Chương 5
Lão không ngủ tiếp tục xuất hiện ở cửa sổ vào lúc người giờ đêm. Đứa bé đã đi ngủ, Lucas ra khỏi nhà, lão già hỏi giờ, Lucas trả lời rồi đến nhà Clara. Sáng sớm khi anh trở về, lão già lại hỏi anh giờ một lần nữa, Lucas trả lời, rồi đi nằm. Vài giờ sau, ánh sáng tắt trong buồng lão già, rồi những con chim bồ câu tràn vào cửa sổ.
Một buổi sáng nọ, khi Lucas trở về, lão già gọi anh:
- Này anh ơi!
Lucas nói:
- Năm giờ.
- Tôi biết. Tôi không quan tâm đến giờ giấc. Đó chỉ là cách để bắt chuyện với mọi người. Tôi chỉ muốn nói với anh rằng tối nay thằng bé rất quấy. Nó thức dậy lúc hai giờ, nó đi đi lại lại nhiều lần trong buồng anh, nó nhìn qua cửa sổ. Nó còn ra cả ngoài phố, nó đi đến trước quán rượu, rồi nó trở về và đi nằm, tôi nghĩ thế.
- Nó có hay làm thế không?
- Nó thường xuyên thức dậy, đúng thế, hầu như đêm nào cũng vậy. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi trông thấy nó ra khỏi nhà vào ban đêm.
- Trước kia ban ngày nó cũng không ra khỏi nhà.
- Tôi nghĩ rằng nó đi tìm anh.
Lucas trèo lên buồng anh, đứa bé say sưa ngủ trong giường. Lucas nhìn ra cửa sổ, lão già hỏi:
- Ổn cả chứ?
- Vâng, ổn cả, nó ngủ. Còn ông, ông không bao giờ ngủ sao?
- Đôi khi tôi thiếp đi, nhưng không bao giờ ngủ. Đã tám năm nay tôi không ngủ.
- Ban ngày ông làm gì?
- Tôi đi dạo. Khi tôi cảm thấy mệt, tôi đến ngồi trong công viên. Tôi dành nhiều thời gian nhất cho công viên. Tại đó đôi khi tôi ngủ thiếp đi vài ba phút, trên một cái ghế dài. Anh có muốn đi cùng tôi một lần không?
- Ngay bây giờ nếu ông muốn.
- Đồng ý. Tôi cho chim bồ câu của tôi ăn, rồi tôi xuống ngay.
Họ bước đi trong các phố vắng vẻ của thành phố đang ngủ, về hướng ngôi nhà của bà. Lão già dừng lại trước một khoảng cỏ vàng úa rộng vài mét vuông trên có hai cây già cỗi vườn cành trụi lá.
- Đây là công viên của tôi, nơi duy nhất tôi có thể ngủ chốc lát.
Lão già ngồi xuống một chiếc ghế dài duy nhất bên cạnh một vòi nước cạn phủ đầy rêu và gỉ sắt. Lucas nói:
- Trong thành phố còn nhiều công viên đẹp hơn.
- Không phải dành cho tôi.
Lão giơ chiếc gậy và chỉ một ngôi nhà to đẹp:
- Trước kia tôi và vợ tôi ở đó.
- Bà nhà chết rồi sao?
- Sau khi chiến tranh kết thúc ba năm, bà ấy đã bị sát hại bằng những viên đạn súng ngắn vào một buổi tối, lúc mười giờ.
Lucas ngồi cạnh ông già:
- Tôi nhớ bà ấy rồi. Chúng tôi sống gần biên giới. Từ thành phố về chúng tôi có thói quen dừng lại đây để uống nước và nghỉ ngơi. Khi bà vợ ông nhìn thấy chúng tôi qua cửa sổ, bà ấy xuống, bà đem cho chúng tôi những cục đường to tướng làm từ khoai tây. Từ đó tôi không bao giờ được ăn. Tôi nhớ cả nụ cười của bà ấy, và giọng của bà và cả vụ sát hại bà. Toàn thành phố đều nói đến nó.
- Người ta bảo sao?
- Người ta bảo rằng bà ấy bị giết là để người ta có thể quốc hữu hoá ba xưởng dệt của bà ấy.
Lão già nói:
- Bà ấy thừa kế xưởng dệt của người cha. Còn tôi, tôi là kỹ sư làm việc ở đó. Tôi đã lấy bà ấy và bà đã ở lại đây, bà ấy rất yêu quý thành phố này. Tuy nhiên bà đã giữ quốc tịch của bà và “họ” đã buộc phải giết bà. Đó là giải pháp duy nhất. “Họ” đã giết bà trong buồng ngủ của chúng tôi. Từ phòng tắm tôi nghe thấy tiếng súng. Tên sát nhân đã vào và lại ra bằng lối ban công. Bà ấy đã bị bắn vào đầu, vào ngực, vào bụng. Cuộc điều tra đã kết luật rằng có một công nhân thù oán đã làm việc đó để trả thù và sau đó đã trốn chạy ra nước ngoài qua biên giới.
Lucas nói:
- Hồi đó biên giới không thể qua được, và không có công nhân nào lại có súng ngắn.
Ông già không ngủ nhắm mắt lại và im lặng.
Lucas hỏi:
- Ông có biết bây giờ ai ở nhà ông không?
- Rất nhiều trẻ con. Nhà của chúng tôi trở thành cô nhi viện. Nhưng Lucas này, cháu phải về đi. Mathias sắp thức giấc, rồi cháu còn phải mở cửa hàng nữa.
- Ông nói đúng, đã bảy giờ rưỡi rồi.
Thỉnh thoảng Lucas trở lại công viên để chuyện trò với lão già không ngủ. Lão ta nói về quá khứ, về quá khứ hạnh phúc với bà vợ:
- Bà ấy cười suốt ngày. Bà ấy sung sướng, vô tư như một đứa trẻ. Bà ấy yêu thích hoa quả, sao trên trời và mây. Hoàng hôn xuống, bà ấy ra ban công để ngắm nhìn trời. Bà ấy cho rằng không đâu trên thế giới này lại có những buổi mặt trời lặn đẹp tuyệt vời như tại thành phố này, không nơi nào khác màu sắc của bầu trời lại rực rỡ và đẹp như ở đây.
Ông lão nhắm đôi mắt thâm quầng, nóng đỏ do mất ngủ. Ông nói bằng một giọng lạc hẳn đi:
- Sau vụ sát hại bà ấy có những viên chức đến trưng thu ngôi nhà và toàn bộ nội thất: đồ đạc, bát đĩa, sách, đồ nữ trang và váy áo của vợ tôi. Họ chỉ cho phép tôi mang đi một chiếc vali với một ít quần áo. Họ đã khuyên tôi rời khỏi thành phố. Tôi đã mất việc ở xưởng, tôi không còn việc làm, không nhà, và không có tiền.
Tôi đến nhà một người bạn, một thầy thuốc, cái người tôi đã gọi tôi hôm xảy ra vụ sát hại. Anh ta đã cho tôi tiền tầu. Anh ấy nói: “Anh đừng bao giờ quay lại thành phố này. Người ta để cho anh sống đã là một điều kỳ lạ rồi”.
Tôi đã đi tầu đến thành phố bên cạnh. Tôi ngồi trong phòng đợi của nhà ga. Tôi còn lại một ít tiền để đi xa hơn, có thể đến tận thủ đô. Nhưng tôi không có gì để làm ở thủ đô, ở một thành phố nào khác cũng không. Tôi mua một vé tầu ở quầy bán vé rồi tôi trở về đây. Tôi gõ cửa ngôi nhà nhỏ trước mặt cửa hàng sách. Tôi biết tất cả nam nữ công nhân của xưởng chúng tôi. Tôi biết người đàn bà đã mở cửa cho tôi. Bà ấy không hỏi gì tôi, đã bảo tôi vào nhà, đã dẫn tôi vào một căn buồng: “Ông có thể ở lại đây bao lâu cũng được”.
Đó là một phụ nữ có tuổi, đã mất chồng, hai con trai và một con gái trong chiến tranh. Con gái bà ta mới mười bảy tuổi. Cô chết ngoài mặt trận, nơi cô tình nguyện làm y tá sau một tai nạn khủng khiếp đã làm biến dạng khuôn mặt cô. Bà chủ nhà của tôi không bao giờ nhắc đến cô, nói chung bà ta gần như không nói. Bà để cho tôi yên trong căn buồng nhìn ra phố, còn bà thì ở một buồng khác, nhỏ hơn, nhìn ra vườn. Bếp cũng trông ra vườn. Tôi có thể vào bếp khi tôi thích và ở đó lúc nào cũng có một thứ gì nóng trên bếp lò. Cứ sáng sáng tôi lại thấy giầy của tôi được đánh xi, áo được giặt sạch và là phẳng đặt trên lưng ghế trước cửa buồng tôi, tôi rất ít gặp bà. Giờ giấc của chúng tôi cũng khác nhau. Tôi không biết bà sống bằng gì. Tôi đoán rằng bà sống nhờ vào trợ cấp gia đình liệt sĩ và vào mảnh vườn.
Sau khi tôi đến ở nhà bà được vài tháng, tôi đã đến văn phòng uỷ ban xã và tôi xin làm bất cứ việc gì. Các vị chức sắc đã đẩy tôi từ phòng này sang phòng khác, họ sợ phải quyết định về việc của tôi, tôi là một kẻ đáng ngờ vì đã kết hôn với người nước ngoài. Cuối cùng, ông bí thư Đảng Peter đã thuê tôi để làm mọi việc linh tinh, từ gác cổng, lau nhà, quét bụi, lá rụng đến quét tuyết. Nhờ Peter, bây giờ tôi có quyền nghỉ hưu và có trợ cấp như mọi người. Tôi đã không thành ăn mày và tôi có thể kết thúc cuộc đời tại thành phố này, nơi tôi đã sinh ra, đã sống.
Tháng lương đầu tiên tôi đặt lên bàn nhà bếp vào lúc tối. Đó là một món tiền không đáng kể, nhưng đối với bà chủ nhà là rất nhiều tiền, rất nhiều. Bà để lại một nửa số tiền trên bàn và chúng tôi cứ thế mà làm: mỗi tháng tôi đặt tháng lương của tôi cạnh đĩa ăn của bà; bà lại để đúng một nửa số tiền cạnh chiếc đĩa của tôi.
Một người phụ nữ, quấn trọng một cái khăn quàng lớn ra khỏi nhà trẻ mồ côi. Bà ta gầy và xanh, trên khuôn mặt xương xẩu cặp mắt to sáng long lanh. Bà đứng trước ghế dài, nhìn Lucas mỉm cười rồi nói với ông già:
- Tôi thấy ông đã kiếm được một người bạn rồi đấy.
- Phải, một người bạn. Bà Judith, tôi xin giới thiệu với bà cậu Lucas. Cậu có cửa hiệu sách ở quảng trường Principale: Bà Judith là giám đốc nhà trẻ mồ côi.
Lucas đứng dậy, Judith bắt tay anh:
- Tôi phải mua sách cho bọn trẻ, nhưng tôi nhiều việc quá, và ngân sách lại quá hạn hẹp.
Lucas nói:
- Tôi có thể bảo cháu Mathias đưa sách đến cho bà. Bọn trẻ của bà bao nhiêu tuổi?
- Từ năm đến mười tuổi. Mathias là ai vậy?
Ông già nói:
- Lucas cũng đang chăm sóc một đứa trẻ mồ côi.
- Mathias không mồ côi. Mẹ nó báo đi. Bây giờ nó thuộc về tôi.
Judith mỉm cười:
- Bọn trẻ của tôi cũng không phải là trẻ mồ côi tất cả. Đa số chúng không biết bố, chúng là con các bà mẹ bị cưỡng hiếp hoặc bán thân để lại.
Bà ngồi xuống cạnh ông già, tỳ đầu vào vai ông, nhắm mắt lại:
- Michael, sắp phải sưởi rồi. Nếu thời tiết không thay đổi, thứ hai ta sẽ bắt đầu sưởi.
Ông già siết chặt bà ta vào người:
- Judith, nhất trí thế. Sáng thứ hai tôi sẽ có mặt lúc năm giờ.
Lucas nhìn người đàn bà và người đàn ông, ôm chặt nhau, mắt nhắm lại trong cái ghế lạnh ẩm ướt của buổi sáng mùa thu, trong cái tĩnh mịch của một thành phố như bị bỏ quên. Anh đi vài bước để ra xa không gây tiếng động, nhưng Judith rùng mình, mở mắt và đứng dậy:
- Lucas, cháu hãy ở lại. Bọn trẻ sắp dậy. Bác phải chuẩn bị bữa sáng cho chúng.
Bà hôn lên trán ông già:
- Michael, thứ hai nhé. Tạm biệt Lucas, cảm ơn trước về những cuốn sách.
Bà vào nhà, Lucas ngồi xuống:
- Bà ấy đẹp quá.
- Phải, rất đẹp.
Lão già cười:
- Ban đầu bà ấy không tin tôi. Ngày nào bà cũng trông thấy tôi ngồi trên ghế dài ở kia. Có lẽ bà ấy cho tôi là một kẻ phóng đãng. Một hôm bà ấy đến ngồi cạnh tôi và hỏi tôi làm gì ở đây. Tôi đã kể tất cả. Đó là vào đầu mùa đông năm ngoái. Bà đã đề nghị tôi giúp bà sưởi các buồng, một mình bà không làm nổi, bà chỉ có một con bé giúp việc bếp núc mười sáu tuổi. Trong nhà không có hệ thống sưởi, chỉ có các lò bằng sành trong mỗi buồng, có bảy cái tất cả. Nếu cậu biết được niềm vui của tôi khi lại được bước vào ngôi nhà của chúng tôi, vào các căn buồng của chúng tôi! Và được giúp đỡ Judith. Đó là một người đàn bà đã phải chịu nhiều đau khổ. Chồng bà mất tích trong chiến tranh, bản thân bị đày ải, bà đã ở ngưỡng cửa của địa ngục. Đây không phải là một hình ảnh đâu, mà là ngọn lửa thực sự cháy sau những cánh cửa kia, một ngọn lửa do những con người đốt lên để thiêu cháy thân thể những con người khác.
Lucas nói:
- Cháu biết bác nói gì rồi. Trong thành phố này, cháu đã tận mắt nhìn thấy những cái tương tự.
- Hồi đó cậu còn bé lắm.
- Cháu hãy còn là một đứa trẻ, nhưng cháu nhớ hết.
- Cậu sẽ quên thôi. Đời là thế mà. Thời gian xoá đi tất cả. Mọi kỷ niệm phai nhạt dần, đau khổ giảm đi. Lão cũng chỉ nhớ đến bà ấy như nhớ một con chim, một bông hoa. Bà ấy là điều kỳ lạ của cuộc đời trong một thế giới mà mọi cái có vẻ nhẹ nhàng, dễ dãi và đẹp đẽ. Lúc đầu, tôi đến đây vì bà ấy, bây giờ tôi đến là vì Judith. Điều này cậu có thể cho là buồn cười, nhưng tôi phải lòng Judith đây, vì sức mạnh của bà ấy, lòng nhân từ của bà ấy, sự trìu mến dành cho bọn trẻ không phải là con bà.
Lucas nói:
- Chẳng có gì là buồn cười cả?
- Ở tuổi của lão ư?
- Tuổi tác không quan trọng. Chỉ có cái chính yếu mới đáng kể. Bác yêu bà ấy và bà ấy cũng yêu bác.
- Bà ấy đang đợi chồng trở về.
- Rất nhiều phụ nữ đợi chồng hoặc khóc chồng mất tích hay đã chết. Nhưng bác chẳng vừa nói rằng: “Nỗi đau giảm đi, còn kỷ niệm thì phai mờ” là gì.
Ông lão không ngủ ngước mắt nhìn Lucas:
- Giảm đi, mờ nhạt đi, phải, nhưng không mất đi.
*
Ngay sáng hôm đó, Lucas chọn những quyển sách cho thiếu nhi, cho vào một thùng giấy và bảo Mathias:
- Cháu có thể đem những quyển sách này đến nhà trẻ mồ côi bên cạnh công viên bên đường đi tới nhà bà được không? Đó là một ngôi nhà lớn có ban công, đằng trước có một vòi nước.
- Cháu biết nó ở đâu rồi.
- Bà giám đốc tên là Judith, cháu thay mặt chú giao cho bà những cuốn sách này.
Đứa bé mang sách đi, và chẳng bao lâu trở về.
Lucas hỏi:
- Cháu thấy bà Judith và bọn trẻ thế nào?
- Cháu không gặp bà Judith lẫn bọn trẻ. Cháu đã đặt sách trước cửa.
- Cháu không vào nhà ư?
- Không. Tại sao cháu phải vào? Để người ta giữ cháu lại sao?
- Gì vậy? Mathias, cháu nói gì?
Đứa bé tự giam mình trong buồng. Lucas ở lại cửa hàng đến giờ đóng cửa, rồi nấu cơm túi và ăn một mình. Anh tắm và đang mặc quần áo thì thằng bé đột nhiên ra khỏi buồng.
- Lucas, chú đi đấy à? Tối nào chú cũng đi đâu vậy?
- Chú đi làm, cháu biết rõ mà.
Đứa bé nằm vào giường Lucas:
- Cháu chờ chú ở đây. Nếu chú làm trong các quán rượu, nửa đêm đóng quán chú mới về. Nhưng chú còn về muộn hơn.
Lucas ngồi xuống cái ghế trước mặt thằng bé:
- Phải, đúng vậy. Chú về muộn hơn, vì chú đến thăm vài người bạn sau khi các quán đóng cửa.
- Bạn nào vậy chú?
- Cháu không biết đâu.
Thằng bé nói:
- Đêm nào cháu cũng có một mình.
- Ban đêm lẽ ra chú phải ngủ chứ.
- Cháu chỉ ngủ nếu cháu biết rằng chú ở trong buồng của chú và chú cũng đang ngủ.
Lucas nằm xuống cạnh đứa bé, anh ôm nó:
- Cháu tưởng rằng chú sẽ đưa cháu vào nhà trẻ mồ côi để họ giữ cháu lại hay sao? Làm sao cháu lại có thể nghĩ vậy?
- Thực sự cháu không nghĩ thế. Nhưng khi cháu đến trước cửa cháu đã sợ. Ai mà biết được. Mẹ Yasmine cũng đã hứa không bao giờ bỏ cháu. Chú đừng sai cháu đến đó. Cháu không thích đi về hướng nhà bà đâu.
- Chú hiểu cháu.
- Trẻ mồ côi là những đứa trẻ không có cha mẹ. Cháu cũng vậy, cháu không có cha mẹ.
- Có chứ, cháu có mẹ Yasmine.
- Mẹ Yasmine đi rồi. Thế còn bố cháu? Ông ấy ở đâu?
- Bố cháu là chú.
- Bố khác kia?
Lucas im lặng một lát trước khi trả lời:
- Ông ấy chết trước khi cháu ra đời, trong một tai nạn giống như bố chú.
- Các ông bố đều chết trong tai nạn. Cả chú nữa, rồi chú cũng bị tai nạn sao?
- Không, chú rất cẩn trọng.
Đứa bé và Lucas làm việc tại cửa hàng sách. Thằng bé lấy sách trong cái thùng giấy, đưa cho Lucas, anh đứng trên một cái thang và xếp chúng lên giá. Đó là một buổi sáng mùa thu có mưa.
Peter vào cửa hàng. Anh mặc một chiếc áo choàng có mũ, mưa nhỏ giọt trên mặt anh, trên mặt đất. Anh lấy từ áo choàng ra một gói nhỏ bọc trong vải gai:
- Này Lucas. Chú mang trả lại cháu. Chú không thể giữ được nữa, ở nhà chú nó không còn an toàn.
- Chú Peter, mặt chú tái nhợt. Có chuyện gì vậy?
- Cháu không đọc báo sao? Cháu không nghe đài à?
- Cháu không bao giờ đọc báo và cháu chỉ nghe đĩa cũ.
Peter quay về phía đứa bé:
- Đây là con Yasmine phải không.
- Vâng, đó là Mathias. Mathias, chào ông Peter đi, cháu.
Thằng bé yên lặng nhìn Peter.
Peter nói:
- Mathias đã chào chú bằng mắt rồi.
- Mathias, hãy cho gia súc ăn đi.
Thằng bé nhìn xuống, nó lục tìm trong thùng sách:
- Không phải lúc cho gia súc ăn chú ạ.
- Cháu nói đúng. Cháu ở đây và báo cho chú biết nếu có khách hàng. Chú Peter, ta lên gác.
Hai người lên buồng Lucas. Peter nói:
- Thằng bé có đôi mắt đẹp quá.
- Vâng, đôi mắt của Yasmine.
Peter đưa cái gói cho Lucas:
- Trong các cuốn vở của cháu thiếu một số trang.
- Vâng. Cháu đã nói với chú; cháu đã chữa trong đó, cháu xoá, cháu bỏ tất cả những cái không cần thiết.
- Cháu làm thế thì anh Claus của cháu sẽ không hiểu gì hết.
- Claus sẽ hiểu.
- Cả chú cũng hiểu.
- Chính vì thế mà chú trả lại cho cháu sao? Vì chú tưởng rằng đã hiểu tất cả chứ gì?
Peter nói:
- Việc xảy ra không liên quan đến những cuốn vở của cháu. Đây là một cái gì đó nghiêm trọng hơn nhiều. Một cuộc nổi loạn đang được chuẩn bị ở nước ta. Một cuộc phản cách mạng. Nó đã bắt đầu từ các nhà trí thức, họ viết những điều mà họ lẽ ra không được viết. Nó tiếp tục với sinh viên. Sinh viên luôn luôn sẵn sàng gieo rắc sự lộn xộn. Chúng đã tổ chức một cuộc biểu tình biến thành một cuộc nổi dậy chống lại các lực lượng chính phủ. Nhưng điều thực sự nguy hiểm là khi thợ thuyền và một bộ phận nhỏ trong quân đội của chúng ta gia nhập bọn sinh viên. Đêm qua, có những nhà quân sự đã phân phát vũ khí cho những kẻ không có trách nhiệm. Dân chúng bắn nhau trong thành phố, rồi phong trào đang lan ra tỉnh lẻ và nông thôn.
- Phong trào đó đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân.
- Trừ một, đó là tầng lớp của chú.
- Các chú rất ít so với những kẻ chống lại các chú.
- Tất nhiên. Nhưng chúng ta có những người bạn hùng mạnh.
Lucas im lặng. Peter mở cửa.
- Lucas, chúng ta sẽ không gặp nhau nữa. Hãy chia tay nhau không oán hận.
Lucas hỏi:
- Chú đi đâu?
- Các nhà lãnh đạo của Đảng phải đặt dưới sự bảo vệ của quân đội nước ngoài.
Lucas đứng dậy, nắm lấy hai vai Peter và nhìn vào mắt Peter:
- Peter, chú hãy nói đi! Chú có xấu hổ không?
Peter cầm lấy tay Lucas và áp chặt vào mặt mình. Ông nhắm mắt lại và nói rất nhỏ:
- Có chứ, Lucas. Chú xấu hổ vô cùng.
Vài giọt nước mắt tuôn ra từ đôi mắt nhắm. Lucas nói:
- Không. Không phải thế. Chú hãy bình tĩnh lại đi.
Lucas tiễn Peter ra về. Anh dõi nhìn theo cái bóng đen cúi đầu bước đi dưới trời mưa về phía nhà ga.
Khi Lucas trở lại cửa hàng sách, đứa bé bảo anh:
- Ông ấy đẹp trai quá. Khi nào ông ấy lại đến?
- Chú không biết. Có lẽ chẳng bao giờ nữa.
Tối đến, Lucas đến nhà Clara. Anh vào nhà, đèn đóm tắt hết. Giường Clara lạnh ngắt. Lucas vặn ngọn đèn đầu giường. Trên gối, Clara để lại dòng chữ: “Tôi đi trả thù cho Thomas”. Lucas về nhà, anh thấy đứa bé trong giường của anh. Anh bảo nó:
- Chú chán tối nào cũng thấy cháu nằm trên giường của chú. Hãy về buồng của cháu và ngủ đi.
Cằm thằng bé rung rung, nó hít mạnh:
- Cháu nghe thấy ông Peter nói rằng dân chúng bắn nhau ở thủ đô. Chú có nghĩ mẹ Yasmine gặp nguy không?
- Yasmine không gặp nguy đâu, cháu đừng lo.
- Chú bảo rằng Peter có lẽ không bao giờ trở lại. Chú nghĩ rằng ông ấy sẽ chết hay sao?
- Không, chú không nghĩ thế. Nhưng Clara thì chắc.
- Clara là ai?
- Một người bạn. Mathias, cháu hãy về giường và ngủ đi. Chú mệt lắm rồi.
Trong thành phố nhỏ, không có chuyện gì xảy ra. Những lá cờ nước ngoài biến khỏi các toà nhà công cộng, các hình lãnh tụ cũng vậy. Một đám rước đi ngang thành phố với những lá cờ cũ của đất nước, hát bài quốc ca cũ và những bài hát cổ gợi nhớ một cuộc cách mạng khác của một thế kỷ khác.
Các quán rượu đầy ắp. Mọi người nói cười, hát to hơn thường ngày. Lucas nghe đài liên tục cho đến cái ngày nhạc cổ điển thay thế bản tin.
Lucas nhìn qua cửa sổ. Trên quảng trường Principale một chiếc xe tăng xung kích của quân đội nước ngoài đang đậu.
Lucas ra khỏi nhà để mua một bao thuốc lá. Tất cả các cửa hàng, cửa hiệu đều đóng cửa. Lucas phải đi ra tận ga. Anh gặp nhiều xe tăng khác trên đường đi. Nòng súng xe tăng quay về phía anh, chúng hướng theo anh. Phố xá vắng tanh, nhà nhà cửa đóng then cài. Nhưng nhà ga và vùng chung quanh lại đầy lính tráng của đất nước, lính biên phòng không vũ khí. Lucas nói với một người trong bọn họ:
- Có chuyện gì xảy ra vậy?
- Tôi không biết gì hết. Chúng tôi bị giải ngũ. Anh muốn đi tầu à? Không có tầu cho thường dân đâu.
- Tôi không muốn đi tầu. Tôi chỉ đến để mua thuốc lá thôi. Các cửa hàng đều đóng cửa.
Người lính chìa một bao thuốc lá cho Lucas:
- Anh không thể vào nhà ga được đâu. Cầm lấy bao thuốc này rồi về nhà đi. Dạo chơi ngoài phố là rất nguy hiểm đấy.
Lucas về nhà. Đứa bé đã dậy, hai chú cháu cùng nghe đài. Có rất nhiều âm nhạc và vài bài diễn văn ngắn:
“Cách mạng đã thắng. Nhân dân đã chiến thắng. Chính phủ của chúng ta đã yêu cầu sự giúp đỡ của người bảo vệ vĩ đại của chúng ta chống lại kẻ thù của nhân dân.”
Và đây:
“Các bạn hãy bình tĩnh. Bất cứ cuộc họp nào trên hai người đều bị cấm. Cấm bán rượu. Các hàng ăn, hàng cà phê phải đóng cửa cho đến khi có lệnh mới. Cấm cá nhân đi lại bằng tầu hoặc bằng ô tô ca. Phải tuân theo lệnh giới nghiêm. Không được ra ngoài ban đêm.”
Lại âm nhạc, rồi đến chỉ thị và doạ nạt:
“Trong các nhà máy, công việc phải được tiếp tục thực hiện. Công nhân không đến trình diện tại nơi làm việc sẽ bị đuổi. Những kẻ phá hoại sẽ bị truy tố trước toà án đặc biệt và có thể bị xử tử hình.”
Đứa bé nói:
- Cháu chẳng hiểu gì cả. Ai đã thắng cuộc cách mạng? Và tại sao cái gì cũng bị cấm? Tại sao họ lại độc ác thế?
Lucas tắt đài:
- Không được nghe đài nữa, nghe cũng chẳng được tích sự gì.
Lại có kháng cự, có chiến đấu, có bãi công. Cũng có những vụ bắt bớ, giam cầm, mất tích, hành hình. Do kinh sợ, hai chục vạn người đã lìa bỏ xứ sở.
Vài tháng sau yên lặng, bình yên, trật tự lại ngự trị.
*
Lucas bấm chuông nhà Peter:
- Cháu biết là chú đã trở về. Tại sao chú lại giấu cháu?
- Chú không giấu cháu. Chú chỉ nghĩ rằng cháu không muốn gặp chú nữa. Chú đợi cháu đến với chú trước.
Lucas cười:
- Xong rồi. Tóm lại, mọi cái lại như trước. Cách mạng chẳng được tích sự gì.
Peter nói:
- Lịch sử sẽ phán xét.
Lucas lại cười.
- Lại những lời dao to búa lớn rồi. Chú làm sao vậy?
- Cháu đừng cười. Chú đã trải qua một cơn khủng hoảng nghiêm trọng. Trước hết chú đã xin từ chức, sau đó chú lại bị thuyết phục nhận lại vai trò của chú trong thành phố này. Chú rất yêu quý thành phố này. Nó có một tác động lên tâm hồn. Ai đã từng sống ở đó một lần thì không thể không trở lại. Ở đó còn có cháu nữa, Lucas ạ.
- Chú nói thế để nịnh cháu đấy á?
- Không, đó chỉ là do tình bạn thôi. Chú biết rằng chú không có gì để mong đợi ở cháu.
- Không, Clara không về. Đã có người đến ở nhà cô ấy rồi.
Peter nói:
- Tại thủ đô đã có ba vạn người chết. Họ đã bắn vào một đoàn người có cả phụ nữ và trẻ em. Nếu Clara có tham gia vào một cái gì đó thì...
- Chắc chắn cô ấy đã tham gia vào mọi việc xảy ra tại thủ đô. Cháu nghĩ cô ấy đã gặp lại Thomas và thế là tốt. Cô ấy không ngừng nhắc đến Thomas. Cô ấy chỉ nghĩ đến Thomas, chỉ yêu Thomas, cô ấy phát ốm vì Thomas. Bằng cách này hay cách khác cô sẽ chết vì Thomas thôi.
Sau một lát im lặng, Peter nói:
- Nhiều người đã vượt biên giới vào cái thời kỳ rối ren mà biên giới bị bỏ ngỏ. Tại sao cháu không lợi dụng cơ hội để đi gặp anh cháu?
- Chưa lúc nào cháu nghĩ đến điều đó. Làm sao cháu có thể bỏ lại thằng bé một mình được?
- Cháu có thể mang nó theo.
- Cháu không thể đưa một đứa trẻ, tuổi như nó vào một cuộc mạo hiểm như vậy được.
- Nếu ta thực sự muốn thì ta có thể dấn thân vào bất kỳ việc gì, bất kể khi nào, với người mà ta mong muốn. Thằng bé chỉ là lý do.
Lucas cúi đầu:
- Thằng bé phải ở lại đây. Nó đợi mẹ nó trở về. Nó sẽ không đi với cháu.
Peter không trả lời. Lucas ngẩng đầu lên và nhìn Peter:
- Chú có lý. Cháu không muốn đi gặp Claus. Chính anh ấy phải trở về, vì anh ấy đã ra đi.
Peter nói:
- Kẻ nào không tồn tại thì không thể trở về được.
- Claus tồn tại và anh ấy sẽ về!
Peter lại gần Lucas và xiết chặt vai anh:
- Bình tĩnh đi cháu. Cháu phải nhìn thẳng vào thực tế. Cả anh cháu, cả mẹ của thằng bé sẽ không về, cháu biết rõ mà.
Lucas thì thầm:
- Claus thì có đấy.
Lucas ngã ra phía trước ghế, trán anh đập vào gờ cái bàn thấp, anh gục xuống tấm thảm. Peter lôi anh lên ghế dài, thấm ướt một mảnh vải và lau mặt đầm mồ hôi cho anh. Khi Lucas tỉnh lại, Peter cho anh uống nước và đưa cho anh một điếu thuốc lá đã cháy:
- Lucas, hãy thứ lỗi cho chú. Chúng ta sẽ không nói về những cái đó nữa.
- Chúng ta đã nói về gì vậy?
- Về gì ư?
Peter châm một điều thuốc lá khác:
- Về chính trị, tất nhiên rồi.
Lucas cười:
- Cháu mà dựa dẫm vào ô dù của chú thì rất phiền đấy.
- Phải, thế đấy cháu ạ. Chính trị bao giờ cũng làm phiền cháu, phải không?
*
Thằng bé đã sáu tuổi rưỡi. Ngày đầu tiên đến trường, Lucas muốn đi cùng nó, nhưng thằng bé thích đi một mình. Đến trưa nó về, Lucas hỏi nó xem mọi việc có ổn không, nó nói rằng mọi việc đều tốt đẹp.
Những ngày tiếp theo cũng vậy, thằng bé nói rằng ở trường mọi việc đều tốt. Tuy nhiên một hôm nó về nhà với một vết thương ở má. Nó nói rằng nó ngã. Một hôm khác, bàn tay phải của nó có những vết đỏ. Hôm sau, trên bàn tay đó, các móng tay đen lại từ móng ngón cái. Thằng bé bảo rằng nó bị kẹt tay vào cánh cửa. Nhiều tuần liền nó buộc phải viết bằng tay trái.
Một buổi tối nó về nhà, miệng bị rách và sưng. Nó không ăn được. Lucas không hỏi han gì, anh đổ sữa vào miệng nó rồi đặt lên bàn nhà bếp một chiếc tất nhồi đầy cát, một hòn đá nhọn hoắt và một con dao cạo. Anh nói:
- Đó là vũ khí của các chú khi các chú phải tự bảo vệ chống bọn trẻ khác. Cháu hãy cầm lấy. Cháu hãy tự bảo vệ mình!
Thằng bé nói:
- Các chú hai người. Cháu chỉ một mình.
- Một mình cũng phải biết tự bảo vệ.
Thằng bé nhìn các đồ vật trên bàn:
- Cháu không thể, không bao giờ cháu có thể đánh ai hoặc làm ai bị thương.
- Tại sao vậy? Những đứa khác đánh cháu, làm cháu bị thương kia mà.
Thằng bé nhìn vào mắt Lucas:
- Không quan trọng khi cháu bị những vết thương vật chất. Nhưng nếu cháu bắt ai đó phải chịu thì việc đó trở thành một thứ thương tổn đối với cháu mà cháu không sao chịu nổi.
- Cháu có muốn chú nói với thầy giáo của cháu không?
- Nhất thiết không? Cháu có phàn nàn gì đâu. Cháu có đòi hỏi ở chú sự giúp đỡ và vũ khí đâu?
Nó gạt các dụng cụ tự vệ khỏi mặt bàn:
- Cháu mạnh hơn tất cả bọn chúng, dũng cảm hơn và nhất là thông minh hơn. Chỉ có cái đó mới đáng kể.
Lucas vứt hòn đá và chiếc tất chứa cát vào sọt rác. Anh gấp dao cạo, bỏ vào túi.
- Chú vẫn mang theo nó trong người, nhưng không dùng đến nó.
Khi thằng bé đi nằm, Lucas vào buồng nó, ngồi xuống mép giường:
- Mathias, chú sẽ không xen vào việc của cháu nữa, sẽ không hỏi cháu nữa. Khi nào cháu muốn thôi học, cháu sẽ bảo chú, được không?
Thằng bé nói:
- Cháu sẽ không bao giờ bỏ học.
- Mathias, hãy cho chú biết có bao giờ cháu khóc khi cháu một mình ở nhà buổi tối không?
- Cháu quen sống một mình rồi. Cháu không bao giờ khóc, chú biết mà.
- Phải, chú biết. Nhưng cháu cũng chẳng bao giờ cười. Khi cháu bé, cháu cười suốt ngày.
- Đó là trước khi mẹ Yasmine chết.
- Cháu nói gì vậy, Mathias? Yasmine không chết.
- Có, mẹ Yasmine chết rồi. Cháu biết từ lâu. Nếu còn sống, thì mẹ Yasmine đã về.
Sau một lúc im lặng, Lucas nói:
- Ngay cả khi Yasmine ra đi, cháu vẫn cười kia mà.
Thằng bé nhìn lên trần nhà:
- Vâng, có lẽ thế. Trước khi chúng ta rời khỏi nhà bà. Đáng lẽ chúng ta không nên rời khỏi nhà bà.
Lucas lấy tay ôm mặt đứa bé:
- Có lẽ cháu nói đúng.
Đứa bé nhắm mắt lại, Lucas hôn lên trán nó:
- Ngủ đi, Mathias. Khi nào cháu buồn phiền quá mà cháu lại không muốn thổ lộ với ai thi cháu hãy viết ra việc đó sẽ giúp cháu.
Thằng bé đáp:
- Cháu đã viết rồi. Cháu đã viết tất cả, tất cả mọi chuyện xảy ra cho cháu kể từ ngày cháu ở đây. Những cơn ác mộng của cháu, nhà trường, mọi thứ. Cháu cũng có một cuốn vở to như của chú. Chú có nhiều, cháu chỉ có một cuốn mỏng thôi. Không bao giờ cháu để chú đọc nó. Chú đã cấm cháu đọc những cuốn vở của chú, cháu cũng không cho chú đọc vở của cháu.
Mười giờ sáng một người đàn ông có tuổi, rậm râu vào cửa hàng sách. Lucas đã trông thấy ông ta. Đó là một trong những khách hàng tốt nhất của anh. Lucas đứng dậy và tươi cười hỏi.
- Thưa ông cần gì à?
- Tôi đến để nói chuyện với anh về Mathias. Tôi là thầy giáo của cháu. Tôi đã gửi cho anh mấy lá thư để mời anh đến gặp tôi.
- Tôi không nhận được lá thư nào cả.
- Nhưng anh đã ký nhận mà.
Thầy giáo lấy từ túi ra ba cái phong bì và đưa cho Lucas:
- Đây không phải là chữ ký của anh sao?
Lucas xem xét các lá thư:
- Phải mà lại không phải. Đấy là chữ ký của tôi nó được giả mạo rất khéo.
Thầy giáo mỉm cười và lấy lại các lá thư:
- Đó cũng là điều mà cuối cùng tôi nghĩ đến. Mathias không muốn tôi nói chuyện với anh. Bởi vậy tôi quyết định đến đây trong giờ học. Tôi đã yêu cầu một học sinh lớn tuổi hơn trông lớp khi tôi vắng mặt. Nếu anh muốn thì cuộc thăm viếng của tôi sẽ được giữ kín giữa hai chúng ta thôi.
- Vâng, tôi nghĩ như thế sẽ tốt hơn. Mathias không cho tôi được chuyện trò với ông..
- Nó là một đứa trẻ rất tự hào, tự kiêu nữa. Nó cũng hiển nhiên là học sinh thông minh nhất lớp. Mặc dù vậy tôi khuyên anh một điều duy nhất là để cho nó thôi học. Tôi sẽ ký những giấy tờ cần thiết.
Lucas nói:
- Mathias không muốn bỏ học.
- Nếu anh biết được nó phải chịu đựng những gì! Sự độc ác của bọn trẻ vượt qua mức bình thường. Bọn con gái chế nhạo nó, gọi là “nhện”, lá “thằng gù”, là “con hoang”. Nó ngồi một mình ở hàng ghế đầu. Không đứa nào muốn ngồi cạnh nó. Bọn con trai đánh nó, đá nó, đấm nó. Thằng bé ngồi sau nó đã dập bàn vào ngón tay nó. Tôi đã nhiều lần can thiệp, nhưng chỉ làm cho mọi cái xấu đi. Ngay cả đầu óc thông minh của nó cũng chống lại nó. Bọn trẻ không dung thứ cho Mathias vì nó biết mọi thứ. Vì nó là đứa giỏi nhất về mọi mặt. Chúng ghen tức và chúng làm cho nó không sống nổi.
- Tôi biết, mặc dù nó không bao giờ nói với tôi.
- Phải, nó không bao giờ nói với tôi.
- Phải, nó không bao giờ kêu ca. Nó cũng không thèm khóc. Nó có một tính cách rất mạnh mẽ. Nhưng nó không thể chịu đựng mải mải từng ấy điều xỉ nhục. Hãy để nó thôi học, cứ tối đến tôi sẽ dạy nó học ở đây, tôi thực sự vui thích được dạy một đứa trẻ có năng khiếu như nó.
Lucas nói:
- Cảm ơn ông. Nhưng việc này không phụ thuộc vào tôi. Mathias nhất thiết mong muốn theo học bình thường như những đứa trẻ khác. Đối với nó, bỏ học có nghĩa là công nhận sự khác biệt, tình trạng tàn tật.
- Tôi hiểu. Tuy nhiên, khác biệt thì có đấy, rồi một ngày nào đó nó cũng phải chấp nhận thôi.
Lucas im lặng, thầy giáo dạo quanh và nhìn sách trên các giá:
- Phòng này rộng quá nhỉ. Anh nói sao nếu kê vào đây vài cái bàn và vài cái ghế và tạo thành một phòng đọc cho thiếu nhi? Tôi có thể mang tới một số sách cũ không biết để đâu. Như vậy bọn trẻ mà cha mẹ không có sách có thể đến đây và đọc sách, một hai tiếng đồng hồ.
Lucas nhìn thấy giáo:
- Ông nghĩ rằng điều đó có thể thay đổi quan hệ giữa Mathias và các trẻ khác phải không? Vâng, cái đó đáng phải thử xem sao, có thể là một ý hay, thưa thầy.