Chương mười sáu
Tàu hỏa dừng lại một nơi nào đó và cửa sổ của tôi mở ra ngay bên ngoài nhà ai đó. Tôi nhìn xuống vườn nhà họ và vào cửa sổ nhà. Tôi thấy một khung chơi cho trẻ con leo trèo và một cái xuồng chèo bơm hơi màu đỏ và vàng. Một cửa bếp để mở và một máy giặt có cửa sổ trông giống như cửa sổ tàu thủy. Có cái nhãn dán quảng cáo cho một đài phát thanh trên cánh cửa sổ phòng ngủ. Tầng dưới có một tay ngồi xem tivi mà tôi không thấy được cái tivi. Một người đàn bà mang dép nhẹ đi ra vườn ném bánh mì cho lũ gia cầm.
Trong nửa đầu của cuộc hành trình bạn nghĩ về nơi mà mình ra đi. Trong nửa phần đường còn lại thì bạn nghĩ về nơi sẽ đến. Nhiều lúc sự khôn ngoan của tôi làm tôi thấy phiền mệt quá.
Tôi nghĩ đến Jennifer, vẻ mặt của nàng khi tôi làm nàng kinh ngạc. Trước đây chưa từng có ai làm cho nàng trông như thế, bất kể họ làm gì. Tôi quyết định sẽ hỏi xin nàng cho ở lại trong căn chung cư của nàng. Nó đủ rộng. Tôi tưởng tượng tình cờ đụng đầu nàng khi nàng đang tắm. Rồi tôi tin rằng nàng chắc phải có hai phòng tắm, có nghĩa là tôi sẽ có một phòng cho mình.
Tôi băn khoăn không biết mình có gặp lại Jennifer không.
Tôi lại nghĩ đến Kate. Chúng tôi đã đi suốt con đường đến trạm xe điện ngầm kế tiếp. Cô rất thất vọng khi tôi nói: “Biển.” Cô nói: “Ồ không, tôi đã có lần đố anh vậy rồi, đúng không? Tôi không nhớ ra nhưng tôi đã làm, phải không nào?”
Tôi đáp: “Không.”
Cô nói: “Ô Chúa ơi, tôi chán quá. Tôi xin lỗi, Graham à.”
Tôi nói: “Không, trước đây cô chưa làm thế. Tôi cũng nghĩ y như vậy khi ở dưới Dorset. Tiếng biển vang như xe cộ chạy.”
Cô nói: “Đúng vậy đấy. Có lạ không chứ? Anh có nghĩ là óc của hai đứa mình có nối kết với nhau không?” Cô lại lấy vai hích tôi lần nữa. “Tuy trước đó tôi chưa từng đến Dorset. Tôi chưa từng nghe tiếng biển ở Anh, tôi chưa từng đến bờ biển ở Anh. Tuy tôi nghe rằng đó là nơi mà mẹ tôi từng sống. Chúng tôi đến đó mùa đông trước.”
Tôi hỏi: “Tôi có thể hỏi cô một câu không?”
Cô đáp: “Hỏi đi, hỏi đi.”
“Cô có bí mật nào không?”
Cô đáp: “Coó” như thể nó là hai từ.
“Như một bí mật lớn mà không ai biết?” tôi hỏi.
Cô đáp: “Một bí mật mà không ai biết và một cái nữa chỉ hai người biết thôi.”
Tôi nói: “Vậy kể đi.”
“Graham này!” Cô nói.
Tôi hỏi: “Chúng tệ lắm sao?”
Cô nhăn mũi lại. Cô làm thế trông thật có duyên. Cô nói: “Một cái thì quái đản lắm nhưng không phải lỗi của tôi và cái kia thì thật tệ nhưng cũng không phải lỗi của tôi.”
Tôi hỏi: “Thật thật là tệ à?”
Kate nói: “Ồ, tệ lắm anh ơi.”
Tôi nói: “Vậy thì kể đi nào.”
Cô bật cười lớn: “Không có chuyện đó đâu. Còn anh thì sao?”
Tôi không biết chuyện của má tự tử có thể xem là một bí mật hay không. Tôi quyết định nó là một bí mật, do đó tôi cũng có hai bí mật như Kate. Tôi nói: “Hai bí mật lớn.”
Kate hỏi: “Và? Chúng là?”
Tôi nói: “Không có chuyện đó đâu.”
Cô nói: “Anh phải nói đôi điều về chúng chứ.”
Tôi nói: “À, một cái thì có vài người biết và nó không dính líu gì với tôi. Còn cái kia thì chỉ có một người biết.” Tôi nhớ đến Kylie. Và Jennifer. Tôi nói thêm: “Ba người biết.”
Kate hỏi: “Nó có tệ không?”
Tôi đáp: “Không.”
Cô hỏi: “Vậy thì sao nó lại là bí mật chứ?”
Tôi gọi cho ba bằng điện thoại di động ngay khi người đàn bà ra vườn rải vụn bánh mì cho gia cầm. Tôi cho ba biết mình đi chuyến tàu nào và người đàn bà mang dép màu hồng đang tung vụn bánh mì bay tứ tung. Ba nói rằng sẽ đón tôi ở nhà ga và đưa tôi đến thẳng bệnh viện.
Tôi đi qua cổng chắn soát vé và ba đứng ở đó, ông nhìn đồng hồ, ông hỏi: “Đồ đoàn của mày đâu?”
Tôi vỗ nhẹ vào túi: “Chuyện má tự tử thế nào?”
Có người quay lại nhìn chúng tôi. Ba nói: “Chúa ơi, Graham.”
Chúng tôi không nói gì thêm cho đến khi lên xe. Ba lục túi tìm chiếc vé đậu xe. Tôi hỏi: “Má chưa chết chứ?”
Ba nói: “Thôi đi nào.”
Tôi hỏi lại: “Má chết chưa?”
Ba đáp: “Bả chưa chết, Graham à.”
Tôi thở phào nhìn ra ngoài cửa xe. Eddie, gã người chim đang yên lắng lại trong lồng ngực tôi. “Vậy má tự tử bằng cách gì?” tôi hỏi.
Ông hỏi lại: “Mày cố ý làm chuyện này hả?”
“Chuyện gì?”
“Mày biết chuyện gì mà.” Ông tìm ra cái vé xe. “Mày đi đâu suốt đêm qua? Tao cứ gọi điện suốt. Hết gọi cho máy di động lại gọi về căn hộ.” Ông chạy xe lên thanh chắn cổng, hạ kính xe xuống rồi nhét chiếc vé vào khe.
Thanh chắn nâng lên. Nó được lắp nối ở giữa chừng, treo lơ lửng như một cái cánh bị gãy khi xe chúng tôi đi qua. Ba đặt chân xuống và nói: “Má mày nhảy từ trên mái nhà của bệnh viện. Tao không biết làm sao mà bả còn sống. Tuốt trên lầu tư. Vậy mà bả nhảy. Bả sẽ qua thôi.”
“Quỷ thần ơi,” tôi kêu lên. Tôi ngó đường xá khi xe chạy qua phố. Tôi đã đi chừng năm tuần rồi. Cảnh vật trông vừa như cũ vừa khác lạ. Giống như mọi vật đã bị đứng yên lại như khi người ta bấm nút Pause trên máy video cho tới khi tôi trở về. Khi tôi xuống tàu thì có ai đó bấm nút Play và nó khởi động trở lại. Mọi vật trông giống như bị một tay nghèo óc tưởng tượng tạo ra bằng máy tính. Không bọn du thử du thực, không người da đen, không các em gái xinh xắn lượn lờ qua lại, không các tòa nhà trông giống như cung điện hay phi thuyền, không xe mô tô vượt đèn đỏ, không những chiếc xe trị giá hằng trăm ngàn pao, không mấy thằng điên mang tranh cổ động đi dán, không địa đàng Park Lane, không máy bay phản lực bay sà xuống, không cầu cống, không sông ngòi, không âm thanh của biển.
Giống tiếng động trong một vũng bùn nhỏ hơn.
Tôi hỏi: “Vậy má ổn chứ?”
Ba gật đầu: “Mày sống được rồi đó.” Tôi gật đầu.
Tôi biết, đây là lúc phải nghe lên lớp. “London, đó là một chỗ địa ngục,” Ba nói. “Ghê hơn cả địa ngục. Phương châm của tao là vô rồi ra. Nhảy vô, làm việc cần thiết mà mày phải làm, rồi dzọt ra ngay lập tức. Tuy vậy lại có lợi cho mày, khi nói là đã từng làm việc ở Thành phố Khói. Giờ là lúc xem xét lại bản thân mày, đời không phải là một cuộc diễn thử, mày biết mà, mày chỉ sống có một lần thôi. Má mày với tao nghĩ là mày nên học lại ở trường de Coverley. Này, khi gặp má mày thì giữ vẻ bình thường à nghen. Nếu bả ngủ thì để yên cho bả ngủ, khoan hỏi han gì đã. Có thể mày sẽ hơi bị sốc khi thấy bả. Cả hai mắt bả thiệt là tệ nhưng bác sĩ nói ngó thì tệ nhưng không đến nỗi như vậy đâu.”
Tôi nói: “Cậu George cho con mượn bảy chục pao. Nếu ba cho con số tiền đó thì con sẽ trả lại cho cậu khi xuống lại Thành phố Khói.”
Chúng tôi đậu xe trong bãi đậu của bệnh viện. Ba nổi giận. Vì tôi vừa nói về chuyện quay trở lại London, nhưng ông lại giả vờ như vì chiếc xe trong chỗ đậu kế bên đậu lệch qua quá nhiều làm ông chỉ mở được he hé cửa xe. Sau cùng ông phải nghiêng người để lách ra khỏi xe. Ông kiểm tra dưới đất rồi nói: “Ngó nè, cắt ngang qua vạch trắng nè.” Rồi ông lại nổi giận vì không có đúng số tiền lẻ để trả cho máy bán vé và tôi phải đưa ông năm mươi xu. Trong khi đi về phía cổng vào bệnh viện, ông nói: “Mua cho má mày một ít hoa.” rồi chỉ cái tiệm nằm bên trái. Tôi mua một ít hoa màu hồng mất 1.50 pao. Ba đưa tiền cho tôi trả.
Nước trong bó hoa nhỏ giọt trên sàn thang máy. Tôi nhìn xuống sàn nhà vì không muốn nhìn các khuôn mặt chung quanh. Đèn rất sáng, tôi biết người ta sẽ thấy rõ đôi tay tôi nhưng không thể giấu chúng vào đâu được, do đó tôi nhìn xuống sàn thay vì nhìn họ để không phải thấy họ nhìn mình. Chắc họ nghĩ rằng tôi đến để giải phẫu chúng, hay đi xét nghiệm sáu tháng một lần để bảo đảm là chúng không to thêm ra. Rồi thỉnh thoảng tôi ngó quanh như thể mình rất hững hờ, không buồn để ý đến chuyện gì cả, không quan tâm rằng mình sắp gặp má và bà vừa tự tử bằng cách lao ra ngoài mái nhà.
Không một ai nói lời nào. Có thể nghe được tiếng nhạc từ tai nghe của một thằng nhóc, vang ra như những sợi dây bạc thật mỏng như thể tàng hình. Khi thang máy dừng lại ở một tầng thì một giọng nói được ghi âm phát ra từ một khung lưới trên trần. Đó là một phụ nữ có giọng nói quê mùa, nữ tính. Cô có vẻ rất hạnh phúc, nghe như thể cô sắp bật cười to. Cô nói: “Tầng hai, khoa timmmm và ung thư.”
Đột nhiên ba giơ tay lên và vung về phía đầu tôi. Tôi không tin nổi, tôi nghĩ là ông đang đánh tôi. Tôi né ra nhưng ông vuốt tóc tôi và chải mái tóc đàng trước hai lần bằng các ngón tay. Ông nói: “Ở London không có tiệm hớt tóc sao?” và tôi nhận ra ông nói thế để khoe với những người đi chung trong thang máy. Ông đang có ý nói với họ rằng con của mình ở London, điều này làm cho cả hai cha con chúng tôi trở nên những kẻ thật quan trọng. Ba quả là một tay cực ngốc.
Người phụ nữ trên trần nhà nói: “Tầnnnng ba, khooooa tâm thần”, rồi khi cửa thang máy mở ra ba từ phía sau đẩy tôi ra hành lang.
Các cánh cửa phải mở khóa, rồi khóa lại sau khi chúng tôi bước vào. Khi đến phòng của má, ba đẩy tôi vào trong rồi ông đứng lại bên ngoài. Tôi đã nghĩ ra nhiều điều để nói khi gặp má, nhưng giờ đây tôi lại không nói được gì. Má trở đầu trên gối để nhìn khi tôi bước vào. Hai mắt bà bầm đen. Còn mũi bà thì sưng lên gấp đôi bình thường và tím đỏ, và một đường lằn kỳ dị màu tím xanh vắt ngang trán. Có một cái khay đặt trên bánh xe cạnh bên giường. Trên khay là một đĩa cá ăn dở và vài hạt đậu xám trên đó. Có một lọ hoa trên bậu cửa sổ và một tờ Nguyệt Cầu trên giường. Các ngón tay má đang sờ vào nó.
“Chào con yêu,” má nói. Má nhấc hai tay lên và dang ra hướng về phía tôi và tôi phải dùng đầu gối đẩy cái khay ra để đến gần bà. Bà ngẩng mặt lên cao để những chỗ sưng không đau, rồi ôm tôi thật chặt. Mùi thân thể bà khá dễ chịu và má bà êm láng, làm tôi nhớ lại những lần bà áp má lên má tôi khi tôi còn bé. Má bà như là nước mưa rơi xuống thật nhẹ. Tôi nghĩ, mưa mát mềm đến ru tôi vào giấc ngủ.
Tôi nghe tiếng tờ Nguyệt Cầu nhăn rúm lại khi tôi ngồi ghé lên nó. Chúng tôi không nói gì một lúc thật lâu. Rồi má nói: “Cám ơn con mang hoa cho má.” Tôi quên rằng vẫn còn đang cầm bó hoa. Các đóa hoa bị ép vào sau đầu má. Má nói: “Hoa nhỏ nước lên khăn trải giường kìa.”
Ba bước vào phòng. Ông nói: “Chào em yêu.”
Má nói: “Ông tìm được nó rồi.”
Ba nói: “Để tôi lấy cái lọ.”
Má hỏi: “London thế nào hả con? Má không biết con xoay xở làm sao ở dưới đó, má thiệt tình hổng biết.” Rồi bà lại ôm chầm lấy tôi thật lâu cho đến khi tôi nghĩ bà ôm tôi mà ngủ luôn rồi, và tôi cố lách người ra khỏi tay bà nhưng bà ngăn tôi lại, bà ghì tôi thật chặt. Hai tay bà mạnh khác thường; tôi nghĩ bà sắp xiết gãy xương vai tôi. Má nói: “Giờ thì con lại là con của má.”
Khi ngồi trong xe trên đường về ba nói: “Má mày ngủ được là tốt lắm. Bả bình tĩnh lại vì mày về. Bả chưa nói gì về chuyện đã xảy ra. Do đâu mà bả làm như vậy. Mày có thích ăn bánh cottage pie [11] không? Tao mua ở siêu thị Asda để ăn khi uống trà.”
Tôi hỏi: “Có tiệm pizza nào ở đâu không?”
“Không, chi vậy?”
“Không có gì.”
Khi chúng tôi đến nhà thì trời tối. Tôi hài lòng. Tôi không muốn có ai thấy tôi bước xuống xe. Nếu trời sáng thì mọi người nhìn ra cửa sổ nhà bếp, cho dù mình không thể thấy họ. Họ sẽ nói: “Xem kìa, Graham Sinclair ở London về. Chỉ vì hắn lên báo thôi mà hắn nghĩ rằng hắn đặc biệt, nhưng chúng ta biết hắn chỉ là thằng bệnh hoạn như trước đây thôi. Thêm nữa, má nó bị tâm thần, bả tự tử đó.”
Chuyện trở về thật là lạ. Không khí có cái mùi đặc biệt mà tôi đã không để ý thấy khi tôi sống ở đây suốt thời gian qua. Nó là mùi bụi than nhưng nó còn các thứ khác. Giày của bà ngoại có mùi của xưởng chế biến thực phẩm cho chó, khói trắng của nhà máy điện, mùi hoa nhựa của xà-bông rửa xe, mùi của từng căn nhà rỉ ra các cửa sổ để mở: dầu tóc và thuốc xịt nách và nước sốt tôm chiên nhanh và giấy gói đĩa DVD và thuốc khử mùi nhà vệ sinh và lược của người già. Trước đây tôi đã ngửi hết nhưng tôi không biết rằng mình đang ngửi, tôi chưa từng ngửi mùi gì khác. Giờ nó vừa mới vừa cũ. Cứ như là một giấc mơ.
Ba nấu đậu Hà Lan đông lạnh với cottage pie. Ăn cũng tạm được nhưng không ngon bằng gà chiên Jalfrezi hay một cái pizza ở cầu Putney. Trong lúc cùng ăn trong bếp, tôi thấy cái ấm đun nước mới mà ba má chưa có khi tôi đi. Trông nó không được hay lắm, quá sáng bóng và to như một quả bóng rổ bằng kim loại. Ăn xong ba ợ lớn, điều này ông chưa từng làm khi có mặt má. Ba dọn đĩa bỏ vào chậu rửa chén bát và nói: “Tao chắc là ở dưới đó mày có uống rượu, phải không?”
Tôi đáp: “Dạ có. Bia Stella, bia Murphy’s và rượu sâm-banh.”
Ông hỏi lại: “Sâm-banh à?” như thể ông không tin lời tôi.
Tôi không kể với ông về Jennifer, tôi chỉ nói: “Dạ. Sâm-banh.”
Ba hỏi: “Muốn uống thử một chút uých-ky không?” Ông giống như một ông ba khác.
Chúng tôi vào nhà kho. Ông lôi ra một cái ghế đẩu dính đầy sơn cho tôi ngồi, rồi nói: “Đi lấy một cái ly để uống uých-ky.”
Khi tôi từ trong bếp trở vào thì ông đã lấy ra một chai uých-ky và hộp xì-gà. Ông mở nắp chai uých-ky. Nó kêu lên rin rít khi mở ra. Ông làm rất thận trọng.
Ông để cái nắp xuống cạnh hộp xì-gà rồi hít ngửi chai rượu, rồi dí nó vào dưới mũi tôi. Tôi ho lên. Tôi không thở được. Hơi rượu bốc lên suýt làm tôi bể lỗ mũi. Tôi chưa từng uống uých-ky. Ông đặt cái vại bằng thiếc của ông và cái ly của tôi cạnh nhau rồi rót rượu vào. Ông gật đầu ra hiệu cho tôi lấy ly của mình. Ông nói: “Từ từ nha. Nhấp một ngụm thôi.” Chất rượu đốt cháy môi lưỡi tôi cay xè, tôi cảm thấy nó chạy thẳng xuống bao tử, như một cục mật quấn quanh một cái muỗng nóng. Tôi tưởng tượng nó đốt lên một đống lửa trại khổng lồ khi chạm vào đáy bao tử, nhưng rồi nó lại tưng lên tận đỉnh và đầu tôi kêu u u. “Ngon không mậy?” Ba hỏi và tôi gật đầu.
Rồi tôi hỏi: “Em trai con tên gì vậy?”
Ba nghịch chơi với cái hộp xì-gà. Ông lấy ra một điếu rồi xoay xoay nó trên những ngón tay, rồi ông hít hà ngửi dọc theo thân nó. “Cái gì?”
“Má nói con có một đứa em trai bị chết. Sao nó chết vậy? Nó tên gì?” Tôi sắp hỏi về đôi tay của em tôi, nhưng tôi lại không hỏi. Thắc mắc nhiều chuyện quá.
“Nó là… chuyện này lâu lắm rồi,” Ba nói. “Nó sanh non. Mày có biết vậy nghĩa là gì không?”
Tôi đáp: “Dạ, biết. Sanh quá sớm. Lúc đó con mấy tuổi?”
“Tao nghĩ, chắc hồi đó mày chừng hai tuổi.”
“Nó tên gì?”
“Graham nè, chuyện đó không quan trọng.”
“Dạ, quan trọng chứ.”
“Nó tên George.”
“George!” Tôi thấy những vết trầy trên lưng tay của ba mà tôi chưa hề thấy trước đây. Có ba vệt đóng vảy. Ở những chỗ miếng vảy bị tróc ra thì da màu hồng và trông rất mỏng. “Tay ba bị sao vậy?” tôi hỏi.
Ba đáp: “Chỉ là… Khi má mày lên cơn thì nhiều khi bả trở nên rất khó chịu.”
“Má cào tay ba?”
“Có khi bả mạnh lắm, mày biết mà.”
“Con biết.” Tôi nhớ lại khi nãy má ôm chặt tôi. “Rồi má làm gì đây?”
“Người ta không nói gì với bả. Này, thấy cái áo choàng đó không?” Ông chỉ cái áo choàng dài màu xám treo trên móc sau cánh cửa của nhà kho. Ông đốt điếu xì-gà. Ông đánh môi kêu lụp bụp khi rít thuốc cho nó cháy. Đốm cháy đỏ rực chạy xuống điếu xì-gà và nó nổ tanh tách như dây điện trên cao khi trời mưa. Ông nói: “Cái áo đó là áo choàng của Lực lượng Không quân Hoàng gia.” Ông nói không tròn lời vì khói tuôn ra miệng. “Của một ông chú đi lính không quân. Tao thường mặc nó khi đón xe đi nhờ.” Rồi ông nói tiếp về chuyện đi nhờ xe một hồi.
Khói trắng và mùi xì-gà nâu ấm áp ứ đầy căn nhà kho và rượu uých-ky đầy trong đầu tôi. “Ba có quen má chưa khi ba đón xe đi nhờ?” tôi hỏi.
“Chưa. Trước đấy kìa.”
“Ba gặp má ở đâu?”
“Má mày à? Ở Hendon. Tao ở dưới đó ba tháng và gặp má mày ở đó. Bả làm bồi bàn.”
“Vậy à?” Tôi nghĩ về má như trong một cuốn phim trắng đen cũ, có một cái tạp-dề trắng đeo trước ngực.
Ông nói: “Bả thuê cái phòng nhỏ. Má bả đuổi bả ra khỏi nhà.”
“Cái gì, bà ngoại à?” Tôi không tin nổi chuyện này.
“Làm tí nữa nghen? Thôi, kể về những cuộc phiêu lưu của mày đi. Cậu George có hay đưa mày đi chơi không?”
“Tại sao bà ngoại đuổi má ra khỏi nhà vậy?”
Ba thổi vào đầu điếu xì-gà để cho nó cháy lại. Nó đỏ rực lên như ngọn đèn đỏ ở cột đèn giao thông. Ông nói: “Ô, mày biết mà. Đừng hỏi. Giờ chắc họ cũng không nhớ lại được đâu.”
“Hồi đó má như thế nào? Có phải đầu má như cái hầm nhà băng không?”
Ba đang rít điếu xì-gà. Ông ngậm khói trong miệng rồi đảo mắt khi ngó tôi. Ông thổi khói ra. Trong một thoáng giây khói là đà trên không như đuôi một con mèo rồi bay mất vào các góc nhà. “Như cái hầm nhà băng?” Ba nói. “Mày muốn nói cái gì vậy?”
“Cậu George nói như vậy.”
“Ô, cậu George. Nó có đối xử có đàng hoàng với mày không? Dù mày có thích hay không thì chính những kẻ như cậu George của trần gian này là những kẻ đầu têu mọi việc.”
“Con nghĩ là cậu muốn nói rằng má có những bí mật quan trọng lắm.”
“Không như mày nhận thấy đâu.”
Rồi tôi muốn hỏi về cái ngày mà tôi với ba và ông ngoại đi xem chiếc xe E-Type, chuyện gì đã xảy ra giữa má và bà ngoại khi chúng tôi để họ ở nhà. Tôi muốn hỏi về thằng em George của tôi, nếu còn sống thì lúc này nó đã mười hai tuổi. Nhưng tôi không hỏi. Mà tôi lại nói về cậu George. Tôi bịa ra rằng tối nào chúng tôi cũng đi với nhau vào quán rượu. Tôi không nhắc về Jennifer hay Kate, hay cây đàn hiệu Bechstein, hay nhóc tì Ade hay vụ rớt máy bay. Ba không khoái mấy chuyện đó. Ông muốn nghe về chuyện bia dưới miền Nam nhạt như thế nào.
Sau cùng ông nhìn đồng hồ rồi nói: “Chà, tao nghĩ là…” điều đó có nghĩa là đã đến giờ đi ngủ.
Tôi buồn ngủ lắm rồi. Tôi quên mất mình đã ở đâu, với ai. Tôi duỗi các ngón tay kêu lắc rắc làm ba nổi cơn lên. Ông nói: “Tại sao mày luôn luôn phải làm hỏng mọi chuyện đi?”
Phòng ngủ của tôi thật ngăn nắp. Tôi kéo mấy cái ngăn kéo ra. Chúng đầy những thứ từ hàng triệu năm trước như cái cuốn hộ chiếu mà tôi chưa từng dùng đến. Tấm hình chụp ở một tiệm hình ở trung tâm Arndale. Miệng tôi đang há to, tôi trông không được bình thường, như một tay Cả Quỷnh thứ thiệt. Những áo quần mà tôi quên rằng mình đã có, vở bài tập ở trường. Không có chuyện tôi trở lại Roger de Coverley với bọn người như Brian đốt tóc tôi và nhỏ Kylie đã cho tôi ra rìa đâu.
Tôi tắt đèn. Tôi nghe tiếng ba trong phòng tắm. Ông xả bồn cầu và mở cửa trong lúc nước còn đang xả xuống. Ông đóng cửa phòng ngủ của ông. Tiếng nước xối ngưng. Giường của ba kêu cọt kẹt khi ông leo lên. Im lắng. Rồi tiếng của một giọt nước rớt xuống bồn cầu. Rồi lại im lắng. Ở đây thật là yên tĩnh.
Tôi cắm tai nghe máy Discman vào và nghe nhạc của ban nhạc rock Cooper Temple Clause. Tôi đứng nhìn ra cửa sổ thấy đèn pha của xe cộ chạy trên con đường vành đai. Tôi bấm nút dừng máy CD. Tôi không nghe được tiếng xe. Rồi một chiếc tàu chạy ngang. Nó chạy đến trong tiếng huyên náo và hình lòa nhòa của những cửa sổ sáng đèn rồi mất hút vào bóng đêm. Tôi tưởng tượng hai giờ nữa nó đến King’s Cross. Hành khách xuống tàu và tỏa ra các ngả đường, lên các chuyến xe buýt và xe điện ngầm và bị quét mất như bụi quét khỏi lò sưởi.
Tôi có thể đi học ở London. Tôi có thể ngụ ở căn chung cư của Jennifer. Tôi nghĩ về đôi mắt bầm của má.
Tôi lấy di động ra và mở máy lên. Khung máy lóe xanh trong bóng tối. Không có tin nhắn nào. Tôi nhớ lời Kate đã nói. Tôi nghĩ tới việc nhắn tin cho cô nhưng tôi không nghĩ ra chuyện gì để nhắn. Tôi ao ước Jennifer gọi cho mình nhưng nàng không gọi.
Sáng hôm sau tôi chạy vội từ nhà ra xe. Tôi ngồi thấp xuống bên ghế hành khách. Tôi không muốn một ai trên phố thấy mình. Ba thả tôi xuống bệnh viện trên đường tới sở làm. Ngồi trên xe, ông lại bàn tiếp về chuyện tôi đi học trở lại. Tôi ngồi im không nói. Ông nói sẽ gởi cho cậu George tấm séc bảy mươi pao. Tôi nói không cần đâu, cậu George sẽ đến thăm má nay mai.
Ba hỏi: “Cậu đến à?” Giọng ông đầy vẻ ngạc nhiên. Lần duy nhất cậu George lên đây là vì cậu có thể kiếm được bốn ngàn khi mua chiếc Merc trong một cuộc đấu giá xe hơi ở gần đây. Tôi không hiểu vì sao tôi nói dối, trừ việc tôi không muốn cậu lấy được nhiều tiền hơn số tôi vay.
Ba nói tôi có thể ở đó với mẹ bao lâu tùy thích rồi đón xe buýt về nhà. Ông mò túi móc ví ra và nói: “Thôi, đi taxi đi.” Ông lấy ra một tờ mười pao và một tờ năm pao. Rồi ông đưa tôi thêm một tờ năm pao và nói: “Để ăn tối.” Rồi thêm một tờ năm pao nữa. Ông vò tóc mái tôi: “Cắt tóc đi. Đồng ý không?”
Tôi nói: “Đồng ý.”
Tôi mua một tờ Nguyệt Cầu ở sạp báo của bệnh viện rồi xem trong thang máy. Chỉ cần nửa bộ óc thôi cũng hiểu rằng người mà tờ báo ám chỉ chính là tôi. Họ sử dụng một tấm hình khác trong số hình mà Marlon đã chụp tôi và Ade nhưng họ xóa tôi đi nên tôi là một cái bóng thôi. Bên dưới ghi là:
NGƯỜI HÙNG BỊ CÁC T. T. VỤ ÁN TÌNH DỤC ĐIỀU TRA
Tác giả John Doe
Chàng trai vừa mới đây chiếm được trái tim của cả nước đã bị một đơn vị cảnh sát đặc biệt thẩm vấn để điều tra những vụ tấn công các cô gái. Chúng tôi hiểu rằng những vụ điều tra này, đã từ nhiều năm trước, có liên quan đến nhiều vụ án khác nhau trong nhiều vùng khắp nước. Theo những phát hiện này, Nguyệt Cầu thấy rằng mình có một trách nhiệm đạo đức để nêu thắc mắc rằng gia đình của nghi can có nên tiếp tục nhận đứa bé kia làm con nuôi hay không…
Trong thang máy có một người lao công quét dọn có một chiếc xe đẩy dựng hai cây chùi nhà. Mấy cây chùi nhà trông giống như người gầy tong teo đội tóc giả. Tôi gấp tờ báo lại. Tôi đang thắc mắc “T. T.” nghĩa là gì? Rồi tôi hiểu ra: các thám tử. Tôi tự hỏi có phải mình đã bị các thám tử đảm trách về tội phạm tình dục thẩm vấn hay không và mình đã quên mất. Ví dụ, hôm qua, trước khi tôi lên chuyến tàu từ King’s Cross, có thể tôi đã có đủ thời gian để vào một đồn cảnh sát và bị thẩm vấn. Hay họ bắt tôi ở trên này và kiểm tra tôi thật nhanh trước khi tôi ăn mấy cái bánh cottage pie của siêu thị Asda. Và tôi đã quên mất. Nói cách khác, có phải tôi cũng bị khùng như má rồi chăng?
Tôi và má nói chuyện. Bà dựa trên khoảng năm cái gối tấn sau lưng. Bà vẫn mỉm cười và giơ tay lên mặt nói: “Ôôô, đau ghê. Nhưng má không thể nín cười. Con có mặt ở đây làm má vui quá Graham à.”
Má có vẻ bình thường nhưng rồi bà lại nói lăng nhăng gì đó biểu lộ rõ ràng là bà hơi khùng. Tôi ngồi trong một cái ghế bành khá đẹp kế bên giường. Tôi để đôi tay giữa hai đầu gối. Má cứ ngó chúng. Tôi nghĩ bà sắp hỏi tôi có chùi rửa chúng không. Tôi mong bà không hỏi, vì chuyện đó làm cho tôi cáu với bà và rồi tôi cảm thấy có lỗi. Nhưng bà không nhắc nhở gì về chúng. Má hỏi: “Tối qua con ăn gì?”
Đôi mắt và cái lằn kỳ cục vắt ngang qua trán bà sáng nay trông còn tệ hơn. Giờ thì chúng vừa xanh vừa đen vừa bầm tím. Tôi tưởng tượng chuyện đầu của má nện xuống mặt đất. Tôi tưởng tượng một cô y tá đang nghĩ những chuyện riêng tư trong lúc nghỉ giữa giờ, nhúng bánh quy sô-cô-la vào tách trà, thì đột nhiên một thân người rơi vụt qua cửa sổ làm cô kinh hoàng chạy đến nhìn. Thân thể còng queo của má nằm trên cỏ. Rồi tôi lại nghĩ, có khi ở đó không có cỏ. Có thể là những bồn rác khổng lồ bằng kim loại mà người ta ném những túi rác lớn vào, hay là những xe cứu thương đậu nối đuôi nhau. Có thể má va vào mui của một chiếc xe cứu thương. Tôi muốn hỏi má chuyện gì đã xảy ra nhưng tôi không hỏi. Tôi đáp: “Bánh cottage pie của Asda.”
“Ngon không?”
“Ba nấu đậu Hà Lan đông lạnh với nó.”
“Tốt.”
“Má có nhớ hồi mình có món ăn Ấn Độ và má ăn nguyên một trái ớt không?” Má giơ tay ra. Bà chờ tôi đặt tay tôi vào tay bà nhưng tôi không muốn làm vậy.
Cả hai tay tôi thoải mái dễ chịu khi để giữa hai đầu gối.
Một y tá bước vào phòng hỏi: “Bà khỏe không?”
Má đáp: “Khá nhiều rồi.”
“Cuộc đời trôi vèo cái là hết, phải không bà?” Tôi nghĩ giọng bà ta hơi mỉa mai.
“Sáng nay thì đúng vậy thật. Đây là Graham, con trai tôi.”
Bà y tá nói: “Vậy à.” Bà ta có bộ ngực đồ sộ hơi giống cái bụng bia của cậu George, tức là thật khó mà biết nó dừng ở chỗ nào và phần còn lại của thân thể bà bắt đầu ở đâu. Bà không giống với cô y tá mà tôi vừa tưởng tượng, nhúng cái bánh quy vào tách trà trong giờ nghỉ giải lao. Cô y tá đó trông hơi giống Jennifer.
Tôi nói: “Chào bà.”
Bà y tá đưa má mấy viên thuốc đựng trên cái khay bằng cạc-tông. Bà hát: “Lắc nhẹ nhàng thôi, xe ngựa yêu dấu…” Rồi hỏi: “Bà có muốn uống chút nước không? Cái thứ nước không hạp với bộ tản nhiệt của xe hơi đấy.”
Má nói: “Vâng, cho tôi xin.” Trong lúc bà y tá ra khỏi phòng má nói: “Bó hoa con tặng má thiệt là đẹp.” Tôi bước tới cửa sổ, giả vờ ngắm mấy bông hoa, nhưng thật ra tôi cố nhìn ra cửa sổ xem có thể thấy chỗ má đã rớt xuống không. Bà y tá trở vào làm tôi phải quay trở lại trước khi tôi kịp thấy gì. Má uống thuốc.
Khi má nuốt, bà y tá nói: “Tôi tin là cậu thích bóng đá.”
Tôi đáp: “Đội Leeds.”
“Ô, đúng rồi cưng.”
Má nói: “Nó sắp đi học lại.” Tôi không nói gì. “Nó là một chàng trai xuất sắc đấy.”
Bà y tá nói: “Tôi biết cậu ấy xuất sắc mà.”
Má hỏi: “Con xuất sắc phải không Graham?”
Tôi đáp: “Không hẳn đâu.”
Má trợn tròn mắt và thở dài. Má nói: “Kể cho bả nghe đi nào, Graham.”
Tôi nói: “Má…”
Bà y tá nói: “Bây giờ bà ấy thường ngủ trưa một chút. Sao hai má con không ngồi yên lặng với nhau một lúc đi?”
Tôi đáp: “Dạ.”
Khi bà y tá đã đi khuất, má nói: “Sao con không kể cho bả nghe?”
“Kể chuyện gì?”
“Con biết chuyện gì mà, Graham.” Rồi bà ngủ thiếp đi.
Tôi đi tìm phòng vệ sinh. Trong phòng vệ sinh tôi gọi cho Jennifer bằng máy di động. Tôi không nghĩ rằng có nàng ở đó nhưng tôi sai. Nàng nói: “Slater nghe đây.” Tôi đã nôn nóng được nghe giọng của nàng nhưng giọng nàng lại lạnh băng. Tôi muốn giọng nàng thật nồng ấm khi nàng nhận ra là tôi nhưng nó lại thờ ơ. Nàng hỏi về má và tôi nói má ổn rồi. Tôi hỏi nàng có xem tờ Nguyệt Cầu không, nàng có vẻ bực mình. Nàng nói: “Này, tôi đã nói với anh. Tôi không biết phải đề nghị cái gì khác ngoài việc chúng ta hợp thức hóa chuyện ấy. Chỉ cách đó thôi mình mới nói minh bạch ra được.”
Tôi không nói lời nào. Tôi không thấy bực mình bởi những lời của nàng nói, tôi chỉ nghĩ đến chuyện do đâu giọng nàng không nồng ấm.
Nàng nói: “Này, tôi xin lỗi, Graham. Tôi phải đi đây. Khi nào anh trở lại? Mình cần phải tính chuyện này khi gặp mặt nhau.” Rồi nàng có vẻ lo lắng: “Graham? Anh còn đó không?”
Tôi đáp: “Còn.”
“Lúc này anh không làm điều gì xuẩn ngốc đấy chứ?”
“Như chuyện gì nào?”
“Như nói chuyện với lầm người.”
Tôi không hiểu ý nàng muốn nói gì. Tôi nói: “Không.”
“Vậy thì khi nào anh đến?”
Tôi không biết. Tôi đáp: “Trong một vài ngày. Tôi phải giải quyết ít việc. Chờ cho má thật ổn và các chuyện khác.”
Jennifer nói: “Còn hộ chiếu của anh thì sao? Anh không quên đấy chứ? Đừng quên chuyện đó.”
“Đừng lo. Tôi sẽ lấy nó.”
* * *
Khi má thức giấc tôi hỏi: “Vì sao bà ngoại lại đuổi má ra khỏi nhà?”
Má đáp: “Bà ngoại đâu có đuổi má.” Bà khóc. Lần này tôi đưa tay ra cho má, má nâng chúng lên vòng quanh vai bà, rồi tôi vuốt xuống lưng bà và thấy các tấm xương vai. Nước mắt má làm ướt áo thun của tôi. Khi có thể nói lại được, bà nói: “Má đã phải đi khỏi nhà thôi.”
“Vì sao?”
“Con biết vì sao mà.”
“Không, con không biết.” Má vuốt tóc sau đầu tôi, ý nói là: Con biết mà.
Má nói: “Tóc con dài rồi.”
“Sao cậu George nói đầu má giống cái hầm của nhà băng khi má còn bé?”
“Cậu có thể nói vậy. Bà ngoại nói cậu sanh ra to bự sự và ngày càng to. To con và lông lá.”
“Cậu muốn nói là có nhiều thứ bị kẹt trong đó,” tôi nói.
“Tại sao?” Má lắp bắp nói trên vai tôi. Giờ thì má ôm choàng lấy tôi và cười khúc khích, tôi không thích như vậy. “Cậu có nói là cậu đã nhìn trộm vào bên trong khi má không để ý không? Chắc cậu giật mình.”
“Cậu không nói chuyện đó. Cậu nói cậu và ông bà không nhìn vào trong.”
“Bà ngoại con thường nói: ‘Đừng có tìm cái mà mày không muốn tìm thấy.’ Con nên hiểu điều đó. Phải không nào?” Bà lại ôm tôi.
Tôi muốn hỏi bà về thằng em tên George của tôi. Tôi muốn biết đôi tay nó như thế nào. Và tôi suýt hỏi bà. Nhưng rồi tôi nghĩ ra một chuyện. Nếu đôi tay nó bình thường thì chắc má nghĩ thằng nhóc đã chết oan. Chắc bà đã mong tôi chết, chứ không phải là George. Và nếu tôi hỏi má chuyện đó thì tất nhiên má sẽ chối cho dù đó là sự thật. Và tôi sẽ chẳng bao giờ biết rõ. Có những câu hỏi không nên hỏi. Vì thế, tôi chỉ hỏi: “Vì sao má nhảy khỏi mái nhà vậy? Vì sao má lại muốn tự tử?”
Má đáp: “Má đâu có tự tử.”
“Má tự tử mà.”
“Không có đâu. Graham, con yêu.” Má lại ôm choàng lấy tôi nhưng lần này bà không cười khúc khích nữa. Bà nhìn ngay vào mắt tôi. Đôi mắt bà màu xanh, rất mệt mỏi và trông trống rỗng, giống như bà mất hai ngày dìu một người bị thương ra khỏi một ngọn núi mà người đó vẫn chết. Bà nói: “Xét ra thì má ổn rồi. Má chỉ đáp xuống đất dở ẹt thôi.”
Trời ạ, tên của tôi là Graham Sinclair. Đây là sự ngu xuẩn của tôi.
Nhiều lúc tôi “tắt máy” bộ não của mình. Tôi biết chắc là phải có tiếng động ghê lắm vang lên trong đó nhưng chỉ là hư vô. Má để tay ra sau đầu tôi. Tôi tự hỏi bà có cảm nhận được cái không gian hoang trống lạnh lẽo dưới bàn tay mình không. Bà vuốt tóc tôi và nói: “Nếu má cho tiền con có chịu cắt tóc không?”
Mặt chúng tôi cách nhau có mười centimet thôi nhưng tiếng bà vọng lên như thể tôi đang đứng ở một đầu của con đường hầm dài và hẹp, còn má ở đầu kia.
“Dạ.”
“Tìm trong cái ngăn tủ trên cùng. Có mấy tờ bạc ở đó.”