- 10 -
Được thanks
Xem thông tin cá nhân
Có bài mới 13.10.2017, 09:17
Hình đại diện của thành viên
Nminhngoc1012
V.I.P
V.I.P
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36
Tuổi: 32 Nữ
Bài viết: 35935
Được thanks: 5478 lần
Điểm: 9.61
Có bài mới Re: [Trinh thám] Bàn tay cứu mạng - Chris Cleave - Điểm: 10
Tốc độ đọc truyện: 0.90x
(Đóng góp ý kiến về player nghe đọc truyện)
11
Cảnh sát có mặt sau mười lăm phút. Có tất cả ba người. Họ từ từ tiến đến, trong chiếc xe màu bạc có sọc xanh và cam chạy ngang thân xe và một bộ đèn dài trên nóc xe. Họ cho xe chạy dọc con đường đất đến cổng Vườn thực vật Isabella, nơi tôi đang đứng. Họ bước ra khỏi xe và đội mũ lên. Họ mặc áo sơ mi trắng cộc tay và áo khoác không tay dày màu đen có một dải sọc ca rô trắng đen. Chiếc áo khoác có nhiều túi, trong túi có dùi cui, máy bộ đàm, còng tay và những vật khác tôi không thể đoán được tên. Tôi thầm nghĩ, Charlie sẽ thích chuyện này cho mà xem. Những cảnh sát này có nhiều đồ nghề hơn cả Batman.
Nếu kể chuyện này cho lũ con gái ở quê, tôi sẽ phải giải thích rằng cảnh sát của Vương quốc Anh không mang súng.
“Ái chà chà! Không có súng á?”
“Không có súng.”
“Sao họ có thể mang theo tất cả những đồ nghề đó mà lại quên thứ quan trọng nhất được? Vậy thì làm sao bắn người xấu?”
“Họ không bắn người xấu. Thường mỗi khi nổ súng là họ sẽ gặp phiền phức đấy.”
“Ái chà chà! Thật là một vương quốc lộn đầu lộn đuôi, đàn bà con gái thì khoe vú trong khi cảnh sát lại không được khoe súng.”
Và tôi sẽ phải gật đầu rồi lặp lại với chúng, Phần lớn thời gian ở đất nước ấy tớ sống trong tâm trạng hoang mang như thế đấy.
Các cảnh sát đóng sầm cửa xe lại: rầm. Tôi rùng mình. Khi bạn là người tị nạn, bạn học cách chú ý đến những cánh cửa. Khi nào chúng mở ra; khi nào chúng đóng lại; âm thanh đặc biệt chúng tạo ra; bạn đang đứng ở phía nào của chúng.
Một cảnh sát tiến đến gần, trong khi hai người kia đứng nghểnh đầu để nghe bộ đàm gắn vào áo khoác của họ. Viên cảnh sát đi đến chỗ tôi, anh ta không lớn hơn tôi là bao, tôi nghĩ thế. Anh ta rất cao, mái tóc hung lộ ra dưới mũ. Tôi cố gắng mỉm cười với anh ta, nhưng không thể. Tôi quá lo lắng về Charlie đến nỗi đầu tôi cứ ong ong. Tôi sợ rằng tiếng Anh Nữ hoàng của tôi sẽ chẳng ra ngô ra khoai gì. Tôi cố gắng trấn tĩnh.
Nếu viên cảnh sát này tỏ ra nghi ngờ tôi, anh ta có thể gọi điện đến những người làm ở phòng nhập cư. Rồi một người ở đó sẽ bấm vào một phím trên máy tính của họ, đánh dấu vào một ô trên tập tin của tôi và tôi sẽ bị trục xuất. Tôi sẽ chết, nhưng sẽ không có ai phải nổ súng. Tôi nhận ra, đây là lý do vì sao cảnh sát không đem theo súng. Ở một đất nước văn minh, họ giết bạn bằng một cú nhấp chuột. Sự giết chóc được thực hiện từ xa, tại trung tâm của vương quốc, trong một tòa nhà đầy những máy tính và cốc cà phê.
Tôi dán mắt vào viên cảnh sát. Khuôn mặt anh ta không độc ác cũng chẳng thánh thiện. Anh trẻ trung, trắng trẻo và trên mặt chưa có nếp nhăn. Anh chẳng là gì. Anh ngây thơ, như một quả trứng. Viên cảnh sát này, nếu anh ta mở cửa xe và ấn tôi vào trong, thì cái mà anh cho tôi thấy chỉ là nội thất của chiếc xe. Nhưng tôi sẽ nhìn thấy những thứ mà anh không thấy được trong đó. Tôi sẽ thấy bụi đỏ tươi trên yên xe. Tôi sẽ thấy vỏ khoai mì khô cũ đã rơi xuống gầm để chân. Tôi sẽ thấy chiếc xương sọ trắng trên bảng đồng hồ và những cây rừng mọc lên từ khe nứt gỉ sét trên sàn xe, đâm thủng qua kính chắn gió. Với tôi, cánh cửa xe đó sẽ mở ra và tôi sẽ bước ra khỏi nước Anh để về thẳng những phiền toái ở quê hương mình. Đây là ý nghĩa của câu người ta thường nói, Trái đất thật tròn.
Viên cảnh sát thận trọng nhìn tôi. Máy bộ đàm trên áo khoác anh ta đang nói, “CHARLIE BRAVO, TIẾN HÀNH.”
“Tên cậu bé không phải là Charlie Bravo,” tôi nói. “Nó tên là Charlie O’Rourke.”
Viên cảnh sát nhìn tôi, khuôn mặt không tỏ thái độ gì.
“Cô có phải là người gọi điện thoại không?”
Tôi gật đầu. “Tôi sẽ đưa anh đến chỗ chúng tôi.” Rồi dợm bước vào vườn thực vật.
“Một ít thông tin trước đã, thưa cô,” viên cảnh sát nói.
“Cô có quan hệ thế nào với người mất tích?” Tôi dừng lại, xoay người.
“Việc đó không quan trọng,” tôi đáp.
“Đây là thủ tục, thưa cô.”
“Charlie đang mất tích. Làm ơn đi, chúng ta không thể phí thời gian. Tôi sẽ nói tất cả với anh sau.”
“Đây là vườn thực vật có hàng rào, thưa cô. Nếu đứa trẻ ở trong đấy, nó sẽ không đi đâu xa. Lấy vài thông tin cơ bản thì sẽ không ảnh hưởng gì.”
Viên cảnh sát nhìn tôi từ đầu đến chân.
“Chúng ta đang tìm kiếm một bé trai Cáp-ca, đúng không?”
“Xin lỗi?”
“Bé trai Cáp-ca. Da trắng.”
“Vâng, đúng rồi. Mẹ cậu bé đang ở trong vườn.”
“Còn cô là người trông nom cậu bé ư?”
“Không. Không phải. Làm ơn đi, tôi không hiểu tại sao…”
Anh ta tiến đến một bước, và tôi lùi một bước, tôi không tự chủ được.
“Cô có vẻ sợ tôi một cách không bình thường, thưa cô. Có điều gì tôi cần biết không?”
Anh ta nói câu này rất bình thản, nhìn vào mắt tôi trong lúc nói.
Tôi đứng thật thẳng lưng, và nhắm mắt một lúc, khi tôi mở mắt ra, tôi nhìn lại viên cảnh sát một cách lạnh lùng và nói bằng giọng của Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhị. “Sao anh dám?”
Viên cảnh sát lùi lại nửa bước, tựa như vừa bị tôi đánh. Anh ta nhìn xuống đất và đỏ ửng mặt.
“Tôi xin lỗi, thưa cô.”
Rồi anh ta nhìn lại tôi. Thoạt đầu trông anh có vẻ bị bẽ mặt, nhưng từ từ nét giận dữ trở lại trên khuôn mặt anh. Tôi nhận ra tôi lại quá đà rồi. Tôi đã làm anh xấu hổ, và đó là điều duy nhất tôi không cần phải giải thích với lũ con gái ở quê nhà hoặc những cô gái ở đất nước bạn: khi bạn làm một người đàn ông xấu hổ, bạn làm anh ta trở nên nguy hiểm. Viên cảnh sát nhìn vào mắt tôi một lúc lâu, và tôi bắt đầu cảm thấy vô cùng sợ hãi. Tôi không nghĩ tôi có thể che giấu nỗi sợ, vì thế tôi phải nhìn xuống. Đó là khi viên cảnh sát quay sang một trong hai người còn lại.
“Anh làm việc với người này và kiểm tra chi tiết giúp tôi,” anh ta nói. “Tôi sẽ đi vào với Paul để tìm người mẹ.”
“Làm ơn đi,” tôi lên tiếng. “Tôi cần chỉ đường cho các anh.”
Viên cảnh sát mỉm cười lạnh lùng với tôi. “Chúng tôi là người lớn, chúng tôi sẽ tự tìm đường.”
“Tôi không hiểu tại sao các anh lại cần thông tin chi tiết về tôi.”
“Tôi cần thông tin chi tiết của cô, thưa cô, vì cô rõ ràng không muốn cung cấp thông tin cho tôi. Thông thường đó là lý do khiến tôi quyết định phải kiểm tra. Không hề có thù hằn cá nhân gì cả, thưa cô. Cô sẽ ngạc nhiên khi biết thông thường trong các vụ mất tích, người thực hiện cuộc gọi báo tin là người nắm giữ chìa khóa vụ việc.”
Tôi nhìn anh ta đi qua cổng vườn với người tên Paul.
Viên cảnh sát còn lại tiến về phía tôi và nhún vai.
“Xin lỗi. Phiền cô bước qua bên này, thưa cô, chúng tôi sẽ giúp cô cảm thấy thoải mái trong xe tuần tra và tôi chỉ cần kiểm tra thông tin cá nhân của cô thôi. Sẽ mất không tới một phút, sau đó tôi sẽ không giữ cô nữa. Trong khi đó, các đồng nghiệp của tôi sẽ tìm đứa bé nếu nó còn ở đó, tôi đảm bảo với cô.”
Anh ta mở cửa sau của chiếc xe và bảo tôi ngồi xuống. Anh để cửa mở trong lúc nói vào bộ đàm. Anh rất gầy, cổ tay trắng nhợt mỏng manh, bụng lum lúp, như nhân viên trại giam trực vào buổi sáng họ thả chúng tôi. Xe cảnh sát có mùi nylon và thuốc lá.
“Cô tên gì, thưa cô?” Viên cảnh sát hỏi sau một lúc.
“Tại sao anh cần biết?”
“Nghe này, chúng tôi giải quyết hai, ba vụ mất tích một tuần và chúng tôi luôn giữ thái độ khách quan khi đến hiện trường. Chúng tôi đến đây để giúp đỡ, và tình hình có thể rõ ràng trong đầu cô nhưng với chúng tôi, chúng tôi không biết mình đang đối mặt với chuyện gì nếu không hỏi xong vài câu hỏi. Chỉ cần cào lớp bề mặt sẽ thấy bên dưới là câu chuyện quen thuộc. Gia đình là những người lạ lùng nhất. Thông thường chỉ cần hỏi vài câu là có thể hiểu được tại sao người mất tích lại biến mất, nếu cô hiểu ý tôi.” Anh ta cười. “Không sao đâu, cô không phải là nghi can hay gì cả.”
“Tất nhiên.”
“Thôi được rồi, vậy chúng ta bắt đầu từ tên của cô nào.”
Tôi thở dài, và cảm thấy rất buồn. Tôi biết bây giờ, mọi chuyện với tôi đã kết thúc. Tôi không thể nói tên thật của mình với viên cảnh sát, vì khi đó họ sẽ tìm ra tôi là ai. Nhưng tôi cũng không có cái tên giả nào để nói với anh ta. Jennifer Smith, Alison Jones – chẳng có tên nào là thật khi không có tài liệu đi kèm. Không có gì là thật trừ phi có một màn hình khẳng định điều đó, ở đâu đó trong tòa nhà có đầy máy vi tính và cốc cà phê, ở ngay trung tâm của Vương quốc Anh. Tôi ngồi thẳng lưng trên yên sau xe cảnh sát, hít vào một hơi rồi nhìn thẳng vào mắt viên cảnh sát.
“Tên tôi là Ong Nhỏ.”
“Xin cô đánh vần được không?”
“O-N-G N-H-Ỏ.”
“Đó là tên hay là họ, thưa cô?”
“Đó là tên đầy đủ của tôi. Đó chính là tôi.”
Viên cảnh sát thở dài, sau đó anh ta quay đi và nói vào bộ đàm.
“Charlie Bravo báo chỉ huy. Vui lòng gửi một đơn vị đến đây. Tôi cần đưa một người về để đối chiếu ảnh và vân tay.” Anh ta quay lại tôi, bây giờ không còn mỉm cười nữa.
“Xin làm ơn,” tôi nói. “Xin hãy làm ơn để tôi giúp tìm Charlie.”
Anh ta lắc đầu. “Đợi ở đây.”
Anh ta đóng cửa xe. Tôi ngồi một lúc lâu. Không có gió, ở sau xe rất nóng. Tôi đợi đến khi một đội cảnh sát khác đến và đưa tôi đi. Họ đưa tôi vào một chiếc xe tải. Tôi nhìn Vườn thực vật Isabella biến mất ở cửa sau xe, qua một khung lưới kim loại trơ trọi.
Tối hôm đó Sarah và Lawrence đến thăm tôi. Tôi ở trong một phòng tạm giam tại đồn cảnh sát ở Kingston-mạn-trên-Thames. Cảnh sát buồng giam không gõ cửa mà mở đánh rầm một tiếng, rồi Sarah bước vào. Sarah đang bồng Charlie. Nó ngủ trên tay cô, đầu dựa lên vai cô. Tôi ứa nước mắt vì quá vui mừng khi thấy Charlie an toàn. Tôi hôn lên má Charlie. Nó vặn vẹo trong giấc ngủ, rồi thở hắt ra. Qua hai cái lỗ trên chiếc mặt nạ dơi, tôi có thể thấy nó đang mỉm cười trong giấc ngủ. Điều đó khiến tôi cũng mỉm cười.
Ngoài phòng giam, Lawrence đang tranh cãi với một sĩ quan cảnh sát.
“Chuyện này thật nực cười. Họ không thể trục xuất cô bé được. Nó có nhà để về. Nó có người đỡ đầu.”
“Đó không phải là luật của tôi, thưa ông. Những người ở cơ quan nhập cảnh có luật riêng của họ.”
“Nhưng dĩ nhiên anh có thể cho chúng tôi ít thời gian để chuẩn bị hồ sơ. Tôi làm ở Bộ Nội vụ, tôi có thể nộp đơn xin phúc thẩm.”
“Nếu ông không phiền khi tôi nói điều này, thưa ông, nếu tôi làm ở Bộ Nội vụ và biết ngay từ đầu rằng quý cô đây ở chui, thì tôi sẽ câm miệng lại.”
“Vậy thì chỉ cần một ngày thôi. Hai mươi tư giờ, làm ơn đi mà.”
“Tôi xin lỗi, thưa ông.”
“Mẹ kiếp, cứ như tôi đang nói chuyện với người máy vậy.”
“Tôi cũng là người bằng xương bằng thịt như ông, thưa ông. Vấn đề là, như tôi đã nói, tôi không đưa ra luật lệ nào cả.”
Trong phòng giam của tôi, Sarah đang khóc.
“Cô đã không hiểu. Cô rất xin lỗi, Ong ạ, cô hoàn toàn không ngờ. Cô cứ tưởng là cháu chậm hiểu. Khi Lawrence bảo cháu gọi điện cho cảnh sát, chú ấy không hề nghĩ là… và cô cũng không nghĩ là… và bây giờ thì… ôi Chúa ơi. Cháu biết chuyện gì sẽ xảy ra, vậy mà cháu vẫn làm không nói một lời hay một suy nghĩ nào cho bản thân mình.”
Tôi mỉm cười. “Cũng đáng mà cô Sarah. Để tìm được Charlie thì như thế cũng đáng.” Sarah nhìn tránh đi.
“Cô đừng buồn, cô Sarah. Cảnh sát đã tìm thấy Charlie, đúng không?”
Cô quay sang tôi, rất chậm, và nhìn tôi với đôi mắt long lanh.
“Phải rồi, Ong à, họ tổ chức tìm kiếm rất rầm rộ, rồi họ tìm thấy nó. Nhờ cháu cả đấy. Ôi, Ong ơi, cô chưa từng gặp người nào tốt bụng hơn… hay dũng cảm hơn… ôi Chúa ơi…”
Cô đưa mặt đến sát tai tôi.
“Cô sẽ không để họ làm điều đó,” cô thì thầm. “Cô sẽ tìm cách. Cô sẽ không để họ trả cháu về quê để rồi bị thủ tiêu.” Tôi cố hết sức để mỉm cười.
Để sống sót, bạn phải có vẻ ngoài ưa nhìn hoặc khéo mồm khéo miệng. Với tôi, tôi đã học được tiếng Anh của Nữ hoàng. Tôi đã học mọi thứ có thể học được về ngôn ngữ của bạn, nhưng tôi nghĩ tôi đã quá đà. Ngay cả lúc này, tôi cũng không tìm được từ thích hợp. Tôi nắm tay trái của Sarah, đưa nó lên môi, rồi hôn vào đốt tay, nơi là tất cả những gì còn lại của ngón tay bị chặt đứt.
Tối đó tôi viết thư cho Sarah. Cảnh sát trực ca đưa cho tôi giấy và bút chì, và hứa sẽ gửi thư giúp tôi. Cô Sarah mến. Cám ơn cô vì đã cứu mạng cháu. Chúng ta không lựa chọn để cuộc đời chúng ta gặp nhau. Cháu từng ngỡ rằng chúng đã hợp lại với nhau trong một lúc, nhưng đó chỉ là một giấc mộng đẹp. Cô đừng buồn. Cô xứng đáng được sống cuộc đời đơn giản như trước kia. Cháu nghĩ họ sẽ đến đưa cháu đi sớm thôi. Thế giới của chúng ta đã bị chia ly, và giờ đây chúng ta cũng phải chia ly. Thương mến, Ong Nhỏ.
Họ đến đưa tôi đi lúc bốn giờ sáng. Có ba nhân viên nhập cảnh mặc đồng phục, một nữ hai nam. Tôi nghe tiếng giày của họ nện trên lớp vải sơn lót sàn hành lang. Tôi đã thức trắng đêm, chờ đợi họ. Tôi vẫn đang mặc chiếc áo đầm mùa hè mà Sarah cho tôi, có viền ren xinh đẹp quanh cổ áo, tay tôi cầm những vật dụng đựng trong chiếc túi trong suốt. Tôi đứng dậy, vì thế khi họ mở cửa tôi đã đứng đợi họ. Chúng tôi bước ra khỏi phòng giam. Cánh cửa đóng lại sau lưng tôi. Rầm, tiếng đóng cửa vang lên, và thế là hết. Bên ngoài trời đang mưa. Họ đưa tôi vào sau một chiếc xe tải. Con đường ẩm ướt, đèn pha quét những vệt sáng dọc đường. Một trong những cửa sổ sau xe mở hé. Thùng xe có mùi nôn mửa, nhưng không khí thổi vào có mùi vị của London. Suốt dọc đường, cửa sổ của các căn hộ còn im lìm, kéo kín rèm. Tôi đã biến mất mà không có ai đưa tiễn. Cô nhân viên còng tay tôi vào lưng ghế phía trước.
“Không cần phải còng tay tôi đâu,” tôi nói. “Làm sao tôi bỏ chạy được?”
Cô nhân viên nhìn lại tôi. Cô ta ngạc nhiên.
“Cô nói tiếng Anh rất tốt. Hầu hết những người bị chúng tôi đưa vào đây một chữ bẻ đôi cũng không biết.”
“Tôi nghĩ nếu tôi học cách nói như người ở đây thì tôi sẽ được ở lại.”
Cô ta mỉm cười.
“Cô nói chuyện thế nào không quan trọng, đúng không? Cô làm thất thoát nguồn lực của chúng tôi. Vấn đề là, cô không thuộc về nơi này.”
Chiếc xe rẽ hướng ở cuối đường. Tôi nhìn qua khung lưới kim loại ở cửa sổ phía sau xe và dõi theo hai hàng nhà liền vách dài đang từ từ biến mất. Tôi nghĩ về Charlie, đang say giấc dưới lớp chăn ấm, và tôi nghĩ đến nụ cười dũng cảm của nó, tim tôi đau nhói vì biết sẽ không bao giờ gặp lại nó nữa. Nước mắt tôi ứa ra.
“Nhưng làm ơn giải thích cho tôi điều đó nghĩa là gì? Thuộc về nơi này có nghĩa là gì?”
Nữ nhân viên quay sang để nhìn tôi lần nữa.
“À, cô phải là người Anh, đúng không nào? Cô phải có những giá trị của chúng tôi.”
Tôi quay lưng khỏi cô ta và nhìn ra ngoài cơn mưa.
Ba ngày sau, một nhóm nhân viên khác đưa tôi đi từ một phòng tạm giam khác và họ cho tôi vào một chiếc xe buýt nhỏ với một cô gái khác. Họ đưa chúng tôi đến sân bay Heathrow. Họ đưa chúng tôi đi qua dòng người xếp hàng tại nhà ga sân bay và cho chúng tôi vào một căn phòng nhỏ. Tất cả chúng tôi đều bị còng tay. Họ bảo chúng tôi ngồi xuống sàn nhà - ở đấy không có ghế. Có hai mươi người khác trong phòng, cả nam lẫn nữ, và trong đấy rất nóng. Một lính gác đứng ở trước phòng. Cô ta đeo dùi cui và bình xịt hơi cay ở thắt lưng. Tôi hỏi cô, Chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy? Người lính gác mỉm cười. Cô đáp, Chuyện đang xảy ra ở đây là một số lượng lớn máy móc biết bay mà chúng tôi gọi là MÁY BAY đang cất cánh và hạ cánh trên một con đường nhựa dài mà chúng tôi gọi là ĐƯỜNG BĂNG, vì đây là nơi chúng tôi gọi là SÂN BAY, và không lâu nữa một trong những chiếc máy bay đó sẽ khởi hành đi UMBONGO LAND, quê hương của cô, và cô sẽ ngồi trên chuyến bay đó. Thế nào hả? Cho dù cô có thích hay không. Giờ thì còn ai hỏi gì nữa không?
Chúng tôi đợi một lúc lâu. Một số người khác đã được đưa ra khỏi phòng. Một người trong số họ bật khóc. Một người khác, một người đàn ông khẳng khiu, trông rất giận dữ. Ông tìm cách chống cự lính gác, và cô ta dùng dùi cui đánh vào bụng ông hai lần. Sau đó thì ông im lặng.
Tôi ngủ gục trong lúc ngồi dưới đất. Khi tỉnh dậy, tôi thấy một chiếc áo đầm tím và một đôi chân nâu dài trước mặt tôi.
“Yevette!” Tôi thốt lên.
Người phụ nữ quay lại nhìn tôi, nhưng đó không phải là Yevette. Thoạt đầu tôi rất buồn vì không gặp được bạn, nhưng rồi tôi nhận ra mình thấy vui. Nếu đây không phải là Yevette, thì có khả năng Yevette vẫn còn tự do. Tôi nghĩ đến hình ảnh chị ấy đi bộ trên đường phố London, mang đôi dép màu tím, chân mày vẽ bằng chì kẻ, chị mua nửa kí cá muối và ngước mặt lên bầu trời xanh mà cười phá lên, WU-ha-ha-ha-ha! Và tôi mỉm cười.
Người phụ nữ không phải là Yevette tỏ vẻ tức giận với tôi. Mày bị làm sao thế? Mày tưởng họ cho chúng ta đi chơi à?
Tôi mỉm cười. Phải, tôi đáp. Đây là kì nghỉ của cả cuộc đời.
Cô ta quay lại và không nói chuyện với tôi nữa, và khi họ gọi cô đứng dậy để lên máy bay, cô bước đi không gây sự gì và cũng không ngoái nhìn tôi lấy một lần.
Khi thấy cô đi, tôi mới nhận ra đây là chuyện có thật và lần đầu tiên tôi đâm ra sợ hãi. Tôi sợ phải trở về. Tôi khóc và nhìn nước mắt của mình ngấm vào lớp thảm nâu dơ bẩn.
Họ không cho chúng tôi thức ăn hay nước uống, và tôi lả đi vì đói. Vài giờ sau, họ đến đưa tôi đi. Họ dẫn tôi lên thẳng máy bay. Những hành khách khác, những hành khách mua vé, bị yêu cầu đứng lùi lại khi tôi đặt những bước đầu tiên lên thang máy bay. Mọi người nhìn tôi chằm chằm. Họ đưa tôi đến phần đuôi máy bay, đến hàng ghế cuối cùng ngay trước phòng vệ sinh. Họ đặt tôi ngồi xuống cạnh cửa sổ và một người lính gác ngồi xuống cạnh tôi, một người đàn ông to béo đầu trọc, đeo khuyên tai vàng. Ông ta mặc áo thun Nike màu xanh, quần Adidas đen. Ông tháo còng tay cho tôi, và tôi xoa cổ tay để máu lưu thông xuống bàn tay.
“Xin lỗi,” người đàn ông nói. “Tôi cũng chẳng thích thú công việc chết tiệt này tí nào.”
“Vậy tại sao ông lại làm việc này?”
Người đàn ông nhún vai và cài dây an toàn.
“Công việc để mưu sinh thôi mà, phải không nào?” Ông nói.
Ông lôi một quyển tạp chí từ lưng ghế phía trước rồi mở ra. Trong đó có bán đồng hồ đeo tay của nam, có cả một mô hình máy bay giấy để tặng cho trẻ con.
“Ông nên làm nghề khác, nếu không thích việc này nữa.”
“Không ai chọn nghề này cả, em bé ạ. Tôi chẳng có trình độ gì cả. Tôi từng làm lao động tay chân, công việc cũng bấp bênh lắm, nhưng bây giờ không thể cạnh tranh nổi với bọn Ba Lan nữa. Người Ba Lan chấp nhận làm cả ngày chỉ để đổi lấy một lời khen và một bao thuốc lá. Vì thế tôi mới ở đây, đi kèm những cô gái như cô trong chuyến du lịch của đời người. Thật lãng phí, phải không? Tôi cá là cô làm được việc hơn tôi. Cô nên dẫn độ tôi mới phải, thật sự là thế, đúng không? Trở lại nơi mà chúng ta đang đến, mặc kệ nó tên gì đi nữa.”
“Nigeria.”
“Ừ, phải rồi. Ở đấy nóng lắm, nhỉ?”
“Nóng hơn Anh.”
“Cũng nghĩ là thế. Những nơi này thường nóng lắm, xứ sở của các cô đấy.”
Ông ta quay lại đọc tạp chí, lật qua vài trang. Mỗi khi lật một trang, ông ta lại liếm ngón tay để làm nó dễ bám. Trên đốt ngón tay ông có hình xăm, những chấm bi nhỏ màu xanh. Ông đeo một chiếc đồng hồ to màu vàng nhưng đã phai màu. Nó giống loại đồng hồ trong quyển tạp chí máy bay. Ông lật thêm nhiều trang nữa, rồi lại ngước lên nhìn tôi.
“Cô ít nói nhỉ?” Tôi nhún vai.
“Không sao,” ông tiếp lời. “Tôi chẳng bận tâm đâu. Thà như vậy còn hơn dội nước tung tóe.”
“Dội nước tung tóe?”
“Có vài người khóc sướt mướt luôn. Những người mà tôi dẫn độ về ấy. Các bà các cô không phải là những người mít ướt nhất, muốn tin hay không thì tùy. Tôi từng dẫn độ một gã trông rất bặm trợn, về Zimbabwe đấy, khóc như mưa suốt sáu giờ liền. Nước mắt nước mũi lòng thòng khắp nơi, hệt như trẻ con, tôi không nói điêu. Thật là ngượng hết chỗ nói. Vài hành khách khác ấy mà, cô biết không? Nhìn ngó, chỉ trỏ này nọ. Đại loại, Vui lên đi, anh bạn, có thể chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra đâu, nhưng chẳng ích gì. Anh chàng cứ khóc tu tu rồi than thân trách phận bằng tiếng ngoại quốc. Vài người các cô, tôi rất tiếc khi thấy cô phải ra đi, nhưng gã này, nói thật, tôi chỉ muốn bàn giao sớm cho khuất mắt. Nhưng mà tiền bạc thì ổn lắm, chuyến đi lần ấy đấy mà. Vì không có chuyến bay về trong ba ngày sau đó nên họ cho tôi ở trong khách sạn Sheraton. Xem đài Sky Sports ba ngày liền, ăn chơi phè phỡn, rồi được trả gấp rưỡi. Vì những người thực sự bỏ túi là những tay thầu lớn. Công ty mà tôi đang làm việc đây này, công ty Hà Lan, họ chỉ đạo toàn bộ vụ việc. Họ điều hành các trại tạm giam và tiến hành các vụ hồi hương. Vì thế kiểu nào thì họ cũng kiếm tiền được, bất kể là nhốt các cô lại hay là trả các cô về. Hay thật, nhỉ?”
“Hay thật,” tôi đáp.
Người đàn ông gõ ngón tay vào thái dương.
“Nhưng thời đại này phải suy nghĩ theo cách đó, đúng không? Nền kinh tế toàn cầu mà.”
Máy bay bắt đầu lăn bánh chạy lùi trên đường nhựa và màn hình ti vi hạ xuống từ trần máy bay. Họ bắt đầu chiếu đoạn phim về an toàn bay. Họ bảo chúng tôi nên làm gì khi khoang máy bay đầy khói, và họ cũng nói áo phao được giữ ở đâu trong trường hợp hạ cánh xuống nước. Tôi thấy là họ không chỉ cho chúng tôi vị trí để nấp trong trường hợp bị trục xuất đến một đất nước mà ở đó chúng tôi có khả năng bị giết vì những gì đã chứng kiến. Họ nói trên thẻ an toàn trong túi ghế ngồi phía trước có nhiều thông tin hơn.
Một tiếng gầm đinh tai và đáng sợ vang lên, to đến nỗi tôi thầm nghĩ, Họ lừa chúng ta rồi. Tôi cứ tưởng chúng ta sẽ bước vào một chuyến đi, nhưng thật ra chúng ta sắp bị hủy diệt. Nhưng rồi máy bay tăng tốc, và mọi thứ bắt đầu rung lắc và dâng lên đến mức đáng sợ, rồi đột nhiên mọi rung động biến mất, tiếng động nhỏ dần và dạ dày tôi quặn lên. Người đàn ông ngồi cạnh tôi, người lính áp tải tôi, nhìn tôi và phá ra cười.
“Bình tĩnh đi bé con, chúng ta ở trên không trung rồi.”
Sau khi máy bay cất cánh, phi công trưởng nói vào máy bộ đàm. Ông ta nói hôm đó là một ngày nắng đẹp ở Abuja.
Tôi hiểu rằng, trong vài giờ, tôi không ở trong một đất nước nào cả. Tôi tự nhủ, Nhìn đi, Ong Nhỏ - cuối cùng mày cũng đã bay rồi. Vo ve, vo ve. Tôi gí mũi vào cửa sổ máy bay. Tôi nhìn những rừng cây, những cánh đồng, những con đường với những chiếc xe tí hon, tất cả những sự sống quý giá bé xíu ấy. Với tôi, tôi có cảm tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc. Từ rất cao trên trời, cô đơn một mình, tôi có thể thấy đường cong của thế giới.
Rồi tôi nghe thấy một giọng nói, một giọng nói dịu dàng, nhẹ nhàng và quen thuộc.
“Ong ơi?”
Tôi quay lại từ cửa sổ và thấy Sarah. Cô đang đứng ở lối đi và mỉm cười. Charlie đang nắm tay cô, nó cũng mỉm cười. Nó đang mặc bộ đồ Batman và cười hớn hở như thể vừa tiêu diệt toàn bộ kẻ xấu.
“Chúng ta là ở trên trời, phải không?” Nó hỏi.
“Không, con ạ. Chúng ta đang ở trên trời, phải không?”
Tôi không biết mình đang thấy gì. Sarah chồm qua người lính gác và đặt tay lên tay tôi.
“Lawrence tìm ra chuyến bay họ sẽ đưa cháu đi. Dù sao thì chú ấy cũng quen biết vài người có ích. Chúng ta không thể để cháu đi một mình, Ong ạ. Phải không, Batman?” Charlie lắc đầu. Giờ thì trông nó rất trịnh trọng. “Không thể,” nó đáp. “Vì chị là bạn của bọn em.” Người lính gác không biết phải làm gì.
“Tôi đã chứng kiến đủ rồi đấy,” ông ta nói.
Cuối cùng ông đứng dậy, nhường chỗ cho Sarah và Charlie ngồi cạnh tôi. Họ ôm tôi trong khi tôi để mặc nước mắt tuôn rơi, những hành khách khác quay lại để nhìn phép màu này, và chiếc máy bay đưa tất cả chúng tôi vào tương lai ở vận tốc chín trăm cây số giờ.
Một lúc sau họ đem đến cho chúng tôi đậu phộng và những lon Coca Cola bé xíu. Charlie uống sạch lon của nó, nhanh đến nỗi nước ngọt bắn ra đằng mũi. Sau khi Sarah lau cho cậu bé sạch sẽ, cô quay sang tôi.
“Cô đã tự hỏi tại sao Andrew không để lại thư tuyệt mệnh gì. Và rồi cô nghĩ về điều đó. Đó không phải là phong cách của Andrew. Chú ấy không thực sự thích viết về bản thân mình.”
Tôi gật đầu.
“Nhưng mà, chú ấy đã để lại cho cô một thứ còn hay hơn cả thư tuyệt mệnh.”
“Thứ gì ạ?”
Sarah mỉm cười. “Một câu chuyện.”
Tại Abuja, họ mở cửa máy bay, và cái nóng cùng kí ức lập tức ùa vào. Chúng tôi đi trên đường băng trải nhựa trong cái nóng như thiêu đốt. Người lính gác bàn giao tôi với chính quyền tại ga đến. Vui vẻ lên nào, ông nói. Chúc may mắn, bé con.
Cảnh sát quân sự đang đợi tôi trong một căn phòng nhỏ, họ mặc cảnh phục và đeo kính đen gọng vàng. Họ không thể bắt tôi vì Sarah ở cạnh bên. Cô không rời khỏi tôi nửa bước. Tôi là nhà báo Anh, cô nói. Các ông làm gì với cô gái này, tôi sẽ viết lại hết. Những quân cảnh có vẻ do dự, vì vậy họ gọi cho chỉ huy. Người chỉ huy đến, mặc quân phục ngụy trang, đội mũ beret đỏ, trên má có những vết sẹo bộ lạc[26]. Ông ta xem giấy tờ trục xuất của tôi, rồi nhìn tôi, Sarah và Charlie. Ông ta đứng đấy một lúc lâu, gãi bụng và gật gù.
“Tại sao đứa nhỏ này lại ăn mặc như vậy?” Ông ta hỏi.
Sarah nhìn thẳng lại ông ta. Cô đáp, “Nó tin rằng nó có sức mạnh siêu nhiên.”
Người chỉ huy cười mỉm. “Chà, tôi chỉ là người thường thôi. Lúc này tôi sẽ không bắt ai cả.”
Mọi người bật cười, nhưng các quân cảnh bám theo taxi của chúng tôi từ sân bay. Tôi rất sợ, nhưng Sarah nắm chặt tay tôi. Cô sẽ không rời bỏ cháu, cô nói. Chừng nào cô và Charlie còn ở đây thì cháu còn an toàn. Đám quân cảnh đợi bên ngoài khách sạn của chúng tôi. Chúng tôi ở đó trong hai tuần. Họ cũng thế.
Cửa sổ phòng chúng tôi nhìn ra Abuja. Những tòa nhà cao tầng kéo dài hàng dặm, cao ngất và sạch sẽ, một số lắp kính bạc phản chiếu những đại lộ dài thẳng tăm tắp. Tôi ngắm nhìn thành phố khi hoàng hôn phủ ráng chiều đỏ rực lên những tòa nhà, và rồi tôi ngắm nó suốt đêm. Tôi không ngủ được.
Khi mặt trời mọc, nó thắp sáng từ đường chân trời đến chân những đám mây. Nó chiếu lên mái vòm màu vàng của thánh đường Hồi giáo trong khi bốn tòa tháp cao vẫn còn thắp đèn sáng choang. Khung cảnh thật đẹp. Sarah bước ra ban công, cô thấy tôi đang đứng đó nhìn không chớp mắt.
“Đây là thành phố của cháu,” cô nói. “Cháu có tự hào không?”
“Cháu không hề biết rằng ở đất nước mình lại có một thứ như thế này. Cháu vẫn đang cố gắng cảm nhận rằng nó là của cháu.”
Tôi đứng đấy suốt buổi sáng khi ngày trở nên nóng bức hơn và đường phố bắt đầu tấp nập xe taxi, xe ôm, những người bán hàng rong khệ nệ khiêng từng chồng áo thun, khăn choàng đầu và thuốc men.
Charlie ngồi xem phim hoạt hình trong phòng có máy điều hòa mát lạnh, còn Sarah thì trải tất cả những tài liệu của Andrew lên một chiếc bàn dài, thấp. Trên mỗi chồng giấy, chúng tôi đặt một chiếc giày, hoặc một cây đèn, hoặc một cốc thủy tinh để chúng không bị gió từ chiếc quạt trần màu gụ thổi bay. Sarah giải thích cô sẽ viết quyển sách mà Andrew đang nghiên cứu như thế nào. Cô cần tập hợp thêm nhiều câu chuyện giống như chuyện của cháu, cô nói. Cháu nghĩ chúng ta có thể làm thế ở đây không? Không cần đi xuống miền Nam?
Tôi không trả lời. Tôi nhìn qua một ít giấy tờ rồi sau đó lại đi ra đứng ngoài ban công. Sarah đến đứng cạnh tôi.
“Có chuyện gì thế?” Cô hỏi.
Tôi gật đầu ra dấu về phía chiếc xe quân cảnh đang đợi chúng tôi ở con đường phía dưới. Hai người đàn ông đứng tựa vào xe, mặc cảnh phục xanh, đội mũ beret và đeo kính đen. Một trong hai người ngước lên. Ông ta nói gì đó khi nhìn thấy chúng tôi, và đồng nghiệp ông ta cũng ngước lên. Họ nhìn chúng tôi đứng ở ban công một lúc lâu, rồi sau đó châm thuốc hút và ngồi vào trong xe, một người ở yên trước, một người ở yên sau, cửa xe vẫn mở, đôi chân mang ủng nặng trịch của họ đặt trên mặt đường.
“Cô biết việc đi thu thập các câu chuyện sẽ không có ích lợi gì mà,” tôi nói.
Sarah lắc đầu. “Cô không đồng ý. Cô nghĩ đó là cách duy nhất để giúp cháu an toàn.”
“Ý cô là sao?”
Sarah rời mắt khỏi con đường và nhìn lên.
“Vấn đề của chúng ta là cháu chỉ có mỗi câu chuyện của cháu. Một câu chuyện thì yếu lắm. Nhưng ngay khi chúng ta có được một trăm câu chuyện, cháu sẽ mạnh hơn nhiều.
Nếu chúng ta có thể cho thấy chuyện gì đã xảy ra ở làng cháu cũng xảy ra ở một trăm ngôi làng khác, thì sức mạnh thuộc về chúng ta. Chúng ta cần thu thập câu chuyện của những người đã trải qua những việc tương tự như cháu. Chúng ta cần làm cho điều này là không thể chối cãi được. Sau đó chúng ta có thể gửi những câu chuyện này đến một luật sư và cho các chính quyền biết, nếu bất kì chuyện gì xảy ra với cháu, những câu chuyện đó sẽ được công bố trên truyền thông. Cháu hiểu không? Cô nghĩ đó là điều Andrew hi vọng sẽ làm được với quyển sách của chú ấy. Đó là cách chú ấy cứu những cô gái như cháu.”
Tôi nhún vai. “Nhưng nếu chính quyền không sợ truyền thông thì sao ạ?”
Sarah khẽ gật đầu. “Đó cũng là một khả năng,” cô đáp. “Cô không biết. Cháu nghĩ sao?”
Tôi nhìn ra những tòa cao ốc ở Abuja. Những tòa nhà lớn lung linh trong nắng nóng, tựa như chúng không có thật, tựa như ta có thể bị đánh thức và quên mất chúng bằng một cú tạt nước lạnh vào mặt.
“Cháu không biết. Cháu không biết ở nước cháu mọi sự diễn ra thế nào. Đến năm cháu mười bốn tuổi, đất nước của cháu là ba cánh đồng khoai mì và một cây limba. Rồi sau đó, cháu ở đất nước của cô. Vì vậy cô đừng hỏi cháu đất nước của cháu vận hành ra sao.”
“Ừm,” Sarah đáp. Cô đợi một phút, rồi nói tiếp. “Vậy cháu muốn chúng ta làm gì?”
Tôi nhìn lại thành phố mà chúng tôi thấy từ ban công.
Lần đầu tiên tôi thấy nó rộng rãi biết bao. Có những khoảng trống rất lớn giữa các tòa nhà thành phố. Tôi tưởng những quảng trường xanh lá cây sậm này là công viên và vườn tược, nhưng giờ thì tôi thấy chúng chỉ là những khoảng trống đang chờ đợi để xây nên một cái gì đó. Abuja là một thành phố chưa hoàn thiện. Thật thú vị khi thấy những quảng trường xanh hi vọng mọc lên ở thủ đô của tôi. Khi thấy quê hương mình mang những giấc mơ của nó trong một chiếc túi trong suốt.
Tôi mỉm cười với Sarah. “Chúng ta hãy đi thu thập các câu chuyện nào.”
“Cháu chắc chứ?”
“Cháu muốn trở thành một phần trong câu chuyện của quê hương.” Tôi chỉ vào nắng nóng. “Cô thấy không? Họ đã chừa chỗ cho cháu.” Sarah siết tay tôi, rất chặt.
“Được thôi,” cô nói.
“Nhưng cô Sarah ơi?”
“Sao cháu?”
“Có một chuyện cháu phải kể với cô trước.”
Tôi kể với Sarah điều gì đã xảy ra khi Andrew chết. Câu chuyện rất khó nghe và cũng rất khó kể. Sau cùng, tôi trở vào phòng khách sạn, còn cô vẫn đứng ngoài ban công một mình. Tôi ngồi xuống giường với Charlie, nó xem phim hoạt hình trong lúc tôi nhìn vai Sarah rung lên.
Ngày hôm sau chúng tôi bắt tay vào việc. Sarah bước ra đường từ sáng sớm và cho các quân cảnh đợi ngoài khách sạn chúng tôi một số tiền rất lớn. Sau đó, đôi mắt họ trở thành đôi mắt của những khuôn mặt in trên tờ tiền Sarah đưa cho họ. Họ không thấy gì ngoài hộp đựng găng trong xe cảnh sát và lớp vải lót trong túi quần cảnh phục. Nguyên tắc duy nhất của cảnh sát là, chúng tôi phải quay lại khách sạn trước khi mặt trời lặn mỗi ngày.
Công việc của tôi là tìm những người vốn dĩ rất sợ nói chuyện với nhà báo nước ngoài, nhưng rồi đã đồng ý nói chuyện với Sarah vì tôi cam đoan với họ rằng cô là người tốt. Đây là những người tin vào lời tôi nói, vì câu chuyện của tôi giống câu chuyện của họ. Tôi phát hiện có rất nhiều người như thế ở Nigeria, những người đã chứng kiến điều mà các công ty dầu mỏ không muốn chúng tôi thấy. Những người mà chính phủ muốn giữ im lặng. Chúng tôi đi khắp vùng Đông Nam của đất nước trong chiếc xe Peugeot cũ màu trắng, giống hệt chiếc mà bố tôi từng lái.
Tôi ngồi ở ghế hành khách, Sarah lái xe, còn Charlie cười đùa vui vẻ ở băng sau. Chúng tôi nghe nhạc trên các đài phát thanh địa phương, mở rất to. Bụi đỏ trên đường thổi tứ tung, thậm chí vào cả trong xe, và khi chúng tôi cởi bộ đồ Batman của Charlie ra để tắm rửa cho nó vào cuối mỗi ngày, làn da trắng của nó hiện lên hai viên kim cương đỏ, ở chỗ hốc mắt của chiếc mặt nạ.
Đôi khi tôi thấy sợ. Đôi khi chúng tôi đến một ngôi làng, tôi thấy ánh mắt của vài người đàn ông nhìn tôi và tôi nhớ chị em tôi đã bị săn đuổi ra sao. Tôi tự hỏi liệu các công ty dầu mỏ có còn chi tiền không, cho bất kì ai có thể khiến tôi câm miệng một lần và mãi mãi. Tôi sợ những người đàn ông trong làng, nhưng Sarah chỉ mỉm cười. Cháu cứ thư giãn. Hãy nhớ chuyện đã xảy ra ở sân bay. Miễn cô còn ở đây thì sẽ chẳng có chuyện gì xảy đến với cháu đâu.
Và quả thực tôi đã bắt đầu thư giãn. Ở mỗi ngôi làng, tôi tìm những người có chuyện để kể, còn Sarah thì ghi chép. Rất dễ dàng. Chúng tôi bắt đầu thấy vui vẻ. Chúng tôi nghĩ đã thu thập đủ câu chuyện để cứu chính mình. Chúng tôi nghĩ, Đây là một mánh hay.
Một đêm nọ, khi đã về nước được hai tuần, tôi nằm mơ thấy chị Nkiruka. Chị đi lên từ dưới biển. Đầu tiên mặt nước xoáy tròn do chuyển động của một vật gì đó không nhìn thấy được, và rồi, ở khoảng trống giữa hai con sóng, tôi thấy phần đỉnh đầu chị với những bọt nước trắng xóa nhảy múa xung quanh. Sau đó khuôn mặt của chị tôi nổi lên khỏi mặt nước và chị từ từ đi lên bãi biển về phía tôi, rồi chị đứng đấy và mỉm cười, mặc chiếc áo sơ mi Hawaii mà tôi đã mặc khi họ thả tôi ra khỏi trại giam. Nó ướt sũng nước biển. Chị gọi tên tôi một lần, rồi chờ đợi.
Khi Sarah thức giấc, tôi đến bên cô. Xin cô làm ơn, tôi nói, chúng ta phải đến bãi biển. Cháu phải nói lời tạm biệt chị cháu. Sarah nhìn tôi một lúc lâu, rồi cô gật đầu. Chúng tôi không nói gì cả. Sáng hôm đó Sarah đưa cho các cảnh sát nhiều tiền hơn lúc trước. Chúng tôi lái xe đến thành phố Benin ở miền Nam và đến nơi vào lúc chiều muộn.
Chúng tôi nghỉ lại một đêm tại một khách sạn không có gì khác biệt, rồi sáng hôm sau lại đi tiếp xuống miền Nam, đến bãi biển. Chúng tôi khởi hành sớm, khi mặt trời còn chưa nhô khỏi đường chân trời và ánh sáng chiếu vào cửa kính xe còn có màu vàng ấm. Charlie thở dài, nện gót chân ở băng sau.
“Chúng ta là gần đến chưa?” Nó hỏi.
Sarah mỉm cười nhìn vào kính chiếu hậu.
“Gần đến rồi, con trai ạ,” cô đáp.
Con đường chạy ra từ một làng cá ven biển, và khi xuống xe, chân chúng tôi chạm cát. Charlie cười thích thú, chạy xuống bãi biển để xây lâu đài cát. Tôi ngồi trên bãi biển cạnh Sarah và chúng tôi nhìn ra đại dương. Bốn bề yên ả, chỉ có tiếng sóng vỗ bờ. Một lúc lâu sau, Sarah quay sang tôi.
Cô nói, “Cô rất tự hào vì chúng ta đã đi xa nhường này.”
Tôi nắm tay cô. “Cô biết không, cô Sarah, kể từ khi xa quê, cháu thường tự nhủ, Mình sẽ giải thích những chuyện này thế nào với những đứa con gái ở quê nhà?”
Sarah bật cười, duỗi hai bàn tay ra hai bên mình trên bãi biển.
“Thế à? Cháu sẽ giải thích chuyện này thế nào với các cô gái ở quê? Ý cô là, việc này sẽ phải giải thích dài dòng đây, phải không nào?”
Tôi lắc đầu. “Cháu sẽ không giải thích gì cả.”
“Không à?”
“Không, cô Sarah ạ. Vì hôm nay cháu sẽ nói lời tạm biệt với tất cả những điều đó. Giờ đây chúng ta là những cô gái ở quê nhà rồi. Cô và cháu. Chẳng còn gì để cháu quay lại nữa. Cháu không cần kể chuyện này với ai nữa. Cám ơn cô vì đã cứu cháu, cô Sarah.”
Khi nói đến đây, tôi thấy Sarah khóc, và rồi tôi cũng khóc theo.
Khi ngày nóng dần lên, bãi biển cũng bắt đầu đông người hơn. Có những ngư dân lội xuống biển để tung những mẻ lưới to, có những ông già đến để ngồi ngắm biển, có những bà mẹ bế con ra để nhúng chúng xuống nước.
“Chúng ta nên đi hỏi những người này xem liệu có ai có câu chuyện gì không,” tôi đề nghị.
Sarah mỉm cười và chỉ vào Charlie. “Được, nhưng không cần vội. Cháu nhìn xem, thằng bé đang chơi rất vui.”
Charlie đang chạy nhảy cười đùa, và tôi có thể nói rằng khoảng một chục đứa bé bản địa đang chạy với nó, cùng cười đùa la hét với nó, vì cảnh tượng một siêu anh hùng da trắng cao chưa đến một mét, mặc áo choàng dính đầy cát và nước biển là chuyện hiếm thấy trên bãi biển ở đất nước tôi. Charlie đang cười với những đứa trẻ khác, chạy nhảy, nô đùa và đuổi bắt nhau.
Trời rất nóng, tôi vùi ngón chân xuống lớp cát lạnh.
“Cô Sarah này, cô nghĩ cô sẽ ở đây bao lâu?”
“Cô không biết nữa. Cháu có muốn thử đi cùng cô đến Anh không? Lần này chúng ta có thể cố gắng làm giấy tờ cho cháu.”
Tôi nhún vai. “Họ không muốn những người như cháu.” Sarah mỉm cười. “Cô là người Anh và cô muốn những người như cháu. Chắc chắn cô không phải là người duy nhất.”
“Người ta sẽ nói là cô ngây thơ.”
Sarah mỉm cười. “Mặc họ. Cứ để họ nói những gì khiến họ thấy được an ủi.”
Chúng tôi ngồi đấy một lúc lâu và nhìn ra biển.
Buổi chiều, gió biển thổi nhè nhẹ, tôi chợp mắt một lúc, ngồi nửa trong nửa ngoài bóng cây ở phía trên bãi biển. Mặt trời sưởi ấm máu tôi đến khi tôi không thể mở mắt ra được nữa, nước biển cứ tràn vào rồi rút đi, tràn vào rồi rút đi, và hơi thở tôi hòa cùng những đợt sóng khi tôi bắt đầu nằm mơ. Tôi mơ thấy chúng tôi sống với nhau ở đất nước tôi. Tôi rất hạnh phúc. Tôi mơ thấy mình là nhà báo, kể chuyện của đất nước mình, và tất cả chúng tôi đều sống chung một nhà – tôi và Charlie và Sarah – trong một ngôi nhà ba tầng vừa cao vừa mát ở Abuja. Đó là một ngôi nhà rất đẹp. Đó là nơi mà tôi chưa bao giờ dám mơ đến, vào những ngày mà quyển Kinh thánh của chúng tôi kết thúc ở chương hai mươi bảy của sách Matthew. Tôi rất hạnh phúc trong ngôi nhà mà tôi mơ thấy, ở đó đầu bếp và người giúp việc mỉm cười với tôi, gọi tôi là ‘công chúa’. Mỗi buổi sáng sớm, cậu trai làm vườn lại đem đến cho tôi một bông hoa hồng màu vàng thơm ngát để cài lên tóc, bông hoa run rẩy trên đài hoa xanh mướt, sương mai long lanh đọng trên cánh hoa. Ngôi nhà có hiên bằng gỗ chạm trổ, sơn trắng, và một khu vườn uốn lượn với những bông hoa tươi thắm và những tán cây râm mát. Tôi đi khắp đất nước, và lắng nghe đủ mọi câu chuyện. Không phải tất cả các câu chuyện đều buồn. Tôi tìm được nhiều câu chuyện đẹp. Có nỗi kinh hoàng, phải, nhưng trong chuyện cũng có cả niềm vui. Những giấc mơ của đất nước tôi cũng không khác những giấc mơ của đất nước bạn – chúng to lớn như trái tim con người.
Trong giấc mơ của tôi, Lawrence gọi điện thoại cho Sarah để hỏi khi nào thì cô về nhà. Sarah nhìn ra hiên nhà, nơi Charlie đang chơi đùa với những khối nhà của nó, và cô mỉm cười đáp, Ý anh là sao? Chúng em đang ở nhà mà.
Tiếng sóng vỗ vào bờ cát đánh thức tôi. Ầm, nghe như tiếng ngăn kéo của quầy thu ngân mở giật ra và toàn bộ tiền xu bên trong va mạnh vào thành tủ. Sóng dội vào rồi rút đi, ngăn đựng tiền mở ra rồi đóng lại.
Có một khoảnh khắc khi bạn tỉnh giấc giữa cơn mơ dưới ánh mặt trời như thiêu như đốt, một khoảnh khắc nằm ngoài thời gian khi bạn không biết mình là gì. Thoạt tiên, vì bạn cảm thấy hoàn toàn tự do, như thế bạn có thể biến thành bất cứ thứ gì, nên bạn ngỡ mình là tiền. Nhưng rồi bạn cảm thấy hơi thở nóng rẫy của một thứ gì đó trên mặt mình và hình như không, bạn không phải là tiền, hẳn bạn là làn gió nóng thổi vào từ biển. Có vẻ như sự trĩu nặng bạn cảm thấy trong tay chân mình là sự trĩu nặng của muối trong gió, và cơn ngái ngủ ngọt ngào đang khiến bạn đê mê đơn thuần là sự uể oải của đại dương ngày đêm không ngừng vỗ sóng. Nhưng rồi bạn nhận ra: không, bạn không phải là gió. Thật ra bạn vẫn có thể cảm thấy cát mơn trớn trên làn da trần của mình. Và trong một tích tắc, bạn là cát bị gió thổi lên bờ, chỉ là một hạt cát trong hàng tỉ hạt bị gió thổi đi. Thật tuyệt khi được hóa thành một thứ tầm thường. Thật dễ chịu khi biết chẳng phải làm gì cả. Thật ngọt ngào khi chỉ cần đơn giản nhắm mắt lại để ngủ tiếp, như hạt cát kia, cho đến khi làn gió nghĩ đến việc đánh thức nó dậy.
Nhưng rồi bạn hiểu ra rằng: không, bạn không phải hạt cát, vì làn da mà cát trượt lên này, làn da ấy là của bạn. Chà, vậy thì, bạn là sinh vật có da – mà thế thì sao? Đâu phải bạn là sinh vật đầu tiên chợp mắt dưới ánh mặt trời, lắng nghe tiếng sóng vỗ bờ. Hàng tỉ con cá đã trôi đi như thế này, giãy giụa trên lớp cát trắng lòa mắt, thêm một con nữa thì có khác biệt gì? Nhưng khoảnh khắc ấy cứ kéo dài mãi, và bạn không phải là một con cá sắp chết – thật ra bạn còn không thực sự đang ngủ - vì thế bạn mở mắt ra, nhìn xuống mình và nói, A, hóa ra mình là một đứa con gái đấy, một đứa con gái châu Phi. Mình là như thế này đây và mình sẽ ở lại trong hình hài này, khi phép màu thay hình đổi dạng của những giấc mơ thì thầm lùi xa vào tiếng gầm thét của đại dương.
Tôi ngồi dậy, chớp mắt nhìn xung quanh. Một người phụ nữ da trắng đang ngồi cạnh tôi trên bãi biển, trong một nơi gọi là bóng mát, và tôi nhớ người phụ nữ da trắng này tên là Sarah. Tôi thấy khuôn mặt cô, với đôi mắt mở to nhìn về bãi biển ở phía xa. Trông cô rất – tôi tìm tên gọi nét biểu cảm trên gương mặt cô bằng ngôn ngữ của cô – trông cô rất sợ hãi.
“Ôi Chúa ơi,” Sarah đang nói. “Cô nghĩ chúng ta nên đi khỏi đây.”
Tôi mỉm cười ngái ngủ. Vâng vâng, tôi nghĩ trong đầu. Chúng ta lúc nào cũng cần phải rời khỏi đây. Bất kể đây là đâu, luôn luôn có một lý do chính đáng để từ bỏ nó. Đó là câu chuyện của đời cháu. Luôn luôn chạy trốn, chạy trốn, chạy trốn, không có lấy một phút bình yên. Thỉnh thoảng, khi cháu nhớ bố mẹ và chị Nkiruka, cháu nghĩ mình sẽ luôn phải chạy trốn cho đến ngày cháu đoàn tụ với người đã khuất.
Sarah chộp lấy tay tôi và cố kéo tôi dậy.
“Dậy nhanh, Ong,” cô nói. “Có lính đến kìa. Hướng bãi biển.”
Tôi hít vào mùi vị mặn nồng, nóng hổi của cát. Tôi thở dài. Tôi đưa mắt về hướng Sarah đang nhìn chăm chú. Có sáu người lính. Họ còn cách một quãng xa, trên bãi biển. Không khí phía trên mặt cát nóng đến nỗi nó hòa tan vào chân của những người lính thành một ảnh ảo, một màu xanh hỗn hợp, trông như họ đang trôi về phía chúng tôi trên một đám mây hình thành từ vật chất bí ẩn nào đó, tự do như suy nghĩ của một cô bé tỉnh dậy giữa lúc đang mơ trên một bãi biển nóng. Tôi nhíu mắt vì chói và thấy tia sáng lóe lên trên nòng súng của những người lính. Những khẩu súng trường này ở vị trí xa hơn những người đeo chúng. Chúng giữ những đường thẳng cố định khi những người bên dưới chúng nhòe đi. Theo cách này đám vũ khí cưỡi trên toán lính như cưỡi la, kiêu hãnh và lóe sáng trong ánh mặt trời, biết rằng khi một con vật phía dưới chết đi, chúng sẽ chỉ cần cưỡi một con khác. Tương lai đã cưỡi la đến gặp tôi trên quê hương tôi như thế này đây. Mặt trời lấp lóa trên những khẩu súng trường và đổ lửa xuống mái đầu trần của tôi. Tôi không nghĩ được gì nữa.
Lúc đó trời quá nóng và ngày đã xế muộn.
“Tại sao họ lại đến bắt chúng ta ở đây hả cô Sarah?”
“Cô xin lỗi Ong. Chắc là vì đám cảnh sát ở Abuja, phải không? Cô tưởng đã trả đủ tiền cho họ để họ nhắm mắt làm ngơ vài ngày. Nhưng chắc ai đó đã tiết lộ chuyện này rồi. Cô đoán là họ đã phát hiện ra chúng ta ở Sapele.”
Tôi biết điều đó là thật, nhưng tôi giả vờ như không phải. Thật là một mánh hay. Cái đó gọi là, Níu kéo một phút yên tĩnh nhất của chiều tà khi toàn bộ thời gian sắp kết thúc.
“Biết đâu những người lính này chỉ đi dạo trên bãi biển thì sao hả cô Sarah. Dù sao thì đây cũng là một bãi biển dài. Họ sẽ không biết chúng ta là ai đâu.”
Sarah đặt tay lên má tôi và xoay mặt tôi lại để nhìn vào mắt cô.
“Nhìn cô này,” cô nói. “Nhìn xem da cô trắng thế nào. Cháu có thấy người phụ nữ da trắng nào khác trên bãi biển này không?”
“Thì sao ạ?”
“Họ sẽ tìm một bé gái đi cùng một phụ nữ da trắng và một cậu bé da trắng. Chỉ cần đi khỏi nơi này thôi, được không, Ong? Hãy đi xuống đằng kia, nơi có nhiều phụ nữ ở đấy, và đừng nhìn dáo dác cho đến khi những người lính đi khỏi. Nếu họ bắt cô và Charlie thì cháu không cần lo. Họ sẽ chẳng thể làm gì được bọn cô.”
Charlie ôm chân mẹ và ngước lên nhìn cô.
“Mẹ ơi, tại sao Ong Nhỏ phải đi?”
“Không lâu đâu, Batman ạ. Chỉ đến khi những người lính đi khỏi thôi.”
Charlie đưa tay chống nạnh. “Con không muốn Ong Nhỏ đi.”
“Chị ấy phải trốn đi, con yêu à. Chỉ vài phút thôi.”
“Tại sao?” Charlie hỏi.
Sarah nhìn ra biển, và nét mặt cô là điều buồn nhất mà tôi từng thấy. Cô trả lời Charlie, nhưng cô quay sang tôi khi nói.
“Bởi vì chúng ta vẫn chưa làm đủ để cứu chị ấy, Charlie ạ. Mẹ tưởng chúng ta đã làm đủ rồi, nhưng chúng ta cần làm nhiều hơn. Và chúng ta sẽ làm nhiều hơn, con yêu ạ. Chắc chắn là thế. Chúng ta sẽ không bao giờ từ bỏ Ong Nhỏ. Vì bây giờ chị ấy là một phần của gia đình chúng ta rồi. Và chừng nào chị ấy chưa được hạnh phúc và an toàn thì mẹ nghĩ chúng ta cũng chưa thể hạnh phúc và an toàn.” Charlie nắm chân tôi.
“Con muốn đi với chị ấy,” nó nói.
Sarah lắc đầu. “Mẹ cần con ở lại đây và trông chừng mẹ, Batman ạ.”
Charlie lắc đầu. Nó không vui. Tôi nhìn về phía xa bãi biển. Toán lính còn cách gần một ki lô mét. Họ từ từ tiến đến, nhìn sang trái rồi sang phải, kiểm tra khuôn mặt của những người trên biển. Thỉnh thoảng họ dừng lại kiểm tra giấy tờ của một người nào đó rồi đi tiếp. Tôi khẽ gật đầu.
“Cám ơn cô, cô Sarah.”
Tôi đi xuống triền dốc của bãi biển để đến bãi cát nơi những con sóng tan thành bọt nước. Tôi nhìn ra đường chân trời mờ ảo và dõi mắt theo sắc xanh-dương-và-xanh-đậm của đại dương từ đường chân trời xa tít vào đến tận bờ, nơi nó vỡ tan thành những con sóng bạc đầu, đẩy những lớp bọt nước mỏng manh cuối cùng xèo xèo trên cát rồi chìm thành hư vô ở nơi mà chân tôi đang đứng. Tôi thấy nó kết thúc thế nào ở đấy. Cát ẩm dưới chân khiến tôi nhớ lại lúc lũ người ấy bắt tôi và chị Nkiruka đi, và lần đầu tiên tôi bắt đầu cảm thấy sợ hãi. Giờ thì tôi đã hoàn toàn tỉnh táo. Tôi quỳ xuống mép nước, tạt nước biển mặn lạnh ngắt lên đầu và mặt cho đến khi đầu óc thật tỉnh táo. Sau đó tôi bước nhanh dọc bãi biển về phía mà Sarah đã chỉ. Đi bộ đến đấy mất khoảng hai, ba phút. Một rặng đá sừng sững màu xám đậm, cao bằng đỉnh cây rừng, nhô ra từ vạt rừng ở đó, nằm vắt ngang qua bãi cát và thò ra biển, chiều cao thấp dần theo độ lấn biển nhưng mỏm đá, nhô lên khỏi mực sóng, vẫn cao bằng chiều cao của hai người đàn ông. Sóng biển dội vào mỏm đá và tung bọt trắng lên nền trời xanh bạc. Dưới bóng râm của rặng đá, không khí đột nhiên rất lạnh, và da tôi run lên khi chạm vào vách đá tối. Vài người phụ nữ bản địa đang ngồi nghỉ trong bóng mát ở đó, họ ngồi trên nền cát cứng, tựa lưng vào đá trong khi những đứa trẻ chạy nhảy xung quanh, nhảy lên chân mẹ rồi chạy xuống mép nước, cười đùa và thách nhau bước ra lớp bọt nước trắng xóa nơi những con sóng lớn vỗ vào mỏm đá.
Tôi ngồi xuống với những người phụ nữ nọ và mỉm cười với họ. Họ mỉm cười đáp lại, và nói bằng ngôn ngữ của họ, nhưng tôi không hiểu. Những người phụ nữ này toát ra mùi mồ hôi và khói củi. Tôi nhìn trở lại dọc theo bãi biển. Toán lính đã tiến đến gần. Những người phụ nữ quanh tôi, họ cũng đang nhìn toán lính. Khi toán lính đã đủ gần để nhận ra màu da của Sarah, tôi thấy họ bắt đầu bước nhanh hơn. Họ dừng lại trước Sarah và Charlie. Sarah đứng rất thẳng và cô nhìn xoáy vào mắt toán lính, hai tay cô chống nạnh. Người dẫn đầu toán lính bước tới. Hắn rất cao và điềm tĩnh, súng cưỡi cao trên vai, hắn lấy tay gãi đầu. Tôi có thể thấy hắn đang mỉm cười. Hắn nói gì đó và tôi thấy Sarah lắc đầu. Lúc đó, gã chỉ huy không còn mỉm cười nữa. Hắn quát vào Sarah. Tôi nghe tiếng quát nhưng không nghe được lời hắn nói. Sarah lại lắc đầu, rồi cô đẩy Charlie ra sau chân cô. Xung quanh tôi, những phụ nữ bản địa đang theo dõi sự việc và nói, Ái chà chà, nhưng lũ trẻ vẫn đang chơi đùa ở mép nước, chẳng hay biết gì