- 9 -
Sarah phải quyết định một việc rất trọng đại tại chỗ làm, vì thế cô nghỉ một ngày. Buổi sáng, cô nói với tôi, Lawrence và Charlie: Lên đường nào, chúng ta sẽ làm một chuyến phiêu lưu. Tôi rất vui vì Sarah mỉm cười. Tôi cũng vui vì đã lâu rồi tôi không phiêu lưu.
Thế nào là một chuyến phiêu lưu? Còn tùy thuộc vào nơi bạn xuất phát. Những bé gái ở đất nước bạn, chúng nấp trong khoảng trống giữa máy giặt và tủ lạnh, giả vờ như đang ở trong rừng, tưởng tượng đủ thứ rắn lục và khỉ xung quanh. Tôi và chị tôi, chúng tôi thường nấp ở một khoảng trống trong rừng, xung quanh là rắn lục và khỉ, rồi giả vờ như chúng tôi đang ở giữa một chiếc máy giặt và tủ lạnh. Bạn sống trong một thế giới toàn là máy móc và mơ đến những thứ có trái tim biết đập. Chúng tôi mơ đến các loại máy móc, vì chúng tôi nhìn thấy những trái tim biết đập đưa chúng tôi đến đâu.
Khi tôi và chị Nkiruka còn bé, chúng tôi thường đến một nơi trong khu rừng gần làng, một nơi bí mật, và ở đó chúng tôi chơi dựng nhà. Lần cuối cùng chị em tôi tham gia chuyến phiêu lưu đó là khi chị tôi được mười tuổi, còn tôi tám tuổi. Chúng tôi đều đã quá lớn để chơi trò trẻ con này và cả hai đều biết như thế, nhưng chúng tôi quyết định sẽ mơ mộng lần cuối cùng để có thể khắc ghi nó vào tâm khảm, trước khi tỉnh giấc mãi mãi.
Chúng tôi rón rén ra khỏi làng khi đêm đã hoàn toàn yên tĩnh. Đó là một năm trước khi rắc rối với dầu mỏ phát sinh, và bốn năm trước khi chị tôi bắt đầu cười duyên với những anh chàng lớn hơn, nên bạn có thể hình dung được rằng đó là thời điểm yên bình ở làng tôi. Không có lính canh trên con đường cuối làng, chúng tôi đi ra mà chẳng bị ai tra hỏi đi đâu. Tuy nhiên, chúng tôi cũng không đi ngay. Đầu tiên phải đợi cho cả làng say giấc. Việc này mất nhiều thời gian hơn bình thường vì hôm ấy trăng tròn, ánh trăng sáng rực chiếu lên những mái nhà kim loại và lấp lánh trong chậu nước mà tôi và chị Nkiruka dùng để rửa mặt trong phòng. Mặt trăng khiến lũ chó và người già mất ngủ. Tiếng chó sủa, tiếng người càu nhàu vang vọng nhiều giờ trước khi ngôi nhà cuối cùng chìm vào yên tĩnh.
Tôi và chị Nkiruka nhìn qua cửa sổ đến khi mặt trăng đạt kích thước cực đại, to đến nỗi choán hết khung cửa sổ. Chúng tôi thấy được khuôn mặt của người ngồi trong trăng, gần đến mức thấy được cả nỗi hoang mang trong mắt người ấy. Mặt trăng làm mọi thứ tỏa sáng rực rỡ đến độ trông như ban ngày, nhưng không phải một ngày bình thường mà là một ngày kì quặc, một ngày tăng thêm, như ngón chân thứ sáu của con mèo hoặc như bức mật thư giấu giữa quyển sách mà bạn đã đọc đi đọc lại nhiều lần song vẫn không hề phát hiện ra. Mặt trăng soi sáng cây limba, óng ánh trên chiếc Peugeot hỏng, lóng lánh trên bóng ma chiếc Mercedes. Mọi thứ bừng lên trong ánh sáng đêm nhạt nhòa. Đó là khi chị Nkiruka và tôi bước vào màn đêm.
Các loài vật và chim chóc hành động thật kì lạ. Đàn khỉ không la hét, lũ chim đêm cũng bặt tiếng. Chúng tôi tiến đến khu rừng trong sự lặng im như tờ đó, tôi không nói đùa đâu, hệt như những đám mây bạc tí hon trôi ngang qua mặt trăng đang nghiêng xuống trái đất và thì thầm, Suỵt. Đôi mắt chị Nkiruka khi nhìn sang tôi vừa sợ hãi vừa phấn khích. Chúng tôi nắm tay nhau đi bộ qua những cánh đồng khoai mì đến bìa rừng. Những con đường đất đỏ nằm giữa những hàng khoai mì sáng lên dưới ánh trăng như những chiếc xương sườn của người khổng lồ. Khi chúng tôi đến rừng, bốn bề tối đen, im phăng phắc.
Chúng tôi không nói chuyện, chỉ lầm lũi tiến vào rừng trước khi đổi ý vì quá sợ. Chúng tôi đi một lúc lâu, con đường hẹp dần, lá cây và cành cây khép lại mỗi lúc một kín đến khi chúng tôi phải đi thành hàng một. Cành lá bắt đầu đan chặt trên đường vì thế chúng tôi phải đi lom khom. Chẳng mấy chốc chúng tôi không thể đi được nữa. Chị Nkiruka nói, Đường này không đúng rồi, chúng ta phải quay lại thôi, và thế là chúng tôi quay lại. Nhưng vào lúc đó, chúng tôi nhận ra nơi mình đứng không phải là một con đường, vì các cành lá và cây cối vẫn còn thít chặt xung quanh. Chúng tôi đi tiếp trên một lối đi nhỏ, ngoằn ngoèo quanh các gốc cây, nhưng rồi sớm nhận ra mình đã đi lạc.
Trong rừng tối đen như mực, bàn tay giơ trước mặt không thấy ngón tay. Chúng tôi ôm chặt lấy nhau để không bị lạc. Giờ đây chúng tôi đã nghe thấy quanh mình tiếng di chuyển sột soạt của những loài vật dưới đất. Dĩ nhiên đó là những con vật rất nhỏ, như chuột cống, chuột chù và lợn rừng, nhưng trong đêm tối, chúng trở nên khổng lồ, to như nỗi sợ của chúng tôi và không ngừng lớn lên. Chúng tôi chẳng còn tâm trạng đâu mà giả vờ như có tủ lạnh với máy giặt. Đó là đêm mà những thiết bị như thế chẳng giúp ích được gì.
Tôi bật khóc vì bóng đêm vây kín, và nghĩ rằng nó sẽ không bao giờ kết thúc. Nhưng chị Nkiruka ôm chặt lấy tôi rồi vừa đung đưa tôi vừa thì thầm, Em đừng buồn, em gái nhỏ. Tên chị là gì nào? Qua làn nước mắt, tôi đáp, Tên chị là Nkiruka. Chị tôi xoa đầu tôi rồi nói, Đúng rồi. Tên chị có nghĩa là “tương lai tươi sáng.” Em thấy chưa? Nếu nó không đúng, liệu bố mẹ có đặt tên này cho chị không? Chỉ cần em ở bên cạnh chị, em gái ạ, bóng tối sẽ không kéo dài mãi mãi đâu. Khi đó tôi nín khóc, rồi nhắm mắt tựa đầu lên vai chị để ngủ.
Tôi tỉnh giấc trước chị Nkiruka. Tôi thấy lạnh, lúc đó trời còn sớm tinh mơ. Chim chóc đang thức. Ánh sáng nhạt nhòa bao trùm chúng tôi, một ánh sáng mỏng màu xanh-xám. Xung quanh chúng tôi là những cây dương xỉ thấp và những loại dây leo dưới đất, sương đọng long lanh trên lá. Tôi đứng dậy và bước tới vài bước, vì ánh sáng ở hướng đó dường như mạnh hơn. Tôi đẩy một cành cây thấp là đà sang một bên, và khi đó tôi trông thấy nó. Có một chiếc xe jeep rất cũ trong bụi cây. Lốp xe đã rữa nát chẳng còn hình thù gì, từ vòm bánh xe mọc ra các loại dây leo và dương xỉ. Yên xe bằng nhựa màu đen rách bươm, những vòng lò xo ngắn gỉ sét thò ra khỏi nệm. Đầu xe quay về phía cách xa tôi. Tôi tiến lại gần.
Tôi thấy khu rừng và chiếc jeep đã mọc lên cùng nhau, vì thế không thể biết được đâu là nơi cái này kết thúc và cái kia bắt đầu– rừng mọc ra từ xe, hay xe mọc ra từ rừng. Lá mục qua nhiều mùa phủ kín gầm để chân của chiếc jeep, toàn bộ phần kim loại của xe đã ngả sang màu đen sậm như màu của đất và lá rụng. Nằm vắt ngang qua hàng ghế trước là một bộ xương người. Thoạt đầu tôi không nhận ra vì bộ xương mặc quần áo giống màu lá, nhưng bộ quần áo rách rưới mục nát đã làm nổi bật những khúc xương trắng hếu trong ánh nắng sớm. Trông như bộ xương mệt mỏi vì phải lái xe và đã nằm xuống trên hàng ghế phía trước để ngủ. Chiếc sọ nằm trên bảng đồng hồ, cách xa một chút với phần còn lại của bộ xương. Ông ta đang nhìn lên một mảng trời sáng bé nhỏ phía trên chúng tôi thông qua một khoảng trống trong vòm rừng. Tôi biết thế vì trên sọ đeo một cặp kính mát và bầu trời phản chiếu qua một tròng kính. Một con ốc sên vừa bò lên tròng kính của ông ta và ăn hết rêu xanh, bụi bẩn trên đó, bầu trời phản chiếu qua vệt đường đi sáng bóng mà con vật để lại trên kính. Giờ thì con ốc đã bò đến một nửa gọng kính. Tôi đến gần hơn để quan sát. Cặp kính có gọng mỏng mạ vàng. Ở góc tròng kính phản chiếu bầu trời, con ốc đã bò ngang qua nơi có dòng chữ Ray-Ban. Tôi cứ ngỡ đấy là tên của người đàn ông, vì tôi còn bé, những phiền muộn cuộc đời chưa tìm đến tôi, và tôi vẫn chưa hiểu rằng phải có lý do thì người ta mới mang một cái tên không phải của mình.
Tôi đứng nhìn xuống sọ của Ray Ban một lúc lâu, ngắm nghía khuôn mặt mình phản chiếu trong tròng kính của ông ta. Tôi thấy mình đứng giữa cảnh sắc của quê hương: một đứa con gái cạnh những thân cây cao sậm màu và một mảng ánh sáng. Tôi nhìn trân trối rất lâu, chiếc sọ không quay đi chỗ khác, tôi cũng không, và tôi hiểu rằng cuộc đời tôi sẽ luôn luôn như thế này.
Sau vài phút, tôi quay về chỗ chị Nkiruka. Cành lá lần lượt khép lại sau lưng tôi. Tôi không hiểu tại sao chiếc xe jeep lại ở đó. Tôi không biết rằng ba mươi năm trước, ở đất nước tôi từng có chiến tranh. Cuộc chiến, những con đường, những trật tự - mọi thứ từng đưa chiếc xe jeep đến nơi đó đều đã bị rừng xanh vây kín. Lúc đó tôi tám tuổi, và tôi nghĩ chiếc xe jeep đã mọc lên từ mặt đất, như những cây dương xỉ và những cây cao xung quanh chúng tôi. Tôi nghĩ nó đã mọc lên hết sức tự nhiên từ đất đỏ quê tôi, mộc mạc như khoai mì. Và tôi biết rằng tôi không muốn chị tôi nhìn thấy nó.
Tôi lần theo dấu chân mình trở về nơi chị Nkiruka đang nằm ngủ. Tôi vuốt má chị. Dậy đi, tôi nói. Ánh sáng quay lại rồi. Chúng ta có thể tìm đường về nhà rồi. Chị Nkiruka mỉm cười với tôi và ngồi dậy. Chị dụi mắt cho tỉnh ngủ. Đấy, chị nói. Chẳng phải chị đã bảo với em rằng bóng tối sẽ không kéo dài mãi mãi đó sao?
“Mọi việc ổn chứ?” Sarah hỏi.
Tôi chớp mắt, nhìn quanh nhà bếp. Từ những bức tường trắng sạch tinh khôi và bàn ăn trong bếp, tôi thấy những sợi dây leo rút dần về các góc tối của căn phòng.
“Trông cháu như đang ở cung trăng ấy.”
“Cháu xin lỗi,” tôi đáp. “Cháu vẫn chưa tỉnh ngủ.”
Sarah mỉm cười. “Khi nãy cô vừa nói chúng ta hãy làm một chuyến phiêu lưu.”
Charlie ngước lên nhìn mẹ.
“Có phải chúng ta là đi thành phố Gotham không mẹ?” Nó hỏi.
Sarah bật cười. “Có phải chúng ta sẽ đi. Không, Batman ạ, chúng ta chỉ đi chơi công viên thôi.”
Charlie đổ vật ra sàn nhà. “Không muốn đi công viên đâu.”
Tôi quỳ xuống cạnh nó. “Batman à,” tôi dỗ dành. “Trong công viên có cây xanh này, và có rất nhiều cành cây khô ở dưới đất nữa.”
“Thì sao?”
“Thì, chúng ta có thể xây thành phố Gotham ở đấy, bằng cành cây khô.”
Charlie gãi đầu ở phía sau tai dơi. “Bằng cần cẩu dơi của em ư?”
“Và sức mạnh đặc biệt của em nữa.”
Charlie cười tít mắt. “Em muốn đi công viên NGAY!”
“Vậy thì đi thôi, chàng dũng sĩ tí hon của mẹ,” Sarah nói. “Chúng ta cùng lên Xe Dơi nào.”
Lawrence ngồi ở phía trước cùng Sarah, còn tôi ngồi ở ghế sau với Charlie. Chúng tôi lái xe qua cổng công viên Richmond, lên một ngọn đồi dốc. Ở hai bên con đường hẹp, những ngọn cỏ xanh vươn cao đung đưa trong gió, lũ nai ngẩng đầu lên nhìn chúng tôi. Sarah đỗ xe trong bãi xe công viên, cạnh một chiếc xe tải bán kem.
“Không, Batman ạ,” Sarah nói. “Trước khi con hỏi, câu trả lời là không.”
Khi chúng tôi đi vào công viên, Charlie níu tay mẹ, ngoái lại nhìn xe kem. Công viên không đông lắm, chúng tôi đi dọc theo một con đường mòn đến một khu đất rào lại có tên Vườn thực vật Isabella. Bên trong có cơ man nào là bụi cây uốn cong chằng chịt.
“Đỗ quyên đẹp quá,” Sarah thốt lên.
Dưới những cành đỗ quyên mềm mại uốn khúc, bóng râm thật dịu mát. Ngoài trời nóng hừng hực. Chúng tôi dừng lại trên một bãi cỏ cắt tỉa gọn gàng, cạnh một hồ nước nhỏ có đàn vịt đang bơi lội tung tăng. Sarah trải một chiếc khăn dưới bóng râm một cái cây có vỏ màu đỏ đang lột ra, với một tấm biển bằng đồng ghi tên của nó. Vườn thực vật Isabella lặng không chút gió. Mặt hồ đọng một lớp váng dầu mướt rượt. Bầu trời phản chiếu trên mặt nước. Nước và trời kéo dài ra để gặp nhau tại một đường thẳng lãng đãng khói sương và lung linh mờ ảo. Những con cá to bơi trong hồ nhưng không khuấy động mặt nước. Bạn chỉ có thể thấy những vòng tròn lăn tăn nơi chúng bơi qua. Tôi nhìn Sarah, cô nhìn lại tôi và chúng tôi nhận ra mình không cười nổi.
“Cô xin lỗi,” cô nói. “Cảnh tượng này khiến cháu nhớ đến bãi biển, phải không?”
“Không sao đâu ạ,” tôi đáp. “Chỉ là nước thôi mà.”
Chúng tôi ngồi trên tấm khăn trải. Không khí trong bóng râm thật mát mẻ và bình yên. Khắp nơi trên bãi cỏ, các gia đình đang kéo đến và tìm chỗ ngồi để tận hưởng ngày nghỉ. Một trong những gia đình đó khiến tôi phải nhìn đến hai lần. Có một ông bố, một bà mẹ và một cô con gái nhỏ, người bố đang làm ảo thuật với một đồng xu để làm cô con gái cười. Ông ta ném đồng xu lên cao và tôi thấy nó tung lên trời xanh, ánh mặt trời lấp lánh trên đồng xu và lấp lánh trên khuôn mặt Nữ hoàng nước Anh in trên đồng xu – môi bà mấp máy, Chúa ơi, trông như chúng ta sắp rơi rồi - và nó rơi trở lại vào tay người đàn ông, bàn tay ông ta nắm lại, bàn tay có màu rất sậm, sậm hơn cả màu da của tôi. Con gái ông ta cười thích thú, cố cạy những ngón tay của bố ra, da con bé sáng hơn da bố - nó có màu của những cành cây mà Charlie đang chạy tới chạy lui để nhặt. Còn người mẹ, cô ấy cũng cười, và giúp con gái cạy tay bố ra, da của người mẹ trắng như da của Sarah.
Tôi sẽ không buồn cố gắng giải thích chuyện này với lũ con gái ở quê tôi vì chúng sẽ không tin. Nếu tôi kể với chúng rằng: có một nơi mà trẻ con sinh ra từ bố mẹ da trắng và da đen, họ nắm tay nhau trong công viên và cười cùng nhau, chúng sẽ chỉ lắc đầu và nói, Cô nàng biết tuốt lại bịa chuyện rồi.
Nhưng tôi nhìn quanh nơi đó và nhận ra còn có những gia đình khác cũng giống như thế. Đa số đều da trắng, nhưng cũng có vài người da đen, và số người da màu cũng nhiều tương đương số người da đen. Tôi mỉm cười khi thấy điều này. Tôi tự nhủ, Ong Nhỏ, ở nơi này không có họ. Những con người hạnh phúc này, những người lai vừa là thế này vừa là thế khác, những người ấy chính là mày. Sẽ không có ai nhớ mày và không có ai đi tìm mày. Vậy điều gì ngăn mày mở lòng ra để bước vào đất nước hỗn hợp này và trở thành một phần của nó? Tôi tự nhủ, Ong Nhỏ, có lẽ đó chính là điều mày nên làm.
Charlie đang níu tay tôi. Nó muốn xây thành phố Gotham ngay, vì thế chúng tôi cùng nhau đi đến bìa khu rừng đỗ quyên. Có rất nhiều cành cây nhẵn nhụi nhạt màu rơi xuống đó. Chúng tôi làm việc mất một lúc lâu. Chúng tôi xây tháp, xây cầu, rồi lại xây đường sá, đường ray xe lửa và trường học. Sau đó chúng tôi xây một bệnh viện cho những siêu anh hùng bị thương và một bệnh viện cho những con thú bị thương, vì Charlie nói thành phố của nó cần những thứ này. Charlie tập trung rất cao độ. Tôi hỏi nó, “Em có muốn cởi bộ đồ Batman ra không?” Nhưng nó lắc đầu.
“Chị lo cho em lắm. Em sẽ kiệt sức dưới cái nóng thế này. Thôi nào, em mặc bộ đồ đấy không thấy nóng hay sao?”
“Có, nhưng nếu em không là mặc đồ này thì em không là Batman.”
“Em có cần lúc nào cũng làm Batman không?”
Charlie gật đầu. “Có, vì nếu em không luôn luôn thì là Batman thì bố em sẽ chết.”
Charlie nhìn xuống đất. Nó cầm một cành cây trong tay, siết chặt đến nỗi tôi thấy được những đốt xương trắng nhỏ lộ lên dưới ngón tay nó.
“Charlie này. Em nghĩ bố em chết vì em không phải là Batman ư?”
Charlie nhìn lên. Qua hai hố mắt đen của chiếc mặt nạ dơi, tôi thấy thằng bé đang rơi nước mắt.
“Lúc đấy em đang ở nhà trẻ của em,” nó đáp. “Đó là lúc bố em bị kẻ xấu tấn công.”
Môi nó giật giật. Trong lúc Charlie mếu máo, tôi kéo nó lại gần và ôm nó vào lòng. Qua vai Charlie, tôi nhìn chăm chú vào những đường hầm tối tăm lạnh lẽo nằm lù lù giữa những rễ cây đỗ quyên đan móc vào nhau. Tôi nhìn vào màu đen nhưng chỉ thấy Andrew xoay vòng vòng chậm rãi quanh sợi dây điện, đôi mắt dán chặt vào tôi ở mỗi vòng xoay. Ánh mắt của chú là ánh mắt của những đường hầm đen kịt đó: chúng không có điểm dừng.
“Nghe này, Charlie. Bố của em chết không phải vì em không có mặt ở đó. Đó không phải là lỗi của em. Em có hiểu không? Em là một cậu bé ngoan, Charlie ạ. Đó hoàn toàn không phải là lỗi của em.”
Charlie vùng ra khỏi tay tôi rồi nhìn tôi.
“Tại sao bố của em chết?” Tôi suy nghĩ một lúc.
“Những kẻ xấu hại ông ấy, Charlie ạ. Nhưng đó không phải là những kẻ xấu mà Batman có thể đánh bại. Chúng là những kẻ xấu mà bố em phải tự chiến đấu trong lòng và chị phải tự chiến đấu trong lòng. Chúng là kẻ xấu từ bên trong.”
Charlie gật đầu. “Có nhiều không?”
“Nhiều gì cơ?”
“Kẻ xấu ở bên trong?”
Tôi nhìn vào những đường hầm tối và rùng mình.
“Chị nghĩ ai cũng có chúng cả.”
“Chúng ta có đánh bại được chúng không?”
Tôi gật đầu. “Tất nhiên.”
“Và chúng sẽ không hại em, phải không?”
Tôi mỉm cười. “Đúng rồi, Charlie ạ. Chị nghĩ những kẻ xấu ấy sẽ không bao giờ hại được em.”
“Và chúng cũng sẽ không hại chị, phải không?”
Tôi thở dài. “Charlie à, ở công viên này không có kẻ xấu. Chúng ta đến đây để đi chơi. Chắc là em có thể nghỉ làm Batman một ngày đấy.”
Charlie chĩa cây gậy của nó về phía tôi và nhíu mày, như thể câu tôi vừa nói là một chiêu mà kẻ thù của nó thường dùng.
“Batman luôn luôn là Batman,” nó nói.
Tôi bật cười, chúng tôi lại tiếp tục xây nhà bằng cành cây. Tôi đặt một cành dài màu xương trắng trên một đống cành mà Charlie nói là bãi Xe Dơi nhiều tầng.
“Đôi khi chị ước gì mình có thể nghỉ làm Ong Nhỏ một ngày,” tôi nói.
Charlie ngước lên nhìn tôi. Một giọt mồ hôi rơi xuống trong chiếc mặt nạ dơi. “Tại sao?”
“À, em biết không, trở thành Ong Nhỏ rất khó. Chị phải trải qua rất nhiều chuyện. Chị bị nhốt trong trại giam và phải tập cho mình suy nghĩ theo một cách nhất định, phải mạnh mẽ, và phải nói ngôn ngữ của em giống như cách người dân nước em nói vậy. Giờ đây chỉ sống bình thường thôi cũng là một nỗ lực lớn đối với chị. Vì em biết không, bên trong chị chỉ là một cô gái quê. Chị muốn được làm gái quê trở lại và làm những việc mà các cô gái quê thường làm. Chị muốn cười đùa, làm duyên với những anh chàng lớn hơn. Chị muốn làm những điều ngớ ngẩn khi trăng tròn. Và quan trọng hơn hết, em biết không, chị muốn dùng tên thật của mình.”
Charlie chựng lại, giữ thanh gươm bất động trong không trung.
“Nhưng Ong Nhỏ là tên thật của chị mà,” nó nói.
Tôi lắc đầu. “Mmm-mmm. Ong Nhỏ chỉ là biệt danh siêu anh hùng của chị thôi. Chị cũng có tên thật, như em có tên Charlie vậy.” Charlie gật đầu.
“Tên thật của chị là gì?” Nó hỏi.
“Chị sẽ nói cho em biết tên thật của chị nếu em chịu cởi bộ đồ Batman ra.”
Charlie nhíu mày. “Thật ra, em phải mặc bộ đồ Batman của em mãi mãi,” nó nói.
Tôi mỉm cười. “Được thôi, Batman. Có lẽ để lần khác vậy.”
Charlie bắt đầu xây một bức tường giữa khu rừng và ngoại ô thành phố Gotham.
“Mmm,” nó ậm ừ.
Một lúc sau, Lawrence đến chỗ chúng tôi.
“Chú sẽ xây tiếp cho. Cháu đến xem có thể nói chuyện lý lẽ với Sarah được không?”
“Tại sao, có chuyện gì ạ?”
Lawrence lật hai bàn tay ra trước, rồi thổi phù một hơi làm tóc bay lên. “Thì cháu cứ đến gặp cô ấy đi, được không?”.
Tôi bước về phía tấm khăn trải dưới bóng râm. Sarah đang ngồi đấy, hai tay bó gối.
“Thật tình,” cô nói khi vừa trông thấy tôi, “cái gã khốn kiếp ấy.”
“Chú Lawrence ạ?”
“Đôi khi cô cũng chẳng biết thiếu chú ấy thì cô có làm được gì ra hồn hay không. Ôi, ý cô không phải thế, tất nhiên là không phải thế. Nhưng thật tình. Cô không có quyền nói về Andrew hay sao?”
“Cô chú cãi nhau ạ?” Sarah bật cười.
“Cô nghĩ Lawrence vẫn không vui về sự có mặt của cháu. Điều đó khiến chú ấy khó chịu.”
“Cô đã nói gì, về chú Andrew?”
“Cô bảo rằng cô đã soạn phòng làm việc của Andrew tối hôm qua. Cháu biết đấy, xem lại hồ sơ tài liệu của chú ấy. Cô chỉ muốn xem mình cần phải thanh toán các hóa đơn nào, kiểm tra xem bọn cô còn nợ tiền thẻ nào không, đại loại thế.”
Cô nhìn tôi. “Vấn đề là, hóa ra Andrew không ngừng suy nghĩ về chuyện đã xảy ra trên bãi biển. Cô tưởng chú ấy đã loại nó ra khỏi đầu, nhưng sự thật không phải như thế. Chú ấy đang nghiên cứu về nó. Trong phòng chú ấy phải có đến hơn hai mươi tập hồ sơ. Những tài liệu về Nigeria. Về các cuộc chiến tranh dầu mỏ, và nạn diệt chủng. Và… chà, cô không biết bao nhiêu người như cháu rốt cục đến được Vương quốc Anh sau những gì đã xảy ra với làng mạc của họ. Andrew có cả một tập hồ sơ đầy những tài liệu về tị nạn và trại giam.”
“Cô có đọc không?”
Sarah cắn môi. “Không nhiều lắm. Chú ấy thu thập đủ hồ sơ để đọc trong một tháng. Và chú ấy còn dán ghi chú vào từng tài liệu nữa. Rất tỉ mỉ. Rất Andrew. Lúc đó trời đã quá muộn, cô không thể ngồi xuống đọc từng trang được. Cháu nói họ giam cháu ở nơi đấy trong bao lâu hở Ong?”
“Hai năm ạ.”
“Cháu kể cho cô nghe trong đấy thế nào được không?”
“Tốt nhất thì cô không nên biết. Cháu vào đấy đâu phải là lỗi của cô.”
“Làm ơn đi. Kể cho cô nghe được không?”
Tôi thở dài, vì kí ức về nơi đó khiến tim tôi lại chùng xuống.
“Việc đầu tiên là cô phải viết câu chuyện của mình ra. Họ phát cho cô một mẫu đơn màu hồng để viết chuyện gì đã xảy ra với cô. Đây là cơ sở cho đơn xin tị nạn. Cả cuộc đời cô, cô phải viết gọn vào một tờ giấy. Có một đường kẻ màu đen viền quanh tờ giấy, nếu cô viết lấn ra khỏi đường kẻ thì đơn của cô không hợp lệ. Họ chỉ dành cho cô đủ chỗ để viết những chuyện buồn nhất từng xảy ra với cô. Đó là phần tệ nhất. Vì nếu cô không đọc được những điều đẹp đẽ đã xảy ra trong cuộc đời ai đó, làm sao cô còn quan tâm đến nỗi buồn của người ấy? Cô hiểu không? Vì thế người ta không thích những người tị nạn chúng cháu. Là vì họ chỉ biết những phần bi kịch trong cuộc đời chúng cháu, nên họ nghĩ chúng cháu là những người thê thảm. Cháu là một trong số hiếm hoi biết viết tiếng Anh, nên cháu viết đơn cho tất cả những người khác. Cô phải lắng nghe câu chuyện của họ và viết vừa vặn toàn bộ cuộc đời ấy vào bên trong đường kẻ, ngay cả cho những người phụ nữ to hơn một tờ giấy, cô hiểu không? Và sau đó, mọi người phải đợi đơn phúc trình của họ. Chúng cháu không có một thông tin nào. Đó là điều tồi tệ nhất. Ở đó chẳng có ai phạm tội, nhưng cô không biết liệu ngày mai cô có được thả ra hay không, hoặc tuần sau, hoặc không bao giờ. Trong đấy thậm chí có cả trẻ con, và chúng không thể nhớ cuộc đời của chúng trước khi bị giam cầm. Trên cửa sổ có chấn song. Họ cho chúng cháu tập thể dục ngoài trời mỗi ngày ba mươi phút, trừ những hôm trời mưa đúng vào giờ tập thể dục. Nếu cô bị đau đầu cô có thể xin một viên paracetamol, nhưng cô phải viết đơn xin trước hai mươi tư giờ. Có một mẫu đơn đặc biệt để điền vào. Và nếu cô muốn xin băng vệ sinh thì có một mẫu đơn khác. Có lần có một đoàn thanh tra đến trại giam. Bốn tháng sau, chúng cháu đọc được bản báo cáo thanh tra. Nó được ghim lên tấm bảng đề chữ THÔNG BÁO PHÁP LUẬT, ở cuối một hành lang không có người sử dụng, vì nó dẫn đến cửa thoát hiểm, mà cửa thoát hiểm thì bị khóa. Một cô gái tìm thấy bảng thông báo trong lúc cố tìm cửa sổ để nhìn ra ngoài. Báo cáo viết, Chúng tôi nhận thấy có quá nhiều thủ tục mang tính nhục mạ. Chúng tôi không nghĩ là có ai lại đi xin quá nhiều băng vệ sinh để làm gì.”
Sarah đưa mắt nhìn nơi mà Lawrence và Charlie đang cười đùa và đá cành cây vào nhau. Khi cô lên tiếng, giọng cô rất khẽ. “Cô nghĩ Andrew đang dự định viết một quyển sách. Cô nghĩ đó là lý do chú ấy thu thập những tài liệu ấy. Nếu chỉ dự định viết một bài báo hoặc đại loại như thế thì không cần nghiên cứu nhiều như vậy.”
“Và cô kể chuyện này cho chú Lawrence nghe à?”
Sarah gật đầu. “Cô nói cô nghĩ rằng có lẽ mình nên làm tiếp công việc của Andrew. Cháu biết đấy, đọc hết những ghi chú của chú ấy. Tìm hiểu thêm một chút về các trại giam. Thậm chí có thể tự viết quyển sách đấy, cô cũng chẳng biết nữa.”
“Vì vậy mà chú ấy nổi giận sao?”
“Chú ấy phát rồ lên.” Sarah thở dài. “Cô nghĩ chú ấy ghen với Andrew.”
Tôi chậm rãi gật đầu rồi hỏi, “Cô có chắc chắn là cô muốn sống với chú Lawrence không?” Cô nhìn tôi với ánh mắt quả quyết.
“Cô biết cháu sẽ nói gì với cô. Cháu sẽ nói với cô rằng chú ấy quan tâm đến bản thân nhiều hơn quan tâm đến cô. Cháu sẽ bảo cô cẩn thận với chú ấy. Và cô sẽ nói với cháu rằng đàn ông đều như thế cả, chỉ có điều cháu còn quá nhỏ để biết điều đó, và vì thế cháu và cô cũng sẽ cãi nhau, và sau đó cô thực sự sẽ trở nên cực kì đáng thương. Vậy nên đừng nói ra, được không?”
Tôi lắc đầu. “Không hẳn là như thế đâu, cô Sarah.”
“Cô không muốn nghe. Cô đã chọn Lawrence. Cô ba mươi hai tuổi rồi, Ong ạ. Nếu cô muốn có một cuộc sống ổn định cho Charlie, thì cô phải bắt đầu quyết tâm với những lựa chọn của mình. Cô đã không quyết tâm với Andrew, và giờ cô biết lẽ ra mình nên làm thế. Chú ấy là người tốt – cháu biết thế và cô cũng biết thế - và lẽ ra cô nên cố gắng hàn gắn quan hệ, dù nó không hoàn hảo. Nhưng giờ thì cô có Lawrence rồi. Và chú ấy cũng không hoàn hảo, cháu thấy không? Nhưng cô không thể cứ quay mặt bỏ đi.” Sarah hít một hơi sâu và run rẩy. “Đến một lúc nào đó cháu phải xoay người lại và đối diện với cuộc sống.”
Tôi co gối lên ngực và nhìn Lawrence chơi đùa với Charlie. Họ đang đi qua những con đường ở thành phố Gotham như những người khổng lồ, bước rầm rập giữa những tòa tháp cao, và Charlie vừa cười vừa hét toáng lên.
Tôi thở dài. “Chú Lawrence rất tốt với Charlie,” tôi nói.
“Có thế chứ,” Sarah nói. “Cám ơn cháu, vì đã cố gắng. Cháu là cô bé ngoan, Ong ạ.”
“Nếu cô biết mọi việc cháu đã làm, cô sẽ không nghĩ cháu ngoan nữa đâu.”
Sarah mỉm cười. “Cô nghĩ cô sẽ hiểu cháu nhiều hơn nếu cô viết quyển sách của Andrew.”
Tôi đặt hai tay lên đầu. Tôi nhìn vào những đường hầm tối dưới rừng đỗ quyên. Tôi nghĩ đến việc bỏ chạy và lẩn trốn. Trong những bụi rậm của công viên. Vào đêm trăng tròn trong rừng. Dưới những tấm ván của chiếc thuyền lật úp. Mãi mãi. Tôi nhắm nghiền mắt và muốn hét lên, nhưng không thành tiếng. “Cháu không sao chứ?”
“Vâng, cháu ổn ạ. Cháu chỉ thấy mệt thôi.”
“Được rồi. Nghe này, cô sẽ quay lại xe để gọi đến chỗ làm. Ở đây không có sóng.”
Tôi đi lại chỗ Charlie và Lawrence đang chơi đùa. Họ đang ném những cành cây vào rừng. Khi tôi lại gần, Charlie vẫn tiếp tục ném cây, nhưng Lawrence dừng lại và quay sang tôi.
“Thế nào?” Chú hỏi. “Cháu có thuyết phục được cô ấy đừng làm chuyện đó nữa không?”
“Đừng làm gì ạ?”
“Quyển sách của cô ấy. Cô ấy có ý tưởng sẽ hoàn tất quyển sách mà Andrew đang viết. Cô ấy không kể cho cháu nghe à?”
“Có ạ. Cô ấy có kể cho cháu nghe. Cháu không thuyết phục cô ấy đừng viết sách, nhưng cháu cũng không thuyết phục cô ấy bỏ chú.”
Lawrence cười. “Cô bé ngoan. Thấy chưa? Chúng ta cuối cùng cũng sẽ hòa thuận với nhau thôi. Cô ấy còn buồn không? Sao cô ấy không xuống đây với cháu?”
“Cô ấy đi gọi điện thoại.”
“Thảo nào.”
Chúng tôi đứng đấy một lúc lâu, nhìn nhau.
“Cháu vẫn nghĩ chú là tên khốn, phải không?”
Tôi nhún vai. “Cháu nghĩ gì đâu có quan trọng. Cô Sarah thích chú. Nhưng cháu ước gì chú đừng nói với cháu rằng cháu là cô bé ngoan nữa. Cả cô và chú. Đó là câu để khen con chó khi nó tha cành cây quay về.”
Lawrence nhìn tôi, và tôi cảm thấy buồn kinh khủng vì trong mắt chú ấy hoàn toàn trống rỗng. Tôi nhìn sang hồ nước, nơi đàn vịt đang bơi lội. Tôi nhìn và trông thấy ánh phản chiếu xanh ngắt của bầu trời. Tôi nhìn một lúc lâu, vì tôi hiểu rằng tôi đang nhìn vào cặp mắt của tử thần một lần nữa, và tử thần vẫn không nhìn đi nơi khác, tôi cũng không.
Rồi có tiếng chó sủa. Tôi giật bắn mình, mắt tôi dõi theo nơi tiếng động phát ra và trong tích tắc tôi cảm thấy nhẹ nhõm, vì tôi thấy lũ chó ở phía cuối bãi cỏ nơi chúng tôi đang đứng, chúng chỉ là những con chó kiểng lông vàng béo múp, được chủ dắt ra ngoài đi dạo. Rồi tôi thấy Sarah, vội vã quay trở lại con đường dẫn đến chỗ chúng tôi. Hai tay cô dang ra, một tay cầm điện thoại di động. Cô dừng lại cạnh chúng tôi, hít một hơi sâu, rồi mỉm cười. Cô đưa tay về phía cả hai chúng tôi, nhưng rồi lại do dự. Cô nhìn quanh nơi chúng tôi đang đứng.
“Ừm, Charlie đâu rồi?” Cô hỏi.
Cô hỏi rất khẽ, sau đó cô hỏi lại, to hơn, lần này nhìn chúng tôi.
Tôi nhìn khắp bãi cỏ rộng lớn. Ở hướng này có hai con chó vàng khi nãy vừa sủa. Chủ của chúng đang ném cành cây xuống hồ để chúng nhặt lại. Ở hướng ngược lại, có một rừng đỗ quyên rậm rạp. Nhìn qua những cành cây, những đường hầm tối trông như không có người.
“Charlie?” Sarah hét lên. “Charlie? Ôi, Chúa ơi. CHARLIE!”
Tôi chạy vòng vòng dưới ánh nắng bỏng rát. Chúng tôi chạy lên chạy xuống. Chúng tôi gọi tên Charlie. Chúng tôi gọi đi gọi lại. Charlie đã mất tích.
“Ôi Chúa ơi!” Sarah thốt lên. “Có người bắt nó rồi! Ôi Chúa ơi! CHARLIE!”
Tôi chạy băng qua khu rừng đỗ quyên, bò vào bóng râm mát rượi của nó, và nhớ lại bóng tối dưới tán rừng trong cái đêm tôi vào rừng cùng chị Nkiruka. Khi Sarah kêu gào gọi tên con trai, tôi mở to mắt nhìn vào bóng đen của những đường hầm và dán mắt vào chúng. Tôi nhìn thật lâu. Tôi thấy những cơn ác mộng của toàn bộ cuộc đời chúng tôi đã hoà lẫn vào nhau, vì thế không thể biết đâu là nơi cái này kết thúc và cái kia bắt đầu – rừng mọc ra từ xe jeep hay xe jeep mọc ra từ rừng.