Chương mười
Sau khi ăn pizza xong tôi gọi cho ba má. Tôi tự hỏi ai sẽ bắt máy đây. Nếu má không được khỏe thì ba sẽ bắt. Nếu không thì chắc là má bắt.
Ba bắt máy. Ông nổi sùng. “Trời đất quỷ thần ơi, thằng kia. Mày biến đâu mất tiêu vậy?” Tôi nghe tiếng ông nuốt. Ông đang nhậu rượu mạnh. Im ru một lúc lâu. Tôi nghĩ mình nghe được tiếng ông hút thuốc. Rồi ba nói: “Tao không hiểu nổi. Má mày suy sụp vì mày đó.”
Tôi hỏi: “Má đang nằm trong phòng hả ba?” Ý tôi muốn hỏi là má uống thuốc ngủ và xem cái tivi xách tay.
“Không, bả không ở trong phòng, Graham à. Má mày vô bệnh viện rồi. Mày vừa lòng chưa?”
“Ba đang ở đâu vậy?”
Ông thở dài. “Tao đang trong nhà kho. Tao muốn mày lên tàu về ngay. Má mày mong mày lắm đó, Graham.”
“Con sẽ về liền”, tôi đáp. “Nhưng con có vài chuyện phải giải quyết đã.”
Ba nói: “Mày nghĩ sao? Mày có muốn tao xuống đó lôi cổ về không? Hay là má mày đi, để bả làm ầm chuyện lên hả? Mày muốn vậy không hả?”
Tôi đáp: “Ba hỏi má đi. Ba nói với má là ý đó không hay đâu. Nói với má là con nói má sẽ biết con muốn nói điều gì.”
Ba không thích kiểu trả lời như vậy chút nào.
Sáng hôm sau nhớ lại Jennifer nói về chuyện đọc báo nên tôi mua tờ Nguyệt Cầu ở sạp báo bên kia cầu Putney. Tôi lật giở xem trong lúc chờ ly cà phê sữa ở World Bean. Không thể tin được: Hình tôi trong đó. Trang bảy. Hình thật lớn. Ở trên góc bên tay phải có dòng chữ nhỏ tên người chụp: Marlon van Nova. Tấm hình tôi ngả đầu kề bên đầu của bé Ade. Tôi đang mỉm cười. Có vẻ như Ade cũng cười cho dù cu cậu đang ngủ say. Tôi rất hài lòng với gương mặt của mình. Rõ ràng là người ta không thấy được đôi tay tôi, và cũng không thấy tôi nhỏ bé và trông ẻo lả (tôi nói trông ẻo lả vì tôi không ẻo lả đâu nhé). Bên dưới tấm hình có dòng chữ:
”ĐÓ LÀ EM TÔI.”
Ý ĐỊNH NHẬN EM NUÔI CỦA VỊ ANH HÙNG TRONG VỤ RỚT MÁY BAY
John Doe tường thuật
Hôm qua, vị anh hùng trong vụ rớt máy bay ở Fulham, Graham Sinclair, đã khẩn khoản yêu cầu với các vị lãnh đạo an sinh xã hội để được chăm nom bé Ade: ”Hãy để bé làm em của tôi.” Trong cuộc hội ngộ đẫm nước mắt bên giường với cậu bé phép lạ, Graham, 16 tuổi, xác nhận rằng cậu đã nài xin cha mẹ tiến hành thủ tục nhận con nuôi…
Tôi gấp tờ báo lại. Tôi sợ có ai đó ở sau lưng xem nó. Tôi vừa đi đến tiệm vừa thắc mắc tự hỏi liệu mình có bị bệnh mất trí nhớ không. Mình đã khẩn khoản van nài? Mình làm vậy lúc nào nhỉ? Tôi nhớ lại chiều hôm trước lúc với Jennifer ở bệnh viện. Không có gì hợp lý cả. Tôi luôn luôn chậm một bước. Hay có lẽ tôi sắp sửa bị tâm thần rồi, như má vậy. Tôi tắt máy Discman. Tôi nghĩ về những điều gì đang diễn ra trong đầu mình ngay lúc này, để tìm các dấu hiệu. Nhưng mọi điều vẫn bình thường: tiếng động và lời bình luận trực tiếp; các nàng yểu điệu đi lướt qua nhưng không lộ ra mình quan tâm đến việc được các chàng chú ý; nỗi lo về việc đôi tay đang ở đâu và có ai ngó chúng không. Vẫn là mọi chuyện như bình thường. Tôi vẫn tỉnh táo mà. Tôi nổi giận. Tôi gọi Jennifer bằng máy di động.
Nàng trả lời ngay: “Slater nghe đây.” giọng lạnh lùng.
“Cô đã xem tờ Nguyệt Cầu chưa? Chuyện gì đang diễn ra vậy?” tôi hỏi.
“Ồ, Graham. Tôi đang mong anh. Tôi rất tiếc. Nói chung là Marlon làm tôi thất vọng cực kỳ. Tôi nghĩ hắn giúp mình một việc, giúp chúng ta một việc. Ngờ đâu hắn lại có ý định khác. Hắn cho rằng có thể kiếm chác được gì đó trong vụ này rồi tiếp xúc với báo chí. Tới giờ thì tôi dẹp hắn qua một bên.”
“Thật là khùng,” tôi nói. “Tôi chưa bao giờ nói những điều đó hết.”
Jennifer nói: “Tất nhiên là anh có nói đâu. Tôi có mặt ở đó mà, nhớ không nào. Để xem, tôi sẽ có ý kiến với tay phóng viên đó, tên hắn là gì nhỉ?”
Tôi nhìn vào trang báo. “John Doe.”
Nàng nói: “John Doe. Để tôi tính. Thế nhé? Đừng lo. Tôi sẽ gởi e-mail cho anh sau. Anh sẽ đi làm chứ? À này, anh mười sáu tuổi rồi à?”
Tôi đáp: “Đúng vậy.”
Jennifer sẽ tính vụ này. Ý nghĩ này làm tôi hào hứng lên, tôi mở lớn âm thanh máy Discman và rảo bước nhanh như đi trên mây.
Một cảnh huyên náo trên các con phố gần tiệm đàn. Một đoàn xe buýt nhỏ đậu quanh và một đám xe cảnh sát cùng với phóng viên và các nhóm quay phim. Người nước ngoài đi lại lăng xăng. Họ có mắt hí, mặt tròn quay, và diện như trong tiệm bán đồ bảnh mới mò ra. Và nhìn họ như đang trong cơn lên đồng, thấy mà ghê. Nhìn cái cách họ đi đứng là biết ngay, một vài người còn khóc lóc nữa. Cảnh sát cũng có mặt ở đó, bước thật chậm kề bên họ. Một bà đưa hai tay ra gào lên trời, một tay quay phim đi giật lùi chĩa ống kính vào mặt bà. Ban đầu tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Rồi tôi hiểu. Họ đến từ Uzbekistan, nơi chuyến bay RF 3409 cất cánh. Họ là thân nhân của các nạn nhân vụ rớt máy bay.
Tôi đến tiệm trước nhất. Rồi đến quý ngài khoái tàu lửa đồ chơi con nít. Tôi biết ngay Derek đã xem tờ Nguyệt Cầu rồi qua cái cách hắn hành xử. Hắn nhún vai với tôi, bặm môi lại với nhau rồi lắc đầu. Rồi hắn ngồi xuống gõ bàn phím thật mạnh. Tôi biết Kate chưa xem vì cô chỉ mỉm cười thật vui với tôi như thường ngày. Rồi cô chỉ tay qua cửa sổ nói: “Tội nghiệp họ quá. Anh có thấy họ không?”
Derek nói: “Còn tụi mình chết thì sao đây?” rồi hắn quay qua tôi: “Nè, nhóc Joe. Sao không nhận nuôi thêm một số nhóc tì ngoại quốc nữa, mấy đứa có mẹ chết trong vụ rớt máy bay đó?”
Kate hỏi: “Anh nói chuyện gì vậy?”
Tôi định cho cô xem bài báo; đặt nó lên bàn cô rồi vào phòng vệ sinh trong lúc cô đọc. Nhưng cậu George đến. Ban đầu tôi không nghĩ là cậu biết chuyện. Cậu rất bực mình về mấy người Uzbekistan. Đầu cậu giật giật lắc lư, mỗi khi cậu nổi giận thì nó như vậy. Cậu hỏi: “Chuyện gì vậy? Mấy người kia sao vậy? Tôi phải đậu xe xa cả dặm. Họ không biết là người ta còn phải làm ăn nữa sao chứ? Sao người ta không gởi mấy cái xác máu me về quê của chúng cho tiện chứ?”
“Mấy người Uzbekistan đó,” Kate nói. “Vì người ta không tìm được cái xác nào cả. Chỉ thấy các mảnh vụn thôi.”
Cậu George cởi áo khoác da ra rồi đi rảo loanh quanh xem xét. Cậu giống như một ông thầy giáo, làm việc theo cái cách rởn da gà, mò tới sau lưng người ta và tìm ra lỗi. Cậu hỏi Kate: “Đã đưa cây Bechstein đi chưa?”
Cô đáp: “Dạ rồi. Người ta chở nó hôm qua rồi.”
Cậu nói: “À, vậy thì hủy việc ấy đi,” tỏ thái độ như thể cô đã làm điều ngu ngốc gì đó.
Cô mỉa mai: “Nghe có vẻ hợp lý quá ha!” Nhiều khi Kate thật đáng ngạc nhiên. Cô mềm mỏng nhưng cũng rất cứng đầu.
“Ngăn nó lại đi,” cậu nói. “Tôi muốn mang nó trở lại đây.” Rồi cậu ném xuống xấp giấy ghi chú lên bàn của
Kate. Cậu hỏi tôi: “Gọi cho má mày chưa?”
Tôi đáp: “Cháu nói chuyện với ba rồi.”
Cậu hỏi tiếp: “Phải mày gọi trước vụ này không?” Cậu lôi tờ Nguyệt Cầu từ trong túi ra và ném nó lên bàn của tôi. Cậu đã gấp nó lại thật gọn nên có thể trưng ra như một ảo thuật gia. Cậu chồm qua lật giở cho tới trang bảy. Cậu gõ móng tay lên trang báo. Móng tay cậu quá dài như móng tay con gái. Chúng làm rách tờ báo.
Tôi đáp: “Dạ phải.”
Kate hỏi: “Vụ gì vậy?”
Derek nói: “Nhóc tì Joe nghĩ nó là ca sĩ Madonna hay sao đó. Toàn chuyện tào lao trên báo. Tôi không biết.” Kate nhặt tờ báo lên.
“Họ lầm rồi,” tôi nói. “Tôi chẳng hề nói như thế bao giờ. Họ bịa ra đó. Miễn sao ba má không biết là ổn thôi.”
Kate bỏ tờ báo xuống. Cô nói: “Wow.”
“Má mày biết chuyện rồi,” cậu George nói. “Bả càm ràm tao suốt trên đường lái xe tới đây. Tất nhiên là bả biết. Con nhỏ nào đó đưa cho bả đọc trong bệnh viện hồi sáng. Bả sẽ xuống đây liền khi người ta buông bả ra. VÀ TAO KHÔNG TƯỞNG TƯỢNG RA CHUYỆN ĐÓ ĐÂU. Mày tới bệnh viện đó với ai vậy?”
“Chẳng với ai cả,” tôi đáp.
Cậu George nói: “À, ra vậy. Mày chỉ xuất hiện ở đó, rồi ngẫu nhiên có một tay nào đó cũng ở đó với cái máy ảnh, phải vậy không, Graham?” Tôi không thể nhớ được lần cuối cậu gọi tôi là Graham là khi nào.
“Dạ, đúng vậy,” tôi đáp.
Cậu George nói: “Thôi đi nào, Ngố, thằng nhà báo đó tên gì?”
Tôi đáp: “Báo nói là John Doe. Cháu chưa từng gặp hắn.”
Cậu George nói: “John Doe! Mày có biết John Doe là ai không? Tay nhà báo đi với mày đến bệnh viện tên là gì?”
Tôi đáp: “Cô ấy không phải là nhà báo.”
Cậu nói: “À, cám ơn nghen.”
Tôi nhận được e-mail của Jennifer. Nàng cho tôi tên của một nhà hàng trên đường Fulham, và ngày giờ. Nhà hàng tên là bLING (nó được viết như vậy), vào lúc bảy giờ hôm nay. Tôi nhấn phím hồi đáp và gõ Jennifer thân mến, Tôi sẽ đến gặp cô ở đó. Thân chào, Graham.
Tôi tìm nhà hàng bLING trên mạng. Người ta cho biết nhiều điều về nó, kể cả một cái hình rất rõ trên trang web. Một đĩa thức ăn được nhìn từ trên xuống, rồi nó từ từ biến mất cho đến khi chỉ còn dao nĩa nằm lại giữa chiếc đĩa. Rồi một ly thức uống có trái cây bên trong được nhìn ngang, nước cạn cho đến khi chỉ còn một ít trái cây chừa lại dưới đáy ly. Rồi một dòng chữ hiện ra:
VÀNH ĐAI THÁI BÌNH DƯƠNG VỚI ĐÁY KIỂU PHÁP
Lý do duy nhất để tôi lang thang trên mạng là cậu George không có mặt ở tiệm. Kate cũng đi mua cho mình một tờ Nguyệt Cầu. Derek đang nói chuyện trên điện thoại với hãng Sky về bộ thu sóng vệ tinh của hắn. Đúng lúc đó có hai chuyện xảy ra. Một, má gọi cho tôi. Hai, tôi làm rơi cái bình hoa.
Má gọi điện cho tôi từ bệnh viện. Ban đầu má có vẻ bình thường. Bà hỏi: “Con có kỳ tay không?” (Má nghĩ rằng, bây giờ tôi phải kỳ cọ để giữ sạch hai tay, chứ chỉ chà rửa thôi thì chưa đủ sạch. Nhưng tôi thì không quan tâm lắm.)
Tôi đáp: “Dạ có.”
Má hỏi: “Có chắc không đấy? Chắc không chắc không?”
Rồi tôi nhận ra rằng má không minh mẫn như bình thường. Bà nói rằng bà mong ông bà ngoại chăm nom tôi. Bà nói đùa về chuyện ông lén uống rượu khi bà không để ý. Tôi không nói gì vì biết rằng điều mình muốn nói nghe thật ngốc nghếch: ông bà đã qua đời rồi.
Rồi má hỏi: “Con có thấy chiếc E-Tyle không? Nãy giờ má quên hỏi?”
Có lần khi tôi còn nhỏ, cả nhà đến ở với ba má của má, tức là ông bà ngoại, rồi có một số chuyện xảy ra. Tôi, ba và ông ngoại lái xe của ông đi xem một chiếc xe E-Tyle Jaguar đậu trên lối vào của một ngôi nhà. Tôi ngồi ở ghế sau. Ba và ông ngồi ghế trên. Hai người thấy một cô gái đang đi trên đường và bình phẩm về cô. Tôi nhớ ông ngoại nói: “Con đâu có cần mấy cái máy điều hòa nhịp tim này hả.” Ba lắc đầu và thổi phù ra. Ba hạ kính xe xuống rồi lấy trong túi áo khoác ra một điếu xì-gà. Khi không hút thì ông đưa nó ra ngoài cửa sổ và có lần ông gõ nhịp lên trần xe bằng bàn tay đang cầm điếu xì-gà. Hai người thì thầm nói chuyện gì đó mà tôi không nghe được. Cuối câu chuyện cả hai cùng cười to và ba nói: “Dạ, thiệt mà,” như thể ông ngoại không tin điều ba nói. Giống như là có ai đó đang nhập vào ba.
Hai người lo chiếc E-Tyle không còn đậu ở đó, nhưng nó vẫn còn. Nó sơn màu đỏ, mui xe màu đen và mâm xe màu bạc. Ông ngoại đậu lại cách chiếc E-Tyle một đoạn để người ta không thấy được chúng tôi đang làm gì. Rồi chúng tôi chỉ ngồi ngắm nó. Ánh sáng phản chiếu lên nắp ca-pô của chiếc xe. Nó có màu đỏ của một trái cà chua chín rực tuyệt hảo. Ba bình phẩm điều gì đó nối kết giữa cô gái mà họ thấy trên đường với chiếc E-Tyle, rồi ông ngoại nói: “Vậy sao?”
Chúng tôi lái xe về nhà. Trên đường về, ba mút một viên kẹo bạc hà.
Có chuyện gì đó vừa xảy ra thì phải. Má và bà ngoại đang khóc. Hai người đứng trong bếp, mỗi người một đầu. Bà ngoại nói: “Nào, mấy ông có muốn uống chút trà không?” cố ra vẻ vui lên.
Ông ngoại hiện ra ở ngưỡng cửa lối đi đến phòng khách. Trong phòng khách có một con vẹt tên là Ông Lông Vũ Edward, hay gọi tắt là Eddie. Eddie nói được “Nuttall”s Mintoes”, tên của một loại kẹo của một hãng kẹo gần đây. Ông ngoại nảy ra một ý hay. Một tay ông cầm chai rượu. Rượu Whisky. Thật là chuyện khó tin đối với tôi. Ông ngoại và rượu Whisky thì giống như một câu chuyện cổ tích do má kể mà tôi không tin là có thật. Giờ thì sờ sờ ra rồi đây này.
Tôi không biết phải trả lời thế nào về chiếc E-Tyle với má. Rốt cuộc tôi nói: “Con nghĩ là vậy.”
Má hỏi: “Con nghĩ vậy ư,” và tôi dạ.
Tôi hỏi má có khỏe không thì bà trả lời rằng có một bà nào đó làm cho má mệt trí quá.
“Thức ăn thật là kinh khủng,” má nói. Rồi cười khúc khích. “Có ai đó biết cách ra ngoài mang về cá và khoai tây rán.” Lúc này thì bà nói nghe có vẻ bình thường.
Tôi kể với má về tiệm pizza cạnh cầu Putney. Tôi nói ở đó người ta có bán bánh để mang về nhà nếu má thích thì con mua về cho, làm bà bật cười. “Cỡi xe gắn máy một mạch hai trăm dặm về đây à,” má nói. “Nghe hợp với người tuyết đó.”
Rồi má nói: “Con không phải đăng báo làm gì đâu, biết không nào. Về cái chuyện con muốn có em trai đó. Có lần má đã cho con một đứa nhưng không được.” Má rấm rức khóc.
Tôi ngồi ở bàn, cầm điện thoại áp sát vào đầu, xoay lưng lại với Derek. Tôi nói với má là mình không đăng lên báo. Thật khó nói chuyện này cho rành mạch. Tôi phải thì thầm nho nhỏ. Tôi hỏi: “Hồi nào vậy?”
“Hồi nào cái gì?” má hỏi lại.
“Má cho con một đứa em trai hồi nào?” Nói về chuyện các bí mật. Có cả hàng triệu chuyện ở ngoài đời kia, nhưng có thể bạn chẳng bao giờ biết được chúng nếu bạn không biết hỏi cho đúng cách. Em tôi trông thế nào? Tên nó là gì? Và câu hỏi chính: Đôi tay nó thế nào?
“Lúc đó con còn nhỏ lắm, cưng à,” má nói.
“Nó làm sao…?” Nhưng tôi không nói hết câu vì má bật khóc lớn.
Trong lúc má đang khóc, chắc có ai đó trong bệnh viện cố giằng lấy cái điện thoại khỏi tay bà. Tôi nghe tiếng má hét lên với họ. Rồi tiếng má lại khóc trong điện thoại. Trong khi nghe má khóc, tôi nghĩ về cái ngày xem chiếc xe E-Type Jag đó. Tôi tự hỏi có chuyện gì xảy ra giữa má và bà ngoại mà làm cho cả hai cùng khóc. Có thêm nhiều bí mật quá. Thêm nhiều cái lỗ tối om chứa những điều quái đản bên trong.
Khi có thể nói lại, má hỏi: “Con có về không? Khi nào thì về?” Má nói bằng một giọng nghe rất dịu dàng như giọng của một cô gái nhỏ. Nó làm tôi mủi lòng cũng bật khóc theo. Giờ thì tôi nghĩ rằng vào lúc đó tôi sắp sửa nói rằng mình sẽ về. Tôi sẵn sàng dẹp hết mọi chuyện ở London và quay về với ba má chỉ để làm cho bà vui. Để đền bù cho việc có một đứa em đã chết và cho má khỏe lại. Nhưng rồi má đột ngột đổi giọng.
Trong chỉ tích tắc, má bỏ hết giọng dịu dàng để gào lên với tôi, như thể một loạt đạn đột nhiên bắn ra từ một đóa hoa. Tôi không hiểu phần lớn lời má la, toàn là tiếng ồn và chấn động trong điện thoại vang ra. Suýt chút nữa nó thổi bay lỗ tai tôi vì tôi áp sát điện thoại vào tai để Derek không nghe được.
Ban đầu tôi nói thật nhỏ làm má không nghe được. Rồi má yên lặng lại. Tôi nói lại với má là tôi sẽ không về, tôi đang sống vui ở đây. Tôi nói má đừng lên đây mang tôi về và cũng đừng để ba đi. “Nếu má làm vậy, con sẽ làm điều mà má không muốn đâu. Con hứa là sẽ làm thật đó.”
Tôi biết chắc Derek nghe được điều này nhưng mà tôi phải nói thôi. Giờ thì má im lặng.
“Con bất cần rồi,” tôi thì thầm.