← Quay lại trang sách

Chương 4

Ở phố Ga cây hạt dẻ đang ra hoa. Những cánh hoa trắng phủ lên mặt đất một lớp dày đến nỗi Lucas không nghe thấy cả tiếng bước chân của anh. Đêm đã khuya, anh từ nhà Clara trở về.

Đứa bé đang ngồi trên ghế dài trong nhà bếp. Lucas nói:

- Mới có năm giờ. Tại sao cháu dậy sớm vậy?

Đứa bé hỏi:

- Yasmine đâu?

- Mẹ cháu ra Thành Phố Lớn rồi. Ở đây mẹ cháu buồn.

Thằng bé trố cặp mắt đen láy:

- Đi ư? Không mang cháu theo ư?

Lucas quay đi, anh nhóm lửa trong lò. Thằng bé hỏi:

- Mẹ có trở lại không?

- Không, chú nghĩ rằng không.

Lucas rót sữa dê vào một cái xoong và đun lên.

Thằng bé hỏi:

- Tại sao mẹ không mang cháu theo? Mẹ đã hứa mang cháu đi theo mà.

- Mẹ cháu nghĩ rằng cháu ở đây với chú tốt hơn, và chú cũng nghĩ thế.

- Cháu ở đây với chú không tốt hơn. Ở bất cứ đâu với mẹ cũng tốt hơn.

- Một thành phố lớn không thú vị gì với trẻ nhỏ đâu. Ở đó không có vườn, cũng không có gia súc.

- Nhưng có mẹ cháu.

Nó nhìn ra cửa sổ. Khi nó quay lại, gương mặt bé nhỏ của nó biến dạng vì đau khổ:

- Mẹ không yêu cháu vì cháu tàn tật. Chính vì thế mẹ đã bỏ cháu lại đây.

- Mathias, không đúng đâu. Mẹ cháu yêu cháu hết lòng, cháu biết rõ mà.

- Thế thì mẹ sẽ quay lại tìm cháu.

Thằng bé đẩy xa cái tách, cái đĩa và ra khỏi bếp. Lucas đi tới vườn. Mặt trời mọc.

Con chó ngủ dưới gốc cây, thằng bé lại gần, tay cầm gậy. Lucas nhìn đứa trẻ. Nó giơ gậy và đánh con chó. Con chó vừa chạy vừa rên rỉ. Thằng bé nhìn Lucas:

- Cháu không thích gia súc, cả vườn cũng không.

Bằng cái gậy thằng bé đập rau, cà chua, bầu bí, đậu quả, hoa. Lucas đứng nhìn không nói năng gì.

Thằng bé vào nhà, nằm vào giường Yasmine. Lucas theo sau, anh ngồi xuống mép giường:

- Ở lại với chú làm cháu khổ sở lắm sao? Tại sao vậy?

Thằng bé nhìn lên trần nhà:

- Tại vì cháu ghét chú.

- Cháu ghét chú ư?

- Phải, cháu luôn luôn ghét chú.

- Chú không biết đấy. Cháu có thể nói tại sao không?

- Bởi vì chú cao lớn, đẹp trai và bởi vì cháu tưởng rằng Yasmine yêu chú. Nhưng vì mẹ đã đi tức là mẹ không yêu chú. Cháu hi vọng rằng chú cũng khổ sở như cháu.

Lucas giơ tay ôm lấy đầu. Thằng bé hỏi:

- Chú khóc à?

- Không, chú không khóc.

- Nhưng chú buồn vì mẹ Yasmine phải không?

- Không, không phải vì mẹ Yasmine, chú buồn là vì cháu, vì nỗi buồn bực của cháu.

- Thật không chú? Vì cháu à? Thật đáng đời.

Rồi nó mỉm cười:

- Tuy nhiên cháu chỉ là đứa bé tàn tật, còn mẹ Yasmine thì xinh đẹp.

Im lặng một lát, nó hỏi:

- Còn mẹ của chú, bà ấy đâu?

- Bà ấy chết rồi.

- Bà ấy quá già, có phải vì thế mà bà ấy chết không?

- Không. Bà ấy chết là do chiến tranh. Một viên đạn trái phá đã giết bà và đứa bé, nó là em gái chú.

- Bây giờ họ đâu?

- Người chết không ở đâu cả, và lại ở khắp nơi.

*

Lucas và thằng bé ở ngoài vườn. Từ cửa buồng áp mái, một sợi dây buông xuống ngang tầm với Lucas. Anh nói với thằng bé:

- Cháu hãy làm cho chú xem cháu leo lên như thế nào?

Thằng bé kéo chiếc ghế đặt trong vườn hơi xa một chút đến dưới cửa sổ buồng Lucas. Nó trèo lên ghế dài, nó nhảy lên, nó tóm sợi dây, hãm không cho đu đưa bằng cách dựa chân vào tường, và dùng tay và chân nó leo lên tận cửa buồng áp mái. Lucas lên theo nó. Họ ngồi trên ổ rơm.

Đứa bé hỏi:

- Anh chú đâu?

- Ai bảo cháu rằng chú có anh?

- Không ai bảo. Cháu đã nghe thấy chú nói với ông ấy. Chú nói với ông ấy, ông ấy không ở đâu cả nhưng lại ở khắp nơi, vậy ông ấy đã chết.

Lucas nói:

- Không, bác ấy không chết. Bác ấy đến một nước khác. Bác ấy sẽ về.

- Cả mẹ Yasmine nữa cũng sẽ về.

- Ừ, cả bác ấy và mẹ cháu sẽ về.

- Cái khác nhau giữa người chết và kẻ ra đi là ở chỗ kẻ ra đi thì sẽ về, phải không chú?

- Nhưng làm thế nào biết được họ không chết khi họ vắng mặt hả chú?

- Không thể biết được, cháu ạ.

Đứa bé lặng im một lát rồi hỏi:

- Khi anh chú ra đi, chú có sao không?

- Chú không còn biết sống ra sao khi thiếu bác ấy.

- Thế bây giờ, chú có biết không?

- Biết, từ khi cháu đến đây thì chú biết.

Đứa bé mở cái hòm:

- Những quyển vở to tướng trong hòm là gì vậy?

Lucas đóng hòm lại:

- Trời ạ! Chẳng có gì đâu. May mà cháu chưa biết đọc.

Đứa bé cười:

- Chú nhầm rồi. Nếu là chữ in thì cháu đọc được. Chú xem này.

Nó mở hòm và lấy ra quyển Kinh Thánh của bà. Nó đọc cả một loạt câu.

Lucas hỏi:

- Cháu học đọc ở đâu vậy?

- Tất nhiên là cháu học trong sách, sách của cháu, và sách của chú.

- Mẹ Yasmine dạy cháu à?

- Không ạ. Mẹ Yasmine không thích đọc. Mẹ bảo rằng cháu sẽ không bao giờ đến trường. Nhưng, cháu sắp đi học, phải không chú?

- Chú sẽ dạy cháu mọi thứ cần biết.

- Cứ sáu tuổi là bắt buộc phải đi học phải không chú?

- Cháu thì không, vì có thể được miễn.

- Vì cháu tàn tật phải không? Cháu không muốn được miễn. Cháu muốn đi học như mọi trò khác.

- Nếu cháu muốn thì cháu sẽ đi. Nhưng tại sao cháu lại muốn đi học?

- Bởi vì cháu biết rằng ở trường cháu là đứa trẻ mạnh nhất, thông minh nhất.

Lucas cười:

- Và khoác lác nhất. Còn chú thì lúc nào cũng ghét đi học. Chú đã giả vờ điếc để khỏi phải đi học.

- Chú đã làm thế thật à?

- Phải. Nghe đây, Mathias, cháu có thể leo lên đây khi cháu muốn. Cháu cũng có thể vào buồng chú, ngay cả khi chú vắng nhà. Cháu có thể đọc Kinh Thánh, tự điển, bách khoa toàn thư nếu cháu thích. Nhưng các cuốn vở thì cháu không được đọc, đồ quỷ con ạ.

Anh nói thêm:

- Ngày xưa bà gọi các bác là đồ quỷ con.

- Các bác là ai? Có phải là chú và anh chú không?

- Phải.

Hai chú cháu xuống và đi vào nhà bếp. Lucas chuẩn bị bữa ăn. Thằng bé hỏi:

- Ai sẽ rửa bát, giặt giũ quần áo?

- Hai chú cháu ta cùng làm.

Hai người ăn cơm. Lucas nghiêng người qua cửa sổ, anh nôn. Anh quay lại, mặt đầy mồ hôi, ngất đi và ngã xuống nền nhà bếp.

Thằng bé kêu lên:

- Chú Lucas, chú đừng làm thế! Chú đừng làm thế!

Lucas mở mắt ra:

- Mathias, đừng kêu lên thế. Hãy giúp chú đứng lên.

Thằng bé kéo tay Lucas, anh bám lấy chiếc bàn. Anh loạng choạng ra khỏi bếp, ngồi xuống ghế đá trong vườn. Thằng bé đứng trước mặt anh và nhìn anh:

- Chú Lucas, chú làm sao thế? Hình như chú đã chết trong chốc lát vậy!

- Không, chú chỉ khó ở một chút vì nóng quá thôi.

Đứa bé hỏi:

- Mẹ ra đi cũng không sao chứ phải không chú? Cái đó có nghiêm trọng lắm không? Chú nói đi, chú không chết vì việc đó chứ?

Lucas không trả lời, đứa bé ngồi xuống chân anh, ôm lấy chân anh, đặt cái đầu có mớ tóc đen và xoăn lên đùi anh, nó nói:

- Sau này có lẽ cháu sẽ trở thành con trai chú.

*

Khi dứa bé ngủ thiếp đi, Lucas trèo lên buồng áp mái. Anh lấy những quyển vở trong hòm, bọc chúng vào một miếng vải đay rồi đi ra thành phố. Anh gõ cửa nhà Peter.

- Chú Peter, cháu nhờ chú giữ giúp cháu cái này.

Anh đặt cái bọc lên bàn phòng khách.

Peter hỏi:

- Cái gì vậy?

Lucas mở miếng vải đay:

- Vở học sinh.

Peter lắc đầu:

- Victor đã nói với chú là cháu viết văn. Cháu đã mua rất nhiều giấy bút. Từ mấy năm nay cháu viết sách à?

- Không phải sách, cháu chỉ ghi chép thôi.

Peter nâng những quyển vở lên:

- Ghi chép ư? Nửa tá vở dày cộp mà chỉ là ghi chép ư?

- Theo thời gian, chúng tích lại đấy, mặc dầu cháu đã loại bỏ khá nhiều. Cháu chỉ giữ lại cái thật cần thiết thôi.

Peter hỏi:

- Tại sao cháu lại muốn giấu chúng đi? Sợ cảnh sát à?

- Sợ cảnh sát ư? Ý nghĩ gì mà lạ vậy? Chính là sợ thằng bé. Nó bắt đầu biết đọc và nó lục lọi khắp nơi. Cháu không muốn nó đọc những cuốn vở đó.

Peter mỉm cười:

- Và cả mẹ thằng bé cũng không được đọc phải không?

- Yasmine không còn ở nhà cháu. Cô ấy đi rồi. Thành Phố Lớn, đó là giấc mơ muôn thuở của cô ấy. Cháu đã cho cô ấy tiền.

- Và cô ấy đã để đứa con cho cháu à?

- Cháu rất muốn giữ thằng bé lại.

Peter châm một điếu thuốc lá, nhìn Lucas không nói gì.

Lucas hỏi:

- Chú có thể giữ những cuốn vở này ở nhà chú được không?

Tất nhiên là được.

Peter gói những cuốn vở lại và mang về buồng. Khi quay trở lại anh nói:

- Chú đã giấu chúng dưới giường chú. Ngày mai chú sẽ tìm một chỗ giấu tốt hơn.

- Cảm ơn chú Peter.

Peter cười:

- Đừng cảm ơn chú. Vở của cháu làm chú thích.

- Chú có ý định đọc chúng sao?

- Tất nhiên. Nếu cháu không muốn chú đọc thì cháu chỉ việc mang đến nhà Clara.

- Nhất thiết không! Clara đọc mọi thứ có thể đọc được. Nhưng cháu có thể giao cho Victor.

- Vậy thì chú sẽ đọc ở nhà Victor. Bác ấy không thể từ chối chú điều gì. Vả lại, bác ấy cũng sắp đi. Bác ấy muốn trở về quê với bà chị. Bác ấy muốn bán nhà và cửa hàng sách.

Lucas nói:

- Chú hãy trả lại vở cho cháu. Cháu sẽ chôn chúng đâu đó trong rừng.

- Phải đấy, cháu hãy chôn đi. Hay tốt hơn nữa, cháu hãy đốt chúng đi. Đó là cách duy nhất để cho không ai có thể đọc được.

- Cháu phải giữ chúng lại cho Claus. Những cuốn vở đó là để cho Claus, một mình Claus thôi.

Peter vặn rađio. Anh tìm rất lâu mới bắt được một thứ âm nhạc êm dịu:

- Lucas, cháu hãy ngồi xuống và nói cho chú biết Claus là ai.

- Là anh cháu.

- Chú không biết là cháu có một người anh. Cháu chưa bao giờ nói với chú về anh ấy. Không ai nói với chú, ngay cả Victor là người biết các cháu từ thuở nhỏ.

- Anh cháu sống phía bên kia biên giới đã nhiều năm rồi.

- Anh ấy làm thế nào qua được biên giới? Nghe đồn biên giới không thể vượt qua được.

- Anh ấy đã qua, thế thôi.

San một lát im lặng, Peter hỏi:

- Cháu có giữ liên lạc với anh ấy không?

- Chú muốn nói liên lạc là sao ạ?

- Như mọi người hiểu thôi, nghĩa là anh ấy có viết thư cho cháu không? Cháu có viết thư cho anh ấy không?

- Cháu thường xuyên viết cho anh ấy vào vở. Chắc chắn anh ấy cũng làm thế.

- Nhưng có bao giờ cháu nhận được thư của anh ấy không?

- Anh ấy không thể gửi thư cho cháu từ đằng ấy.

- Có rất nhiều thư đến từ phía bên kia biên giới. Từ ngày ra đi anh cháu chưa bao giờ viết cho cháu phải không? Anh ấy cũng không cho cháu địa chỉ à?

Lucas lắc đầu, lại đứng lên một lần nữa:

- Chú nghĩ rằng anh ấy đã chết phải không? Nhưng Claus không chết. Anh ấy còn sống và sẽ về.

- Phải, anh cháu sẽ về. Còn những cuốn vở, chú có hứa không đọc thì cháu cũng chẳng tin.

- Chú có lý, cháu sẽ không tin. Cháu biết rằng chú không thể không đọc. Khi đến đây cháu đã biết vậy. Vậy chú hãy đọc đi. Cháu thích chú đọc hơn là Clara hoặc bất cứ ai khác.

- Lại một việc mà chú không hiểu, đó là quan hệ của cháu với Clara. Cô ấy nhiều tuổi hơn cháu nhiều.

- Tuổi tác thì có gì quan trọng. Cháu là người tình của cô ây. Đó là tất cả cái chú muốn biết phải không?

- Không, không phải tất cả. Cái đó thì chú biết. Nhưng cháu có yêu cô ấy không?

Lucas mở cửa:

- Cháu không biết từ yêu có nghĩa gì. Không ai biết là gì. Cháu không ngờ chú lại đặt ra câu hỏi đó với cháu.

- Tuy vậy, loại câu hỏi đó sẽ được đặt ra thường xuyên suốt cuộc đời cháu. Và đôi khi cháu buộc phải trả lời.

- Còn chú? Sẽ có một lần nào đó chú buộc phải trả lời một vài câu hỏi. Đôi khi cháu có tham dự vào các cuộc họp chính trị của chú. Chú đọc diễn văn, cử tọa hoan hô chú. Chú có thành thật tin vào điều chú nói không?

- Chú bắt buộc phải tin.

- Nhưng trong thâm tâm, chú nghĩ sao?

- Chú không nghĩ gì cả. Chú không tự cho phép điều đó. Từ bé nỗi sợ hãi đã ở trong người chú rồi.

*

Clara đứng trước cửa sổ, cô nhìn mảnh vườn chìm trong màn đêm. Cô không quay lại khi Lucas vào buồng. Cô nói:

- Mùa hè thật dễ sợ. Về mùa hè cái chết ở gần ta nhất. Tất cả khô héo, nghẹt thở, bất động. Cách đây bốn năm rồi, họ đã giết Thomas, vào dịp tháng Tám, rạng sáng, lúc bình minh. Họ đã treo cổ anh. Có điều đáng lo ngại, ấy là họ lại làm khi mùa hè tới. Tảng sáng khi anh ra về, tôi ra cửa sổ và tôi nhìn thấy họ. Họ bắt đầu, tuy nhiên không ai có thể sát hại cùng một người nhiều lần.

Lucas hôn lên gáy Clara:

- Clara, cô sao thế? Hôm nay cô có việc gì vậy?

- Hôm nay tôi nhận được một lá thư. Một lá thư của chính quyền, nó kia trên bàn giấy của tôi, anh có thể đọc. Nó thông báo với tôi sự phục hồi danh dự của Thomas, sự vô tội của anh ấy. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ sự vô tội của anh ấy. Họ viết cho tôi: “Chồng bà vô tội, chúng tôi đã vì nhầm lẫn mà sát hại anh ấy. Chúng tôi đã vì nhầm lẫn mà sát hại nhiều người vô tội, nhưng hiện nay, mọi sự đã trở lại trật tự, chúng tôi xin lỗi và hứa rằng những nhầm lẫn tương tự sẽ không xảy ra nữa”. Họ giết hại rồi họ phục hồi danh dự. Họ xin lỗi, nhưng Thomas thì đã chết! Họ có thể làm anh ấy sống lại được không? Họ có thể xóa bỏ cái đêm mà tóc tôi hóa bạc trắng, cái đêm tôi đã hoá điên không?

“Cái đêm mùa hè đó, tôi ở một mình trong căn hộ của chúng tôi, của Thomas và của tôi. Đã nhiều tháng rồi tôi ở đó một mình. Ngay sau khi Thomas bị bắt, không ai muốn, không ai có thể, không ai dám đến thăm tôi. Tôi đã quen cô đơn, không có gì là bất bình thường nếu tôi cô đơn. Tôi đã không ngủ, nhưng điều đó cũng không bất bình thường. Cái bất bình thường chính là đêm đó tôi đã không khóc. Chập tối rađiô đã thông báo hành hình nhiều người vì tội phản bội tổ quốc. Tôi đã nghe rõ ràng tên của Thomas. Lúc ba giờ sáng, giờ hành hình, tôi đã xem đồng hồ. Tôi đã xem cho đến bảy giờ, rồi tôi đi làm tại một thư viện lớn của thủ đô. Tôi ngồi vào bàn làm việc, tôi được giao phụ trách phòng đọc. Các bạn đồng nghiệp của tôi lại gần từng người một, tôi nghe thấy họ thì thào: “Cô ấy đã đến!”. “Bạn có thấy tóc cô ấy không?”. Tôi ra khỏi thư viện, tôi đã đi lang thang ngoài phố cho đến tối, tôi bị lạc, tôi không còn biết tôi đang ở khu nào của thành phố tuy tôi biết rất rõ thành phố này. Tôi về nhà bằng tắcxi. Ba giờ sáng, tôi đã nhìn qua cửa sổ, và tôi đã nhìn thấy họ: họ treo cổ Thomas tại mặt tiền ngôi nhà phía trước. Tôi đã gào lên. Có những người láng giềng đến. Một chiếc xe cứu thương chở tôi đến bệnh viện. Rồi bây giờ họ bảo rằng chỉ là một sự nhầm lẫn. Việc giết hại Thomas, bệnh tật của tôi, những tháng nằm bệnh viện, tóc bạc trắng của tôi chỉ là do nhầm lẫn. Thế mà họ bảo rằng họ trả cho tôi Thomas sống và tươi cười, cái anh chàng Thomas đã từng ôm tôi trong cánh tay, đã từng vuốt tóc tôi, đã từng ôm lấy mặt tôi trong hai bàn tay ấm áp, đã từng hôn lên mắt tôi, tai tôi, miệng tôi.”

Lucas nắm lấy hai vai Clara và xoay người cô về phía anh:

- Bao giờ thì cô thôi không nói đến Thomas nữa?

- Không bao giờ. Không bao giờ tôi ngừng nói về Thomas. Còn anh, bao giờ anh bắt đầu nói với tôi về Yasmine đây?

- Chẳng có gì để nói về cô ấy, nhất là bây giờ cô ấy không ở đây nữa.

Clara đánh và cào mặt, cào cổ, cào vai Lucas.

Cô kêu lên:

- Cô ấy không ở đây nữa? Vậy cô ấy ở đâu? Anh đã làm gì cô ấy?

Lucas kéo Clara vào giường, anh đè lên người cô:

- Bình tĩnh nào. Yasmine đi ra Thành Phố Lớn, có thế thôi.

Clara xiết chặt Lucas trong cánh tay cô:

- Họ sẽ chia ly em với anh cũng như đã chia ly em với Thomas. Họ sẽ bắt anh, treo cổ anh.

- Không đâu, mọi cái đó đã chấm dứt. Cô hãy quên Thomas, nhà tù và dây treo cổ đi.

Tảng sáng, Lucas thức giấc:

- Anh phải về. Thằng bé dậy sớm lắm.

- Yasmine để con lại đây sao?

- Đó là một đứa bé tàn tật. Cô ấy có thể làm gì với nó trong một thành phố lớn?

- Làm sao cô ấy lại có thể để nó lại kia chứ?

- Cô ấy muốn mang nó đi. Anh đã cấm cô ấy.

- Cấm ư? Anh lấy quyền gì mà cấm? Nó là con cô ấy, nó thuộc về cô ấy.

Clara nhìn Lucas mặc quần áo, cô nói:

- Yasmine ra đi bởi vì anh không yêu cô ấy.

- Anh đã giúp đỡ cô ấy khi cô gặp khó khăn. Anh không hứa hẹn với cô ấy điều gì cả.

- Cả em nữa, anh cũng không hứa gì cả.

Lucas ra về để chuẩn bị bữa sáng cho Mathias.

Lucas bước vào hiệu sách, Victor hỏi anh:

- Lucas, cậu cần giấy hay bút chì?

- Không. Cháu muốn nói chuyện với bác. Peter bảo cháu rằng bác muốn bán nhà.

Victor thở dài:

- Thời buổi này, chẳng ai có đủ tiền để mua nhà cùng với cửa hàng.

Lucas nói:

- Cháu muốn mua cho bác.

- Cháu ấy ư. Lucas? Cháu mua bằng gì?

- Bằng cách bán nhà của bà cháu. Quân đội trả giá cao cho cháu.

- Bác sợ rằng thế cũng không đủ.

- Cháu còn có một miếng đất lớn và nhiều thứ khác nữa có giá trị mà cháu thừa kế của bà.

Victor nói:

- Tối nay, cháu hãy đến gặp bác ở nhà. Bác sẽ để ngỏ cửa.

Tối đến, Lucas trèo lên cầu thang tối tăm dẫn đến căn hộ phía trên hiệu sách. Anh gõ vào một cánh cửa có một chút ánh sáng lọt qua ở bên dưới.

- Vào đi, Lucas!

Lucas vào một phòng trong đó lởn vởn một đám khói thuốc lá, mặc dù cửa sổ để mở. Trần nhà bám một lớp cáu bẩn màu nâu, màn gió thì vàng khè. Căn buồng lủng củng những bàn ghế cũ, đi văng, tràng kỷ, đèn bàn, đồ mỹ nghệ. Tường phủ đầy các bức tranh, tranh khắc, còn nền nhà thì đầy thảm đã sờn trải đè lên nhau.

Victor đang ngồi gần cửa sổ trước mặt cái bàn phủ khăn bằng vải lông màu đỏ. Trên bàn là những hộp thuốc lá và xì gà, gạt tàn đủ loại đầy đầu mẩu chen lẫn cốc tách và một bình chứa đầy đến nửa một thứ nước màu vàng vàng.

- Lucas, lại đây, ngồi xuống đi cháu và uống một cốc nhé.

Lucas ngồi xuống, Victor rót cho anh uống, Victor cạn cốc rồi lại rót đầy:

- Bác muốn mời cháu một thứ rượu chất lượng hơn, thí dụ như loại rượu mà chị bác mang cho bác lần đến thăm bác vừa qua, nhưng tiếc quá, không còn nữa. Chị bác đã đến thăm bác hồi tháng Bảy, trời rất nóng, cháu nhớ không. Bác không thích nóng, bác không thích mùa hè. Một mùa hè nhiều mưa, mát mẻ còn được, nhưng thời tiết nóng bức chắc chắn làm cho bác ốm.

Chị bác đã mang đến một lít rượu mà ở quê bác người ta thường uống. Chị bác chắc nghĩ rằng chai đó sẽ còn suốt năm hay ít ra cũng đến lễ Noel. Sự thực là tối đầu tiên bác đã uống hết nửa chai. Vì bác xấu hổ nên bác đã giấu cái chai, sau đó bác đi mua một chai rượu chất lượng tồi - ngoài thị trường không có rượu khác - đổ đầy vào chai của chị bác rồi đặt vào một chỗ dễ thấy trên cái tủ bát đĩa trước mặt cháu kia.

Cứ như thế, mỗi tối bác lại uống vụng một thư rượu mơ chất lượng xấu, bác đã làm yên lòng bà chị bằng cách phô ra cái chai của bà mà mực nước hầu như không giảm. Một đôi lần, để cho có vẻ tự nhiên, bác rót cho bác một cốc nhỏ cái thứ rượu đó mà bác giả vờ thưởng thức, thực ra thì nó đã hỏng.

Bác nóng lòng chờ cho chị bác ra đi. Trái lại chị bác không làm phiền bác. Bà chuẩn bị bữa ăn, mạng lại tất, vá víu quần áo, lau chùi nhà bếp và mọi thứ bẩn thỉu. Vậy là bà có ích cho bác, hơn thế nữa sau khi cửa hàng đóng cửa chúng tôi còn chuyện trò vui vẻ trong bữa cơm. Bà ngủ trong căn buồng nhỏ, ở đây, bên cạnh. Bà thường đi nằm sớm, và giữ yên lặng. Bác tha hồ đi ngang đi dọc suốt đêm trong buồng của bác, cả trong bếp và ngoài hàng lang.

Cháu nên biết rằng chị bác là người mà bác yêu quý nhất trên đời. Bố mẹ bác chết khi chị em bác còn trẻ, nhất là bác lúc đó còn là một đứa trẻ. Chị bác hơn bác năm tuổi. Hai chị em bác sống ở nhà bà con họ hàng các cô các chú, nhưng bác có thể nói chắc rằng chính chị bác đã thực sự nuôi dạy bác.

Tình cảm của bác đối với bà không phai nhạt với thời gian. Cháu không thể bao giờ biết được niềm vui mà bác cảm nhận khi nhìn thấy bà từ trên tầu bước xuống. Đã mười hai năm qua bác không gặp bà ấy. Có những năm tháng chiến tranh, sự nghèo nàn, vùng biên giới. Chẳng hạn khi bà đã tiết kiệm đủ tiền cho chuyến đi thì lại không lấy được giấy phép vào vùng biên giới và cứ như thế. Còn bác thì lúc nào cũng chỉ có rất ít tiền mặt, và bác không thể đóng cửa hiệu sách theo ý muốn, về phía chị bác, cũng không thể đột nhiên bỏ khách hàng. Bà ấy là thợ may, còn phụ nữ dù có nghèo khó đến đâu thì bao giờ cũng cần đến thợ may. Nhất là trong những năm khó khăn khi các bà các cô không thể mua sắm những bộ đồ mới. Khi đó họ đặt chị bác làm những thứ không thể tưởng tượng được, chẳng hạn biến quần của đức ông chồng quá cố thành váy ngắn, áo sơ mi thành áo cánh nữ, rối bất kỳ mảnh vải nào cũng có thể biến thành quần áo trẻ con. Khi chị bác đã tập hợp đủ tiền và các giấy tờ cần thiết, bác ấy đã viết thư báo cho bác biết.

Victor đứng dậy, nhìn ra cửa sổ:

- Chưa đến mười giờ, phải không cháu?

- Vâng, chưa đến.

Victor lại ngồi xuống, rót rượu uống, châm một điếu xì gà.

- Bác đợi chị bác ở nhà ga. Đây là lần đầu tiên bác đợi một người tại ga này. Bác quyết định sẽ chờ tất cả các chuyến tầu đến, nếu cần. Chị bác đến bằng chuyến cuối cùng, bà ấy đã đi suốt ngày. Đương nhiên là bác đã nhận ra bà ấy ngay, nhưng bà khác xa hình ảnh mà bác còn giữ được trong các kỷ niệm của bác. Bà luôn luôn nhỏ nhắn, nhưng không đến mức nhỏ như bây giờ. Phải nói rằng bộ mặt khó coi của bà bây giờ đầy những vết nhăn nhỏ. Nói tóm lại bà đã già đi rất nhiều. Tất nhiên là bác không nói gì với bà, bác để bụng những nhận xét đó, trái lại bà ấy lại khóc mà nói rằng: “Ôi Victor! Chú thay đổi nhiều quá! Chị thật khó mà nhận ra chú. Chú béo ra, chú rụng hết tóc và chú có dáng thật xuề xòa.”

Bác mang vali của bà ấy về nhà. Chúng nặng, chứa đầy mứt hoa quả, xúc xích, rượu mơ. Bà ấy dỡ tất cả các thứ đó trong nhà bếp. Bà còn mang theo cả hạt đậu cây nhà lá vườn. Bác lập tức nếm thử rượu. Trong khi bà luộc đậu, bác đã uống gần một phần tư chai rượu. Sau khi rửa bát xong, bà đến gặp lại bác trong buồng bác. Cửa sổ mở toang, mà vẫn rất nóng. Bác lại uống rượu, bác không ngừng đi ra cửa sổ, bác hút xì gà. Chị bác nói chuyện về các khách hàng khó tính, về cuộc sống cô đơn, bác vừa nghe bà ấy vừa uống rượu và hút xì gà.

Cửa sổ nhà trước mặt sáng đèn lúc mười giờ. Người đàn ông tóc bạc xuất hiện. Hắn nhai gì đó. Vào giờ này hắn luôn luôn ăn. Mười giờ đêm hắn đứng ở cửa sổ và hắn ăn. Chị bác tiếp tục nói. Bác chỉ cho bà ấy căn buồng của bà, bác bảo: “Chắc chị đã mệt lắm rồi. Chị đã đi một chuyến quá dài, chị hãy nghỉ đi”. Bà ấy đã ôm hôn bác lên hai má, sang buồng bên, bà đã đi nằm và chắc là đã ngủ. Bác lại uống rượu, lại đi ngang đi dọc và hút xì gà. Thỉnh thoảng bác nhìn qua cửa sổ, bác thấy người đàn ông tóc bạc tựa vào bờ cửa sổ.

Bác nghe thấy hắn hỏi những người qua đường hiếm hoi: “Làm ơn cho tôi hỏi bây giờ là mấy giờ rồi?”. Có ai đó ngoài phố trả lời: “Mười một giờ hai mươi”.

Bác ngủ rất kém. Sự có mặt âm thầm của chị bác ở buồng bên làm phiền bác. Có một buổi sáng Chủ nhật, bác lại nghe thấy người mất ngủ hỏi giờ và ai đó trả lời: “Bảy giờ kém mười lăm. Sau đó khi bác dậy, chị bác đang làm việc trong bếp, cửa sổ nhà trước mặt đã đóng lại.

Lucas, cháu nghĩ sao? Chị bác sau mười hai năm không gặp đến thăm bác, vậy mà bây giờ bác nóng lòng chờ cho bà ấy đi nằm để có thể yên lặng quan sát kẻ mất ngủ nhà trước mặt, bởi vì thực sự đó là người duy nhất bác quan tâm, mặc dù bác yêu quý chị bác hơn hết thảy.

Lucas, cháu không nói gì cả, nhưng bác biết cháu đang nghĩ gì. Cháu nghĩ rằng bác điên, và cháu có lý. Bác bị cái lão già mở cửa sổ lúc mười giờ đêm và đóng lại lúc bảy giờ sáng ám ảnh. Lão qua đêm ở cửa sổ. Sau đó bác không biết lão làm gì. Lão có ngủ không, hay là lão có một căn phòng khách hoặc nhà bếp để qua ngày? Bác không bao giờ gặp lão ngoài phố, không bao giờ thấy lão ban ngày, bác không biết lão và không bao giờ bác hỏi một người nào đó về lão. Cháu là ngươi đầu tiên bác nói chuyện về lão. Tựa vào cửa sổ, suối đêm lão nghĩ gì? Làm sao biết được? Ngay sau mười hai giờ đêm, phố xá hoàn toàn vắng vẻ. Lão không thể hỏi ai giờ giấc. Lão chỉ có thể hỏi vào khoảng sáu, bảy giờ sáng. Có thực sự lão cần biết giờ giấc, có thể nào lão không có đồng hồ báo thức? Như thế thì làm sao lão lại có thể xuất hiện ở cửa sổ đúng mười giờ đêm? Bấy nhiêu câu hỏi bác tự đặt ra về lão.

Một tối kia, chị bác đã đi rồi, ông lão mất ngủ nói với bác. Bác đang đứng ở cửa sổ ngắm nhìn trời để phát hiện các đám mây giông đã được báo trước mấy ngày rồi. Ông lão đã nói với bác từ bên kia phố. Lão nói: “Không trông thấy sao đâu nữa. Cơn giông đang đến gần”. Bác đã không trả lời lão ta. Bác đã nhìn ra nơi khác, bên trái, bên phải ngoài phố. Bác không muốn làm quen với lão. Bác không biết lão.

Bác ngồi trong góc buồng, nơi lão không thể nhìn thấy bác. Bây giờ bác nhận ra rằng nếu bác ở lại đây thì bác sẽ không làm gì khác ngoài việc uống rượu, hút thuốc và quan sát lão mất ngủ qua cửa sổ, rồi đến lượt bác cũng sẽ mất ngủ thôi.

Victor nhìn qua cửa sổ và để ngã người vào ghế bành trong một tiếng thở dài;

- Lão ở đằng kia. Lão đang quan sát bác. Lão đang đợi dịp để bắt chuyện với bác. Nhưng bác không để cho lão muốn làm gì thì làm, lão có cố tình cũng không thắng đâu.

Lucas nói:

- Bình tĩnh đi, bác Victor. Có lẽ lão ta chỉ là một người gác đêm về hưu có thói quen ngủ ngày.

Victor nói:

- Một người gác đêm ư? Có thể như thế. Không quan trọng. Nếu bác ở lại đây, lão sẽ phá bác. Bác đã dở điên dở khùng rồi. Chị bác nhận ra điều đó. Trước khi lên tầu, bà bảo bác: “Chị đã quá già để làm một chuyến đi dài và mệt mỏi như thế này một lần nữa. Chúng ta phải có một quyết định, nếu không chị sợ rằng chúng ta sẽ không còn gặp lại nhau nữa”. Bác hỏi: “Quyết định gì?”. Bà ấy bảo: “Công việc của chú không chạy, chị đã nhận rõ điều đó. Chú ngồi suốt ngày ở cửa hàng và chẳng có khách hàng nào vào. Ban đêm chú đi ngang đi dọc trong nhà, rồi sáng ra chú kiệt sức. Chú uống nhiều rượu, chú đã uống gần nửa chai rượu chị mang đến. Nếu chú cứ tiếp tục như thế mày, chú sẽ nghiện rượu.

Bác đã tránh không nói với bà ấy rằng trong thời gian lưu trú của bà, bác đã uống sáu chai rượu ngoài những chai vang được mở trong các bữa ăn. Tất nhiên là bác cũng không đả động gì đến lão không ngủ. Bà ấy lại nói: “Thần sắc chú rất xấu. Mắt chú thâm quầng, nước da chú xanh, chú gần béo phì. Chú ăn quá nhiều thịt, chú thiếu vận động, chú không ra ngoài, chú sống không lành mạnh”. Bác nói: “Chị đừng lo cho em. Em thấy rất khoẻ”. Bác đã châm một điếu xì gà. Tầu về muộn. Chị bác quay đầu đi, vẻ ghê tởm: “Chú hút thuốc quá nhiều. Chú hút liên tục”.

Bác cũng tránh không nói với bà ấy rằng thầy thuốc đã phát hiện ở bác, cách đây hai năm, một thứ bệnh tim mạch do nhiễm độc thuốc lá. Tuần hoàn máu ở chân trái của bác rất xấu, bác đau ở hông và ở bắp chân, ngón chân cái bên trái mất cảm giác. Các thầy thuốc đã chỉ định thuốc men cho bác, nhưng sẽ không đỡ nếu bác không bỏ hút và không luyện tập. Mà bác thì không muốn bỏ hút. Vả lại bác hoàn toàn thiếu nghị lực. Không thể đòi hỏi một người nghiện rượu phải có nghị lực. Vậy nếu bác thôi hút thuốc lá thì trước tiên bác phải thôi rượu.

Có lúc bác nghĩ rằng phải ngưng hút, rồi ngay lập tức bác lại châm một điếu xì gà hoặc một điếu thuốc lá và vừa hút bác vừa nghĩ rằng nếu bác không ngừng hút thì rồi máu sẽ ngừng chảy trong chân trái bác, nó sẽ gây ra hoại thư và hoại thư sẽ kéo theo cưa bàn chân hoặc toàn bộ chân.

Bác đã không nói tất cả những điều đó để chị bác khỏi lo lắng, nhưng bà ấy lo. Khi lên tầu, bà đã ôm hôn bác và bảo bác: “Chú hãy bán cửa hàng sách và về quê ở với chị. Chúng ta sẽ sống đạm bạc trong ngôi nhà thời thơ ấu. Chúng ta sẽ dạo chơi trong rừng, chị sẽ chăm sóc mọi thứ, chú sẽ bỏ thuốc lá và bỏ rượu, rồi chú sẽ viết cuốn sách của chú”.

Tầu chạy, bác về nhà, bác rót một cốc rượu và bác tự hỏi không biết bà ấy nói đến sách nào.

Tối hôm đó bác đã uống một liều thuốc ngủ ngoài những thuốc hàng ngày cho máu lưu thông, và bác đã uống cả chỗ rượu còn lại trong chai của chị bác, nghĩa là khoảng gần nửa lít. Dù đã uống thuốc ngủ, sáng hôm sau bác vẫn dậy rất sớm, với cái chân trái hoàn toàn mất cảm giác. Người bác nhễ nhại mồ hôi, tim đập mạnh, tay run lẩy bẩy, bác đắm mình trong một nỗi sợ, một nỗi lo âu ghê gớm. Bác nhìn đồng hồ báo thức, nó đã chết. Bác lê người ra cửa sổ, lão già nhà trước mặt vẫn ở đó. Bác hỏi lão qua phố vắng: “Làm ơn cho tôi biết mấy giờ, đồng hồ của tôi bị chết”. Trước khi đáp lời bác, lão quay người lại như thể nhìn đồng hồ treo tường: “Bây giờ là sáu giờ rưỡi”. Bác định mặc quần áo, nhưng bác đã mặc rồi. Bác đã ngủ cả quần áo và giày. Bác xuống phố, bác đi đến cửa hàng tạp hoá gần nhất. Nó chưa mở cửa. Bác đi ngang đi dọc ngoài phố để chờ. Người quản lý đến, mở cửa và phục vụ bác. Bác đã lấy một chai rượu bất kỳ loại nào, bác về nhà uống vài cốc, nỗi lo âu của bác biến mất, ông già nhà trước mặt đã đóng cửa sổ.

Bác xuống cửa hàng sách, bác ngồi vào quầy. Không có lấy một khách hàng nào. Vẫn đang là mùa hè, học sinh nghỉ, không ai cần đến sách hoặc thứ gì khác. Ngồi đó, nhìn sách trên giá, bác nhớ đến cuốn sách của bác, cuốn sách mà chị bác nói, mà bác dự định viết hồi còn niên thiếu. Bác đã muốn là nhà văn, viết sách, đó là giấc mơ tuổi trẻ của bác, bác và chị bác thường hay nói với nhau. Bà ấy tin ở bác, bác cũng tin ở bác, nhưng ngày càng ít đi, và cuối cũng bác hoàn toàn quên cái ý đồ viết sách.

Bác mới năm mươi tuổi. Nếu bác thôi hút thuốc và uống rượu, hoặc đúng hơn là thôi uống rượu và hút thuốc thì bác vẫn có thể viết sách, nhiều thì không, nhưng một quyển thì có thể được. Bác tin rằng bất kỳ người nào sinh ra cũng là để viết một cuốn sách, và không vì một cái gì khác. Một cuốn sách thiên tài hoặc một cuốn sách tồi không quan trọng, nhưng người nào không viết gì cả là một người bỏ đi, hắn ta chỉ đi qua trên trái đất này mà không để lại dấu vết gì.

Nếu bác ở lại đây, bác sẽ không bao giờ viết sách. Hi vọng duy nhất của bác là bán nhà và cửa hàng sách rồi đến nhà chị bác. Bà ấy sẽ ngăn bác uống rượu và hút thuốc, chúng tôi sẽ sống một cuộc sống lành mạnh, bà ấy sẽ chăm sóc tất cả, bác không làm gì khác ngoài việc viết cuốn sách của bác một khi bác từ bỏ được nạn nghiện rượu và nghiện hút. Cả cháu nữa, Lucas, cháu cũng nên viết sách. Viết về ai, về cái gì thì bác không biết, nhưng cháu phải viết. Từ hồi còn nhỏ cháu thường hay mua giấy, bút chì và vở đấy thôi.

- Bác Victor, bác nói đúng. Viết sách là một cái gì đó quan trọng nhất. Bác ra giá đi, cháu mua nhà và cửa hàng sách. Trong vài tuần, chúng ta có thể kết thúc công việc.

- Các thứ có giá trị mà cháu đã nói với bác là gì vậy?

- Tiền vàng và tiền bạc, cả đồ nữ trang.

Victor mỉm cười.

- Cháu có muốn đi xem nhà không?

- Không cần đâu bác ạ. Cháu sẽ thay đổi những chỗ cần thiết. Hai phòng này cũng đủ cho hai chúng cháu.

- Nếu bác nhớ thì hình như ba người.

- Bây giờ chỉ còn hai, mẹ của thằng bé đã đi rồi.

*

Lucas nói với đứa bé:

- Chúng ta sẽ dọn nhà. Chúng ta sẽ ở ngoài thành phố, chỗ quảng trường Principale. Chú đã mua cửa hàng sách.

Đứa bé nói:

- Thế thì hay quá, cháu sẽ được gần trường. Nhưng khi Yasmine trở về, mẹ làm thế nào để tìm được chúng ta?

- Trong một thành phố bé như thế này, dễ dàng mẹ cháu tìm được chúng ta.

Đứa bé hỏi:

- Ta sẽ không còn gia súc và vườn nữa sao?

- Chúng ta sẽ có một cái vườn nhỏ. Chúng ta sẽ giữ lại con chó và con mèo, cả vài con gà mái để lấy trứng. Các con vật khác, ta sẽ bán cho bác Joseph.

- Cháu sẽ ngủ ở đâu? Ở đằng ấy không có buồng của bà.

- Cháu sẽ ngủ trong một buồng nhỏ cạnh buồng chú. Chúng ta sẽ gần bên nhau.

- Không có gia súc và không có sản phẩm vườn chúng ta sống bằng gì?

- Bằng cửa hàng sách. Chú sẽ bán bút chì, sách, giấy. Cháu sẽ giúp chú.

- Vâng, cháu sẽ giúp chú. Khi nào chúng ta dọn nhà?

- Mai, bác Joseph sẽ mang xe bò đến.

Lucas và đứa bé đến ở trong nhà Victor. Lucas sơn lại các buồng làm chúng sáng sủa và sạch sẽ. Cạnh bếp, trong cái kho cũ, Lucas làm một phòng tắm.

Lucas và thằng bé khai khẩn cái vườn bị Victor bỏ hoang. Đứa bé chỉ một cái cây:

- Chú Lucas, chú hãy nhìn cây này, nó đen xì.

- Đây là một cây đã chết, phải chặt thôi. Các cây khác cũng rụng lá, nhưng cây này đã chết rồi.

Nhiều khi, nửa đêm thằng bé tỉnh dậy, lao vào buồng Lucas, vào giường anh, và nếu anh không ở đó, nó đợi anh về để kể cho nghe những ác mộng của nó. Lucas nằm cạnh thằng bé, anh xiết chặt cái thân hình bé nhỏ, gầy còm cho đến khi thằng bé hết run rẩy. Thằng bé kể lại các cơn ác mộng của nó, bao giờ cũng thế, lập đi lập lại và thường xuyên ám ảnh giấc ngủ của nó.

Một trong những giấc mơ đó là giấc mơ về con sông. Đứa bé nằm trên mặt nước để người trôi theo sông mà ngắm nhìn sao trên trời. Đứa bé sung sướng, nhưng rồi có một cái gì đó chầm chậm lại gần, cái gì đó làm nó sợ, rồi bất chợt cái đó, đứa bé không biết là gì, nổ tung, kêu thét, gào lên và làm nó lóa mắt.

Một giấc mơ khác, đó là giấc mơ về con hổ đến nằm cạnh giường thằng bé. Con hổ có vẻ như ngủ, nó có dáng hiền và ngoan, đứa bé rất muốn vuốt ve nó. Đứa bé sợ, tuy nhiên cái ý muốn vuốt ve con hổ tăng lên và đứa bé không thể cưỡng lại. Ngón tay cua nó sờ vào các sợi lông mượt mà của con hổ, và con hổ bằng một cú cẳng chân đã dứt đi một cánh tay của nó.

Một giấc mơ khác, đó là giấc mơ về hòn đảo hoang. Đứa bé chơi ở đó với cái xe cút kít. Nó xúc đầy cát vào xe, mang cát đi nơi khác, trút xe cát, đi xa hơn, xúc đầy xe, lại đổ cát, cứ như thế rất lâu, rồi bất chợt trời tối lạnh, không có ai, chỉ có những ngôi sao lấp lánh trong nỗi cô đơn vô tận.

Một giấc mơ khác: đứa bé muốn về nhà bà, nó đi ngoài phố, nhưng nó không nhận ra phố phường, nó lạc phố xá vắng tanh, ngôi nhà không còn ở chỗ cũ, mọi vật không còn ở chỗ cũ nữa, Yasmine vừa khóc vừa gọi nó và đứa bé không biết đi đường nào, lối nào để gặp được mẹ.

Giấc mơ kinh khủng nhất, đó là giấc mơ về cái cây chết, cái cây màu đen trong vườn. Đứa bé nhìn cái cây, rồi cây chĩa những cành trụi lá về phía nó. Cây nói: “Ta chỉ còn là một cái cây chết, nhưng ta yêu mi như khi ta còn sống. Lại đây, lại đây trong cánh tay ta.” Cây nói bằng giọng của Yasmine, đứa bé lại gần, rồi những cành cây chết màu đen ôm choàng và bóp cổ nó.

Lucas chặt cây chết, bổ ra và đốt trong vườn. Khi lửa tắt, thằng bé nói:

- Bây giờ nó chỉ còn là một đống tro tàn.

Lucas mở một chai rượu, anh uống, anh buồn nôn. Anh trở lại vườn và nôn. Một đám khói trắng bay lên từ đống tro, nhưng những giọt mưa nặng hạt bắt đầu rơi, và một cơn mưa rào kết thúc công việc của ngọn lửa.

Lát sau đứa bé tìm thấy Lucas trong cỏ ướt, trong bùn. Nó lay anh:

- Chú Lucas, đứng lên đi, chú phải về thôi. Trời mưa, tối rồi, lại rét nữa, chú có đi được không?

- Để chú ở đây, cháu về đi. Ngày mai sẽ ổn thôi.

Đứa bé ngồi xuống cạnh Lucas, nó đợi. Mặt trời mọc, Lucas mở mắt ra:

- Có chuyện gì thế, Mathias?

Đứa bé nói:

- Chỉ là một ác mộng mới thôi mà.