu có nên thí mạng mình để cứu mạng chú Andrew hay không? Và lúc đầu cháu nghĩ, Dĩ nhiên mình phải cứu chú ấy, dù cái giá mình trả có là gì đi nữa, vì chú ấy là con người. Nhưng rồi cháu lại nghĩ, Dĩ nhiên là mình phải cứu mạng mình rồi, vì mình cũng là người mà. Và rồi sau khi cháu đứng đấy suốt năm phút suy nghĩ về những chuyện này, cháu nhận ra đã quá muộn, cháu phải cứu mình thôi. Thế là cháu đi đến tủ lạnh để lấy đồ ăn, vì cháu rất đói. Sau đó cháu quay trở lại cuối khu vườn để nấp, và mãi đến hôm đám tang cháu mới đi ra.”

Tay tôi run lẩy bẩy. Lawrence hít một hơi sâu. Tay chú cũng đang run.

“Ôi, Chúa ơi, chuyện này nghiêm trọng lắm,” chú nói. “Chuyện này rất, rất nghiêm trọng.”

“Giờ thì chú đã hiểu chưa? Chú đã hiểu tại sao cháu lại muốn giúp cô Sarah đến thế chưa? Chú đã hiểu tại sao cháu muốn giúp Charlie chưa? Cháu đã lựa chọn sai lầm, chú Lawrence ạ. Cháu đã để chú Andrew chết. Giờ cháu phải làm mọi điều có thể để sửa chữa sai lầm.”

Lawrence đang đi đi lại lại trong nhà bếp. Chú mặc áo choàng ngủ, ngón tay chú vặn vẹo lớp áo. Chú dừng lại và nhìn tôi.

“Sarah có biết gì về chuyện này không?” Tôi lắc đầu.

“Cháu sợ không dám nói với cô ấy. Cháu nghĩ nếu cháu kể thì cô ấy sẽ bắt cháu đi khỏi đây, và khi đó cháu sẽ không thể giúp cô ấy được nữa, và rồi sẽ không còn cách nào để cháu chuộc lại lỗi lầm. Và nếu cháu không thể chuộc lỗi, thì cháu không biết sẽ làm gì nữa. Cháu không thể lại bỏ trốn. Chẳng còn nơi nào để đi nữa cả. Cháu đã nhận ra con người thật của mình và cháu không thích con người đó. Cháu cũng giống chú Andrew. Cháu cũng giống chú. Cháu đã cố gắng cứu bản thân mình. Xin chú làm ơn cho cháu biết, cháu có thể đến đâu để tị nạn điều đó?” Lawrence nhìn tôi trân trối.

“Việc cháu đã làm là tội ác,” chú nói. “Giờ tôi không còn lựa chọn nữa. Tôi phải đi báo cảnh sát.”

Tôi bật khóc. “Xin chú, đừng đi báo cảnh sát. Họ sẽ bắt cháu đi. Cháu chỉ muốn giúp cô Sarah thôi. Chú không muốn giúp cô Sarah sao?”

“Tôi yêu Sarah, vì vậy đừng lên mặt dạy đời tôi về việc giúp cô ấy. Cháu có thực sự nghĩ rằng việc cháu đến đây là có ích không?”

Lúc này tôi đã khóc nức nở. “Làm ơn đi,” tôi nói. “Làm ơn đi chú.”

Nước mắt chảy dài xuống mặt tôi. Lawrence nện tay xuống bàn.

“Mẹ kiếp!”

“Cháu xin lỗi, chú Lawrence, cháu xin lỗi.” Lawrence đập tay lên trán.

“Ôi, con nhỏ khốn kiếp,” chú nói. “Tôi không thể đi báo cảnh sát được. Tôi không thể để Sarah biết được chuyện này. Cô ấy đã đủ điên đầu về toàn bộ chuyện này rồi. Nếu cô ấy biết cháu có mặt khi Andrew chết, cô ấy sẽ không để yên đâu. Và khi đó chuyện của tôi và cô ấy sẽ kết thúc, đương nhiên là như thế. Tôi không thể đi báo cảnh sát mà không để Linda phát hiện ra. Chuyện này sẽ xuất hiện khắp nơi trên báo chí. Nhưng tôi thậm chí còn không muốn nghĩ làm sao tôi có thể ở bên cạnh Sarah khi tôi biết chuyện này còn cô ấy thì không. Và còn cảnh sát nữa chứ! Mẹ kiếp! Nếu tôi không báo cảnh sát thì tôi cũng có tội như cháu. Nhỡ chuyện này lộ ra và họ nhận ra tôi đã biết hết thì sao? Tôi là người đã ngủ với vợ của người chết, khốn nạn thật. Tôi có động cơ. Tôi có thể vào tù. Nếu tôi không nhấc điện thoại lên gọi cảnh sát, ngay lúc này, thì tôi có thể vào tù vì cháu đấy, Ong Nhỏ ạ. Cháu hiểu chuyện đó không? Tôi có thể vào tù vì cháu trong khi tôi còn không biết tên thật của cháu.”

Tôi úp hai bàn tay mình lên tay Lawrence và ngước lên nhìn chú. Tôi không thể thấy được chú, chỉ là một hình ảnh nhạt nhòa ngược sáng, nhòe nước mắt.

“Làm ơn đi chú. Cháu phải ở lại đây. Cháu phải bù đắp cho những gì cháu đã gây ra. Làm ơn đi, chú Lawrence. Cháu sẽ không nói gì về chú và cô Sarah, và chú cũng không được nói gì về cháu. Cháu xin chú cứu cháu. Cháu xin chú cứu mạng cháu.”

Lawrence cố tìm cách rút tay ra nhưng tôi quyết nắm chặt. Tôi dụi trán lên cánh tay chú.

“Làm ơn đi,” tôi nói. “Chúng ta có thể làm bạn. Chúng ta có thể cứu nhau.”

“Ôi, Chúa ơi,” chú khẽ nói, “ước gì cháu đừng kể những chuyện này cho tôi nghe.”

“Chú bắt cháu kể cho chú mà, chú Lawrence. Cháu xin lỗi. Cháu biết cháu đang đòi hỏi chuyện gì ở chú. Cháu biết chú sẽ tổn thương khi phải giấu sự thật trước cô Sarah. Với cháu, như thế cũng chẳng khác nào chặt ngón tay của chú vậy.”

Lawrence kéo bàn tay ra khỏi tay tôi. Sau đó chú rút hẳn tay về. Tôi ngồi ở bàn, nhắm mắt lại và cảm thấy da trán nơi mới tựa vào cánh tay chú ấy ngứa ngáy. Tôi im lặng trong nhà bếp, và chờ đợi. Tôi không biết tôi chờ đợi bao lâu. Tôi chờ đến khi nước mắt cạn khô và nỗi sợ trong tôi tan biến, chỉ còn lại sự yên lặng, nỗi khốn khổ ứ đọng khiến đầu và nhãn cầu tôi nhức nhối. Khi đó, trong đầu tôi chẳng còn suy nghĩ nào nữa. Tôi chỉ chờ đợi mà thôi.

Và rồi tôi cảm thấy bàn tay Lawrence đặt trên má tôi. Chú dùng hai tay nâng niu khuôn mặt tôi. Tôi không biết mình nên đẩy tay chú ra hay đặt tay mình lên đó. Chúng tôi để yên như thế một lúc và hai tay Lawrence run rẩy trên má tôi. Chú nâng mặt tôi lên, khiến tôi phải nhìn vào mắt chú.

“Tôi ước gì có thể làm cháu biến mất,” chú nói. “Nhưng tôi chẳng là gì cả. Tôi chỉ là một công chức quèn. Tôi sẽ không báo cảnh sát về cháu. Với điều kiện cháu phải giữ im lặng. Nhưng nếu cháu kể cho ai, bất kì ai, về Sarah và tôi, hoặc nếu cháu kể cho ai, bất kì ai, về chuyện xảy ra với Andrew, tôi sẽ đưa cháu lên máy bay về Nigeria, tôi thề đấy.”

Tôi thở một hơi dài và sâu.

“Cám ơn chú,” tôi thì thầm.

Giọng Sarah vọng lên từ trên lầu. “Ai nói con được xem ti vi thế, Batman?”

Lawrence rút tay khỏi mặt tôi và đi pha thêm trà. Sarah đi vào nhà bếp. Cô đang ngáp, đôi mắt cô nhíu lại trước ánh nắng. Charlie đi cùng cô, nắm tay mẹ.

“Tôi cũng cần cho hai người biết các luật lệ,” Sarah nói, “vì cả hai đều mới đến đây. Các siêu anh hùng, đặc biệt là các hiệp sĩ bóng tối, không được xem ti vi trước khi ăn sáng. Phải không nào, Batman?”

Charlie nhe răng cười với mẹ rồi lắc đầu.

“Đúng rồi,” Sarah nói. “Bánh ngô dơi hay bánh mì dơi nướng?”

“Bánh mì dơi nướng,” Charlie đáp.

Sarah đi đến máy nướng bánh mì và đặt vào hai lát bánh mì. Lawrence và tôi, cả hai chỉ đứng nhìn cô. Sarah quay lại.

“Mọi việc ở đây ổn hết chứ?” Cô hỏi và nhìn tôi. “Cháu đang khóc à?”

“Không sao đâu ạ,” tôi đáp. “Sáng nào cháu cũng khóc.”

Sarah nhíu mày nhìn Lawrence. “Em cứ tưởng anh trông chừng cô bé.”

“Dĩ nhiên rồi,” Lawrence nói. “Ong Nhỏ và anh đang làm quen với nhau mà.”

Sarah gật đầu. “Tốt,” cô nói. “Vì chúng ta thực sự phải giải quyết được chuyện này. Hai người đều biết thế mà, phải không?”

Cô nhìn từng người chúng tôi rồi lại ngáp, và duỗi hai tay. “Sự khởi đầu mới,” cô nói.

Tôi nhìn Lawrence và Lawrence nhìn tôi.

“Bây giờ,” Sarah nói. “Em sẽ đưa Charlie đi nhà trẻ, sau đó chúng ta có thể truy tìm giấy tờ của Ong Nhỏ. Trước tiên chúng ta sẽ tìm cho cháu một luật sư. Cô biết một người rất giỏi mà tạp chí cô thỉnh thoảng nhờ đến.” Sarah mỉm cười, rồi đi đến chỗ Lawrence.

“Còn về phần anh,” cô nói, “em sẽ tìm một ít thời gian để cám ơn anh đã đến từ tận Birmingham.”

Cô đặt bàn tay lên khuôn mặt Lawrence, nhưng sau đó tôi nghĩ cô nhớ ra rằng Charlie còn ở trong phòng, vì vậy cô chỉ phớt bàn tay lên vai chú ấy. Tôi đi vào phòng cạnh bên để xem bản tin truyền hình không có tiếng.

Phát ngôn viên trông rất giống chị tôi. Tim tôi tràn ngập những điều muốn nói. Nhưng ở đất nước bạn, bạn không thể nói lại với bản tin truyền hình.