← Quay lại trang sách

Chương mười bảy

Cùng với hai mươi pao tôi lấy của má thì tôi có tất cả là sáu mươi pao sáu mươi ba xu. Tôi đi bộ khi rời bệnh viện, tôi không biết đi đâu. Đã lâu trời không mưa và vạn vật có vẻ đầy bụi bặm. Tôi đi ngang qua một ngôi nhà thờ có dàn giáo dựng quanh tháp. Trông giống như bản phác họa một cái nhà thờ trên giấy kẻ ô vuông. Người ta đang biến ngôi nhà thờ thành một nhà kho.

Bên ngoài có tấm bảng ghi: Máy gặt giá cực sốc.

So với London thì ở đây không có nhiều người đi lại loanh quanh. Những người ở đây có bề ngoài rất khác. Họ mập hơn hoặc gầy hơn, chứ không nằm ở khoảng giữa. Họ có vẻ như hoặc là có thói thèm ăn ghê lắm, hoặc là nghiện ma túy. Con gái thì quê mùa thô kệch, còn con trai thì ngông nghêng cà tửng. Có vẻ như họ đều chăm chú nhìn tôi nên tôi gấp cánh tay lại để họ không thấy được bàn tay. Rồi tôi nghe có ai đó nói: “Cậu bé anh hùng” với bạn hắn khi đi ngang. Ai đó cũng kêu lên như vậy từ bên kia đường. Đây là điều luôn xảy ra ở những nơi bên ngoài London. Người London rất thờ ơ lãnh đạm, họ vờ như không nhận ra bạn cho dù họ thấy bạn từ xa, nhưng ở đây thì người ta không thờ ơ lãnh đạm như ở London. Tôi cảm thấy khá vui vì điều đó. Dù niềm vui chỉ kéo dài có hai giây thôi.

Tôi tự hỏi có nên vẫy tay chào lại không, chỉ vẫy sơ để chào mà không ra vẻ tự đắc. Một giọng con gái sau lưng tôi la lớn lên: “Ồ,” và lần này thì tôi vẫy. Tôi cũng quay lại. Ba đứa nhóc đang chạy quanh góc phố, chỗ có một tiệm bán món cà-ri cho khách mang đi tên là Captain Korma. Chúng vừa la vừa cười to. Ban đầu tôi không không hiểu được chúng làm trò khỉ gì, rồi tôi nhận ra. Chúng đang gào lên “Cả Quỷnh” và “Đồ Mất Nết”.

Trong tích tắc, mọi chuyện trở nên không hay ho chút nào với việc phải nghe lại những trò chọc ghẹo đó. Rồi tôi mừng vì nó đã xảy ra, vì khiến tôi quyết định dứt khoát. Đột nhiên tôi biết mình đang đi đâu: Tôi đang vù khỏi nơi này, đi khỏi bọn đần độn xuẩn ngốc và bà mẹ khùng của tôi, người kể với tôi một chuyện dối trá tệ hại, không chỉ một lần thôi mà luôn luôn như vậy, cả cuộc đời bà. Trên đường đến nhà ga tôi trơ trơ ra, không ngó ngàng đến ai và cố giữ đầu óc trong trạng thái ngái ngủ. Tôi tìm chỗ để gại sình đất và cứt chó ra khỏi đôi giày, rồi đá bay tung mấy cái nắp chai bằng mũi của đôi giày thể thao.

Tôi cho phép mình tơ tưởng đến đôi giày thể thao của Kate. Tôi mơ một đôi Pumas cho mình. Rồi tôi tự hỏi làm sao mình có đủ tiền để mua nổi nó. Sau khi mua vé đi London thì tôi sẽ không còn mấy tiền. Ở nhà ga tôi mua một vé trẻ con đến ga King’s Cross mất hai mươi tám pao, tôi còn được ba mươi hai pao và sáu mươi ba xu. Tôi phải chờ trong mười bốn phút. Ở thềm ga số một tôi gọi cho số di động của Jennifer. Tôi nghe tiếng trả lời ngay: “Dịch vụ nhận tin nhắn Orange xin chào quý khách.”

Tôi nói: “Graham đây. Có chuyện thật là quái gở xảy ra. Tôi trở lại London ngay bây giờ. Tôi đang chờ tàu. Tôi đi chuyến 14:05. Nó sẽ đến lúc 15:53. Tôi có thể ở với cô không? Tôi sẽ gọi cho cô sau. Chúc vui.”

Bỗng nhiên tôi thấy thật nóng. Tôi thấy mồ hôi chảy sau cổ, sau đầu gối, trong quần lót và dưới nách. Tôi giở cánh tay lên ngửi. Nách tôi thoang thoảng bốc mùi.

Lần này tôi không ngắm cảnh khi con tàu chạy qua những cánh đồng mà tôi thường chơi ở đó. Tôi đang cố không nghĩ đến việc mình từ đâu đến; tôi tập trung nghĩ mình đang đi đâu. Tôi tưởng tượng ra mình trong một vài tháng tới, trong bộ cánh thật chiến, không phải mặc những cái áo thun này nữa. Tôi và Jennifer sẽ đi chơi ở nhiều nơi với nhau, trông tôi hạp với nàng hơn. Kiểu tóc mới, có lẽ giọng nói cũng mới luôn. Cái giọng Yorkshire này là một kiểu nói rất quê mùa, đúng vậy đấy. Tía ơi tía, con cá gô kieêu gggột gggột ở chong gggooỗ…

Đó là những gì tôi đang nghĩ đến, nhưng rồi đầu óc tôi lại cứ quay về với má. Bà đã nói gì nhỉ? “Xét ra thì má ổn rồi. Má chỉ đáp xuống đất dở ẹt thôi.” Tôi lặp lại câu nói đó nhiều lần trong đầu, và cảm thấy đầu mình chứa đầy những chuyện tôi nhớ về hai má con với nhau và những điều bà đã nói. Bác sĩ Morrison và Lulworth Cove và Kylie Blounce. Bà đứng lên khi vừa đáp xuống đất và nói bà không nghe được tôi. Tôi thấy nóng quá, đổ mồ hôi khắp người.

Bên ngoài, bầu trời như ban đêm. Nhìn qua cửa sổ toa tàu, tôi thấy một đám mây phủ khắp cả bầu trời. Nó dài khoảng mười cây số. Trừ những chỗ màu xanh lục, thì nó màu xanh và đen, như đôi mắt đầy thương tích của má. Một giọt mưa rơi bộp trên cửa kính sát bên đầu tôi. Nó trở thành một vệt nước kéo dài chừng hai mét trên cửa sổ. Rồi con tàu biến vệt nước thành vô số giọt nước nhỏ rung rung. Thêm một giọt vỡ tan, thêm một giọt nữa, rồi cửa sổ bị bao phủ trong màn mưa. Cơn mưa không êm ả ru lòng.

Hẳn có cầu vồng mọc lên ở một nơi nào đó. Mưa vẫn rơi nhưng trời cũng đang có nắng. Tôi nhìn ra cả hai phía của toa tàu nhưng không thấy cầu vồng. Một nơi nào đó ở ngoài kia, trong nước Anh, có lẽ có một gã đang đứng ngay nơi cầu vồng mọc mà chẳng biết chút gì về nó. Kate đã nói gì nhỉ? “Nó có tệ lắm không?” hàm ý bí mật của tôi, và tôi trả lời là không và cô hỏi tiếp: “Vậy thì sao nó lại là bí mật chứ?” Thật là một câu hỏi hay. Nó là bí mật vì má nói với tôi là phải giữ bí mật. Nhưng nó không cần phải là bí mật. Nếu má đã cho tôi biết bí mật của má, trong suốt thời gian mà bà có thể kể, nếu má đã cho tôi biết bí mật của bà, thì mọi chuyện đã khác rồi. Nó hẳn đã giống việc vừa ngắm cầu vồng vừa cùng lúc có mặt ở ngay trong nó.

Không có bí mật nào cả, chỉ có tôi thôi.

Chỉ có tôi và địa đàng Park Lane. Đây là điều tôi nghĩ đến trong suốt thời gian còn lại của chuyến đi. Tôi sẽ đến Park Lane và tôi sẽ thực hiện điều đó. Khi tôi tưởng tượng nó, thì như có một luồng điện giật chạy suốt trong thân thể. Tôi không hề biết Park Lane trông như thế nào, tôi chỉ có được ý tưởng này trong đầu thôi. Các tòa nhà khách sạn hẳn giống như các vách đá. Park Lane là Lulworth Cove được làm ra bằng các cửa sổ. Tận trên tầng chín, tài tử Brad Pitt trong chiếc áo khoác chùng đang đứng bên một phụ nữ sang trọng có cái khăn tắm trùm cao trên đầu, và bên dưới là mấy tay đội mũ cao đang mở cửa cho quý ông đội mũ lưỡi trai kiểu phi công.

Trước mặt là một con đường xe cộ chạy vùn vụt trên năm làn đường, và rồi, ở phía bên kia, là một công viên thật to. Tôi đi vào công viên khoảng một giờ trưa, thấy người ta đi tản bộ loanh quanh trong giờ ăn trưa và tôi sẽ thực hiện nó. Tôi thấy những người này đang ăn dở món tôm và bánh mì săng-uých của tiệm World Bean, họ ngước nhìn lên khi miệng còn đầy những sốt may-on-ne nghiền nhừ. Nhưng tôi nên xuất hiện bên phía gần các khách sạn để cho những kẻ như Brad Pitt có thể ló đầu qua cửa sổ căn hộ penhouse của họ mà kêu lên: “Ái chà chà, này, đến mà xem cái này này.”

Rồi tôi lo lắng về con đường. Nếu người ta lái xe trên con đường điên rồ đó mà ngó thấy tôi thì chắc họ sẽ tông nhau quá. Họ sẽ bận ngó lên trên cao nên sẽ tông vào xe chạy trước, và chắc sẽ đổ dồn lại thành đống khủng khiếp làm khối kẻ tiêu mạng. Lòng tôi kinh hoảng khi nghĩ đến chuyện đó. Cảm giác giống như là nước chùi kiếng xe từ trong bao tử tôi phun ra và trào vào tim.

Jennifer chắc phải giúp tôi. Chúng tôi phải chặn con đường lại nhưng không nói với mọi người vì lý do gì. Họ chỉ chờ xem thôi.

Khi tàu đến ga King’s Cross, tôi cảm thấy quen thuộc như mình về lại nhà. Tôi rất thích đi tà tà (lời của ba) xuống thềm ga, tai lắng nghe tiếng loa thông báo vang lên quanh mình. Tôi giả vờ không nhìn các thanh chắn đường nhưng lại nghía thật nhanh về phía đó. Tôi đang tìm Jennifer. Tôi hi vọng nàng kịp xem tin nhắn của tôi. Tôi hình dung thấy chúng tôi tiến đến với nhau trong sự chuyển động chậm. Chúng tôi sẽ rời nhà ga cùng nhau, ngay trong cái tiếng huyên náo đó của các đợt sóng. Và chúng tôi sẽ trở nên nhỏ dần nhỏ dần cho đến khi chỉ còn là hai đốm nhỏ. Chúng tôi đang cùng nhau bước vào tương lai.

Nhưng tôi đã đi qua thanh chắn đường mà không thấy bóng dáng Jennifer đâu cả. Tôi nghĩ có lẽ nàng đi mua ly cà phê hay tờ báo gì đó nên tôi quyết định chờ, nhưng lúc ấy một giọng nói vang lên: “Có phải anh là Graham Sinclair không?” Tôi quay lại, một tay mặc áo khoác da có một cái gì đó màu đen treo trước lỗ mũi của hắn. Ban đầu tôi không nhận ra nó là cái gì. Tôi nghĩ có lẽ là nước mũi bị không khí London làm ô nhiễm, như các tòa nhà bị nhốm đen và khi người ta lau sạch thì chúng lại trông như mới cho dù đã cũ cả hàng trăm năm rồi. Nhưng tôi có cơ hội để tha hồ xem xét lỗ mũi hắn trong nửa giờ tới vì chúng tôi bị nhét chung với nhau trên băng ghế sau của một chiếc xe cảnh sát, và sau một lúc tôi nhận ra nó là lông mũi, thứ lông mũi thật là rậm.

Khi hắn hỏi: ““Có phải anh là Graham Sinclair không?” thì tôi đáp: “Đúng tôi.” Và hắn nói: “Thanh tra Thám tử Gì đó” (Tôi không nhớ được tên hắn sau đó). Hắn nói: “Anh có thể dành cho chúng tôi một ít thời gian không?” tôi không trả lời vì đó không phải là một câu hỏi chính đáng và hắn không đợi trả lời. Chúng tôi đi ra khỏi nhà ga. Bên ngoài, khí trời nhớp nháp và nặng mùi như London là một cái gói khô lạnh được mở toang ra và chúng tôi ở ngay trên cái sự trơn nhờn còn lại ở hai bên gói. Có cảm giác như mọi thứ quanh tôi: những chiếc xe buýt và những kẻ lang thang và các bảng hiệu xe taxi cỡ nhỏ phục vụ suốt 24 giờ đang rung rung lên. Người ta không nhận ra cảm giác đó trong từng thứ một, nhưng khi đặt mọi thứ lại với nhau thì nó làm cho người ta có cảm giác London là một cơn nhức đầu.

Lỗ Mũi đeo bông tai ở tai bên phải, tôi thấy nó khá hay, nhưng rồi tôi nhận ra ngay nghề của hắn. Hắn là một thám tử về tội phạm tình dục.

Chiếc xe đậu ngay nơi chỉ có xe taxi được phép đậu, bạn chỉ có thể đậu nếu bạn là cớm. Chiếc xe không phải là loại săng-uých kẹp, tức là nó không phải màu trắng có những sọc đỏ huỳnh quang bên hông xe, mà nó là một chiếc Mondeo màu xanh sậm có cỗ máy bự. Nhưng nó vẫn là một xe của cớm. Có một máy bộ đàm ở phía trước. Lỗ Mũi mở cửa sau xe, và khi tôi leo vào thì hắn ấn đầu tôi xuống như thể tôi là con vịt bằng nhựa mà hắn cố đè giữ ở dưới nước. Hắn nói: “Đây là hạ sĩ thám tử Ai Đó.” Hắn ám chỉ một tay khác đã ngồi ở sau xe rồi. Đôi mắt hắn xanh nhạt và những đồng tử màu đen rất nhỏ nhưng rất trông rất tinh nhanh, như chúng là hai cái lỗ rất sâu đâm thẳng xuyên qua sau đầu. Đầu hắn cạo phía sau thành hình một con số hai lởm chởm sậm màu. Trông nó giống như một thanh nam châm có dăm sắt dính trên. Đây là viên thám tử về tội phạm tình dục mang số hai. Tay tài xế ngồi ghế trước có một cái sẹo trên cổ và không nói lời nào. Ở băng ghế sau xe bốc mùi thoang thoảng.

Thật là ma giáo quá. Họ không được phép thẩm vấn tôi mà không có sự hiện diện của một nhân viên xã hội, và tôi không thấy ai cả trừ khi bà ta bị nhét vào ngăn táp-lô kề bên các CD nhạc miền Tây và đồng quê vừa cũ vừa dở ẹt. Họ có thể bị kẹt lớn về vụ này. Họ có thể lên nằm trên trang nhất của tờ Nguyệt Cầu trong thế kẹt, trừ phi tờ Nguyệt Cầu lại cho rằng họ là những người hùng.

Cả Lỗ Mũi và Số Hai đều to con, chắc họ có tập thể dục nhiều. Cánh tay của họ ép vào tôi cả hai bên. Lỗ Mũi có lông ở phía lưng bàn tay. Lông rất thẳng như được chải. Đùi của họ kẹp ở hai bên tôi như là thép khối. Ngực tôi bị gập lại. Tôi để hai tay giữa hai đầu gối mặc dù ở đó rất chật vì tôi không muốn mấy tay thám tử ngó thấy rồi bình luận này nọ. Lỗ Mũi nói: “Cài dây an toàn đi, Ông Sinclair.” Nhưng tôi không thể cài được vì không có dây an toàn ở giữa mà chỉ có ở hai bên thôi, và Lỗ Mũi và bạn hắn đang ngồi đè lên trên. Và dù sao đi nữa tôi không thể nhúc nhích cục cựa gì được.

Số Hai nhích chân ép vào chân tôi. Hắn nói: “Anh đang vi phạm luật lệ, ngồi xe mà không cài dây an toàn. Chúng tôi có thể tính sổ với anh chuyện đó, phải không nào, ông thanh tra?”

Lỗ Mũi đáp: “Đúng vậy, nhưng chúng ta đâu có ác như thế.”

Tay tài xế lái xe vào London. Tôi muốn họ mở kính xe cho thoáng nhưng không dám yêu cầu. Tôi sẽ bị chế giễu thêm thôi. Không ai nói thêm gì nữa và tôi nhìn hai lỗ mũi của Lỗ Mũi.

Ở London, nhiều khi thật khó mà biết được rằng mình đang lên dốc. Mọi vật bị sức nặng hàng triệu tấn của các tòa nhà đè ép xuống. Nhưng trước khi có các tòa nhà, trước khi có các túp lều xập xệ ọp ẹp, ở đó đã có các ngọn đồi và thung lũng, những khu thật dốc và các vách đá nhỏ, ở đó các đấng nam nhi mang cung tên đứng, tay che nắng, quan sát đường chân trời, chờ bọn mọi điên rồ mặt phết sơn xông đến. Và bạn vẫn cảm nhận được sự nhấp nhô lên xuống của nó nếu bạn để ý.

Chiếc xe cảnh sát leo lên một ngọn đồi dài. Một tay thợ sửa đường đang khoan vào ngọn đồi bằng một cái máy khoan nén hơi. Có lẽ đây là lần đầu tiên phần đồi bị đào xới đó ngó thấy bầu trời trong cả hàng ngàn năm. Tay thợ đeo chụp che tai bằng nhựa màu xanh lơ. Hắn cởi trần nhưng trời không có nắng. Vạn vật màu xám xịt và chờ đợi. London đang chờ cơn mưa từ phía Bắc kéo xuống.

Lỗ Mũi phá tan không khí im lặng. Hắn nói: “Một cậu bé phi thường, không phải vậy sao? Một thiên tài Mozart bị xuyên tạc.”

Tôi không hiểu hắn muốn nói về chuyện gì. Tôi hỏi: “Chuyện gì vậy?”

“Thôi được,” hắn nói. “Anh không biết tôi đang nói gì, nếu tôi nói đồ bệnh hoạn ghiền ngửi vớ thì sao đây ngài Sinclair? Hắn thích vớ của con gái. Và những món khác nữa.”

Số Hai đệm thêm: “Và các món khác nữa.”

Lỗ Mũi nói: “Đưa nó cho tôi, Kev ơi.” Tay tài xế bỏ tay trái ra khỏi vô-lăng và đưa cho Lỗ Mũi một vật gì đó lấy trên ghế đằng trước, một cái kẹp hồ sơ màu xanh. Tôi có một cái giống như thế ở trường, cũng cùng màu. Tôi thực hiện một đề án về sự suy sụp của nghề câu cá tuyết ở vùng cảng Grimsby và cất giữ trong đó.

Tôi nói: “Tôi có đọc được chuyện gì đó trên báo.”

Lỗ Mũi nói: “Kể đi. Anh lên báo nhiều lắm, Graham à. Anh có thích xuất hiện trên báo không? Anh khoái chuyện đó chứ?”

Tôi đáp: “Không thích lắm đâu.” Tôi đã nghĩ họ đưa tôi về một đồn cảnh sát nhưng giờ thì tôi hiểu họ chỉ lái xe lòng vòng. Đây là trò thẩm vấn di động.

Lỗ Mũi đưa kẹp hồ sơ cho Số Hai. Hắn mở ra: “Ở đây có một người khác lên báo nữa.” Hắn đặt kẹp hồ sơ lên đầu gối tôi. Hắn có ý muốn bắt tôi lấy tay giữ nó nhưng tôi vẫn để tay giữa hai gối. Tôi chỉ nhón đầu ngón chân và nhấc đầu gối để cái kẹp hồ sơ không trượt đi. Có một bức hình lớn chụp gương mặt một cô gái. Cô trông thật kỳ cục. Một bên mái tóc của cô có hình chóp nón trông giống như cái sừng con kỳ lân, phần còn lại là phần tóc suôn thõng như con số một ngay sau khu gò nhỏ giống như các ngọn đồi của London, những khu vực mà thông thường bạn không nhìn thấy, trừ phi bạn mang một cái máy khoan nén hơi hay dao cạo máy đến với chúng. Cô có một cái răng sún làm tôi nhớ tới cây đàn Bechstein. Quái lạ, sao trông cô quen lắm.

Số Hai quay đầu lại nhìn tôi. Đôi mắt hắn nhìn xoáy vào mặt tôi. Hắn hỏi: “Cô ấy có chi tiền cho anh không, cô Shelley McCabe đấy?” Hắn nói chữ cô giọng mỉa mai. “Món cốc-tai Alcopop trong vùng Shelley ở quán Chim Xanh? Hay anh chi tiền cho cô ấy? Có phải cô ấy là một người làm nghề tự do không, không phải đóng thuế? Có hiệu nghiệm chút nào không hả, anh bạn thân mến?”

“Tôi không biết ông đang nói về chuyện gì,” tôi nói. Tôi đang chơi trò làm mặt lạnh, cái trò mà bọn cớm rất ghét. Họ không nghe thấy những điều trong đầu tôi, nhưng lẽ nào họ không ngửi thấy mùi mồ hôi của tôi, đang chảy đầm đìa khắp người, như đèn đường bật sáng lên khi trời sập tối sao?

Lỗ Mũi hỏi: “Anh có nghĩ là Shelley thích lên báo không?”

Tôi đáp: “Tôi không biết.”

Số Hai nói: “Còn Jade Brinkley ở Orpington thì sao?” Hắn giở qua tờ kế của kẹp hồ sơ. “Cô ấy là một sinh viên ngành thời trang, anh có biết điều đó không? Anh phải có bề ngoài thật đẹp trong trò chơi đó. Thật là đáng xấu hổ.”

Tôi không nhìn tấm hình. Tôi hỏi: “Làm sao các ông biết tôi có mặt trên chuyến tàu đó?”

Lỗ Mũi nói: “Ngoài kia có người quan tâm đến chuyện di chuyển đi lại của anh.”

Tôi hỏi: “George Oxnard à?”

Số Hai nhấc cái kẹp hồ sơ lên nên nó nằm ngay dưới mũi tôi. Hắn hỏi: “Có phải anh nhận ra công trình của mình rồi à?”

Tôi giả vờ nhìn nhưng lại không tập trung ánh mắt vào đó. Tôi chỉ thấy một đốm là gương mặt màu hồng và một đốm là mái tóc màu đen trên đó.

Số Hai nói: “Anh có vẻ khoái nhìn cái đó lắm nhỉ?”

Tôi quay lại với Lỗ Mũi: “Đó là ai vậy?”

Lỗ Mũi nói: “Anh không thấy bối rối sao, chàng trai?”

Số Hai nói: “Anh có biết công viên Bishop ở đâu không?”

Tôi đáp: “Biết. Kế bên khu ổ chuột Fulham.”

Số Hai nói: “Anh có ở đó lúc mười giờ tối ngày mười hai tháng Bảy, hay có bao giờ anh tới công viên Bishop khu Tây Nam 6 [12] chưa?”

Tôi đánh mất nó rồi. Tiếng động trong đầu tôi thoát mất. Nhưng nó không thoát ra như tiếng động, mà nó thoát như mồ hôi tuôn ra xối xả. Và máu. Máu dồn chảy lên hai má tôi.

Tôi thấy Số Hai ngó Lỗ Mũi. Họ cũng đang lâm vào thế kẹt. Số Hai nói: “Nhớ lại đi nào. Công viên Bishop.”

Tôi sắp kể với họ. Nhưng tôi không làm được, họ sẽ không tin tôi đâu. Tôi nói: “Không.”

Số Hai nói: “Xin lỗi nhé.” Hắn đẩy đầu tôi về phía trước và nói với Lỗ Mũi bên trên nó. Hắn nói: “Tôi hỏi ông chuyện này nhé, ông thanh tra. Trong suốt mười tám năm chuyên nghiệp thẩm tra bọn tội phạm rác rưởi, có bao giờ ông nghe một tiếng không giống như một tiếng có không?”

Lỗ Mũi đáp: “Quá đúng. Tụi tao sẽ tóm cổ mày, thằng nhóc ạ.”

Tôi nghĩ họ chưa thấy được đôi tay tôi. Nhưng Số Hai chộp cổ tay tôi rồi giật ra khỏi hai đầu gối. Cái kẹp hồ sơ rớt xuống sàn xe. Hắn lật đôi tay qua. Vụ này làm tôi nhớ đến bác sĩ Morrison. Rồi sự việc trở nên thật kỳ cục. Hắn cứ lật trở chúng, hết lật sấp lại rồi lật ngửa ra, sấp rồi lại ngửa, giống như khi bạn xem đi xem lại một chữ bình thường nhiều lần cho tới khi phát khùng lên. Chữ CÁI GÌ chẳng hạn. Thậm chí chữ CÁI GÌ cũng trở thành điên rồ sau một hồi như thế. Đôi tay tôi không bình thường. Chúng không có chút cơ may nào. Chúng trông giống như những thứ điên rồ nhất mà tôi từng nhìn thấy được.