Chương 6
Mười giờ tối. Peter bấm chuông nhà Lucas. Lucas ném cho anh chìa khoá qua cửa sổ. Peter lên gác và vào buồng:
- Chú có làm phiền cháu không?
- Không ạ, trái lại cháu đi tìm chú, nhưng chú đã biến. Ngay cả Mathias cũng lo về sự vắng mặt của chú.
- Ngoan quá, nó ngủ à?
- Nó ở trong buồng, nhưng làm sao biết nó ngủ hay nó làm gì. Nó thức dậy bất cứ lúc nào ban đêm, rồi nó đọc, nó viết, suy tư và nghiên cứu.
- Nó có thể nghe thấy chúng ta nói không?
- Nếu nó muốn thì nó nghe được.
- Vậy thì chú muốn cháu đến nhà chú hơn.
- Đồng ý.
Ở nhà, Peter mở tất cả cửa sổ trong các phòng. Anh ngã người vào một chiếc ghế bành:
- Nóng không thể chịu được. Cháu hãy kiếm cái gì uống và ngồi xuống. Chú vừa từ ga về, chú đã đi suốt ngày. Chú đã phải chuyển tầu bốn lần và đợi rất lâu mỗi lần chuyển.
Lucas mang đồ uống ra:
- Chú ở đâu về?
- Ở quê chú. Chú được ông thẩm phán triệu tập gấp về việc của Victor. Bác ấy đã bóp cổ bà chị trong một cơn sảng rượu cấp.
- Tội nghiệp Victor. Chú có gặp bác ấy không?
- Chú có gặp. Bác ấy đang ở trong bệnh viện tâm thần.
- Bác ấy ra sao?
- Bác ấy rất bình tĩnh, hơi phị ra vì thuốc men. Bác ấy hài lòng được gặp chú, bác ấy hỏi thăm cháu, thằng bé và cửa hàng sách và gửi lời chào cháu.
- Bác ấy nói gì về bà chị?
- Bác ấy nói một cách bình thản: “Việc đã rồi, không sao lấy lại được nữa”.
- Rồi bác ấy sẽ ra sao?
- Chú không biết. Vụ này chưa đưa ra xét xử. Chú nghĩ Victor sẽ ở lại bệnh viện đến hết đời. Chỗ của bác ấy không phải là nhà tù. Chú đã hỏi xem có thể giúp gì bác ấy, bác bảo gửi thường xuyên cho bác những thứ đã viết:
“Giấy và bút, tôi chỉ cần có thế. Ở đây, cuối cùng thì tôi có thể viết cuốn sách của tôi.”
- Phải, Victor muốn viết sách. Bác ấy đã nói với cháu khi cháu mua hiệu sách của bác. Chính là để viết sách mà bác ấy đã bán tất cả.
- Phải, và bác ấy đã bắt đầu viết cuốn sách của mình.
Peter lấy ra từ trong cặp một tập giấy đánh máy.
- Chú đã đọc trên tầu. Cháu hãy mang về nhà đọc đi, rồi trả lại cho chú. Victor đã gõ trên máy chữ bên cạnh xác bà chị. Bác ấy đã bóp cổ bà chị rồi ngồi vào bàn giấy để viết. Người ta đã tìm thấy họ trong buồng của Victor, bà chị bị bóp cổ nằm trên giường, Victor thì đang đánh máy chữ, uống rượu và hút thuốc lá. Hôm sau chính các khách hàng của bà chị đã đi báo cảnh sát. Hôm xảy ra vụ án, Victor đã ra khỏi nhà, đã rút tiền ở ngân hàng, đi mua rượu, thuốc lá và xì gà. Victor nói với các khách hàng có hẹn đến thử quần áo và đợi trước cửa rằng bà chị bị ốm vì trời nóng quá và không nên làm phiền bà ấy. Khách hàng bướng bỉnh và chắc nóng lòng có áo mới nên hôm sau đã quay lại, gõ cửa, trao đổi với hàng xóm láng giềng, thấy có gì đó kỳ lạ và cuối cũng quyết định báo cảnh sát. Công an phá cửa và tìm thấy Victor say như chết, mà vẫn tiếp tục gõ máy chữ. Bác ấy để cho người ta đưa đi không kháng cự và mang theo những tờ giấy đã đánh máy. Cháu hãy đọc đi. Tuy có nhiều lỗi trong đó, nhưng đọc được và rất thú vị đấy.
Lucas về nhà mang theo bản thảo của Victor và bắt tay vào việc chép lại.
*
Hôm nay là ngày 15 tháng Tám, tiết trời nóng bức đã kéo dài được ba tuần. Nóng không chịu nổi! Trong nhà cũng như ngoài trời. Không có cách nào chống đỡ nổi cái nóng. Tôi không ưa nóng, tôi không thích mùa hè. Một mùa hè mưa nhiều, mát mẻ còn được, chứ nóng bức thì dứt khoát làm cho tôi phát ốm.
Tôi vừa bóp chết chị tôi. Bà ấy nằm trên giường tôi, tôi đã phủ một tấm chăn lên người bà. Với cái nóng nảy thân thể bà ấy sẽ bốc mùi. Mặc kệ, tôi sẽ tính sau. Tôi đã khoá cửa ra vào, nếu có ai gõ cửa, tôi không mở; Tôi cũng đã khép cửa sổ.
Tôi đã sống với chị tôi gần hai năm. Tôi đã bán cửa hàng sách và ngôi nhà của tôi tại một thành phố nhỏ xa xôi gần biên giới. Tôi đã đến sống với chị tôi để viết sách. Trong cái thành phố nhỏ xa xôi việc đó khó có thể thực hiện vì nỗi cô đơn quá lớn của tôi có cơ làm cho tôi ốm và nghiện rượu. Tôi đã nghĩ rằng ở đây, gần chị, ba ấy chăm sóc việc nội trợ, cơm nước và may mặc, tôi sống được một cuộc sống lành mạnh, cân bằng cho phép tôi viết cuốn sách mà tôi hằng mong muốn viết.
Than ôi, cuộc sống yên ổn và bình thản mà tôi hình dung nhanh chóng biến thành địa ngục.
Bà chị giám sát tôi, không ngừng theo dõi tôi.
Ngay sau khi tôi đến, bà lập tức cấm tôi uống rượu và hút thuốc, và mỗi khi tôi về nhà sau một cuộc đi mua sắm hay dạo chơi, bà ấy ôm hôn tôi trìu mến, nhưng tôi biết rằng bà ấy làm thế chỉ là để xem tôi có mùi rượu hoặc mùi thuốc lá hay không.
Tôi đã kiêng uống rượu trong mấy tháng, nhưng tôi không thể bỏ được thuốc lá. Tôi lén lút hút như một đứa trẻ, tôi mua một điếu xì gà hoặc một gói thuốc lá rồi tôi đi dạo chơi trong rừng. Lúc về, tôi nhai lá thông, tôi ngậm kẹo bạc hà để làm mất mùi hôi. Về mùa đông tôi để mở cửa sổ mà hút thuốc.
Nhiều khi tôi ngồi vào bàn, trước mặt là những tờ giấy, nhưng đầu óc thì tuyệt đối rỗng không.
Tôi có thể viết được gì? Trong cuộc đời tôi, không xảy ra một chuyện gì, chưa bao giờ xảy ra một chuyện gì và chung quanh tôi cũng không. Không có gì đáng viết. Thế rồi chị tôi quấy rầy tôi suốt ngày, bà ấy vào buồng tôi với bất kể lý do gì, khi thì mang nước chè cho tôi, khi thì quét bụi đồ gỗ, khi thì xếp quần áo sạch vào tủ. Bà ấy còn ghé qua vai tôi để xem công việc viết lách của tôi có tiến triển không. Vì vậy tôi buộc phải bôi đầy lên các trang giấy, tôi chép lại trong sách, bất kể sách gì. Đôi khi chị tôi đọc một câu qua vai tôi, thấy câu ấy hay, liền động viên tôi bằng một nụ cười hài lòng.
Không có nguy cơ bà ấy phát hiện ra sự dối trá của tôi, vì bà ấy không bao giờ đọc sách, có lẽ suối đời bà không đọc một cuốn sách nào, bà không có thời gian, ngay từ thưở nhỏ bà đà phải làm việc từ sáng đến tối.
Buổi tối, bà ấy ép tôi đến phòng khách.
- Hôm nay chú đã làm việc nhiều rồi. Ta hãy nói chuyện một chút.
Rồi vừa khâu bằng tay hay bằng chiếc máy cũ đạp chân, bà ấy nói về các bà hàng xóm, về khách hàng, về váy áo và vải vóc, về sự mệt mỏi của bà, về sự hy sinh của bà cho tác phẩm và cho sự thành công của tôi, Victor, em trai bà.
Tôi buộc phải ngồi đó, không thuốc lá, không rượu, để nghe những chuyện ngớ ngẩn của bà. Cuối cùng khi bà ấy lui về buồng, tôi về buồng tôi, tôi châm một điếu xì gà hoặc một điếu thuốc lá, tôi lấy một tờ giấy và viết đầy lên đó những lời chửi rủa của chị tôi, các khách hàng thiển cận của bà ấy, các chiếc áo kỳ cục của bà ấy. Tôi giấu tờ giấy giữa các tờ khác, chúng chỉ là những bản sao chép tạp nham những đoạn trong bất kỳ cuốn sách nào.
Nhân lễ giáng sinh, chị tôi tặng tôi một chiếc máy chữ:
- Bản thảo của chú đã khá dầy, chị đoán rằng chú sắp viết xong cuốn sách của chú. Sau đó còn phải đánh máy. Chú đã theo học lớp đánh máy chữ ở trường thương mại, nếu chú có quên chút ít do không được thực hành thì rồi chú cũng dễ dàng nhớ lại thôi.
Tôi tuyệt vọng cực độ nhưng để vui lòng chị tôi, tôi lập tức ngồi vào bàn và tôi vụng về chép lại vài trang đã được cóp trong một cuốn sách nào đó. Chị tôi nhìn tôi làm, vừa gật đầu vẻ hài lòng:
- Cũng không đến nỗi tồi, Victor, có khi lại còn khá nữa kia đấy. Chẳng bao lâu nữa, chú sẽ đánh nhanh như trước.
Còn một mình, tôi đọc lại các trang đánh máy. Chỉ toàn cái lỗi đánh sai, gõ nhầm chữ.
Vài ngày sau, trên đường đi dạo trở về nhà tôi vào một quán rượu ngoại ô. Tôi chỉ muốn làm ấm người một chút bằng cách uống một chén trà vì tay chân tôi bị lạnh và hoàn toàn tê dại do máu lưu thông kém. Tôi ngồi vào một cái bàn gần lò sưởi, khi người hầu bàn hỏi tôi cần gì, tôi trả lời:
- Cho một cốc trà.
Rồi tôi thêm:
- Pha rượu mạnh.
Tôi không biết tại sao tôi lại nói thêm, tôi không hề có ý định nói thêm, vậy mà tôi đã nói. Tôi đã uống trà pha rượu rồi tôi còn yêu cầu rượu Rhum, lần này thì không trà, rồi lại rượu Rhum lần thứ ba.
Tôi lo lắng nhìn chung quanh. Thành phố không lớn lắm, gần như ai cũng biết chị tôi. Nếu các khách hàng của bà ấy hoặc các bà hàng xóm mách bà rằng tôi vào quán rượu... Nhưng tôi chỉ trông thấy những bộ mặt đàn ông một mệt mỏi dửng dưng, lơ đãng, thế là nỗi lo của tôi tan biến, rồi uống thêm một cốc Rhum và ra khỏi quán rượu. Tôi bước đi không vững, đã nhiều tháng rồi tôi không uống rượu, rượu nhanh chóng bốc lên đâu tôi.
Tôi không biết làm thế nào để về nhà. Tôi sợ chị tôi. Tôi lang thang ngoài phố một lát, rồi tôi mua một hộp kẹo bạc hà, tôi bỏ ngay hai viên kẹo vào mồm. Lúc trả tiền, không biết tại sao, mà cũng chẳng muốn, tôi đã nói với cô bán hàng bằng một giọng dửng dưng:
- Cho tôi một chai rượu mận. Hai bao thuốc lá và ba điếu xì gà.
Tôi cho chai rượu vào túi trong áo khoác. Bên ngoài, tuyết rơi, tôi cảm thấy hoàn toàn sung sướng. Tôi không sợ phải về nhà nữa, tôi không sợ chị tôi nữa. Khi tôi về đến nhà; bà ấy đã kêu lên từ cái buồng dùng làm xưởng may:
- Victor, chị có một công việc khẩn. Cơm của chú đang hâm nóng trong lò. Chị sẽ ăn sau.
Tôi mau chóng ăn cơm trong bếp, tôi về buồng và khoá cửa lại. Đây là lần đầu tiên tôi dám khoá cửa buồng tôi. Khi chị tôi muốn vào, tôi đã hét lên, tôi đã dám hét nên:
- Đừng quấy rầy tôi! Tôi có những ý tuyệt vời! Tôi phải ghi lại trước khi chúng bay đi mất.
Chị tôi khiêm tốn trả lời:
- Chị không muốn quấy chú. Chị chỉ muốn chúc chú ngủ ngon thôi mà.
- Sophiê, chúc chị ngủ ngon.
Ba ấy vẫn không đi.
- Chị có một bà khách rất khó tính. Váy của bà ấy phải xong trước tối. Victor, chú hãy thứ lỗi cho chị đã để chú ăn cơm một mình
- Không sao đâu, chị đi ngủ đi, khuya rồi.
Im lặng một lát, bà ấy hỏi:
- Victor, tại sao chú lại khóa cửa? Lẽ ra chú không nên khóa. Cái đó thực sự không cần thiết.
Tôi uống một ngụm rượu để tự trấn tĩnh:
- Tôi không muốn bị làm phiền. Tôi đang viết.
- Tốt lắm, rất tốt, Victor ạ.
Tôi đã uống hết chai rượu, chai nửa lít, tôi đã hút hai điếu xì gà và nhiều thuốc lá. Tôi vứt đầu mẩu thuốc qua cửa sổ. Tuyết vẫn rơi. Tuyết phủ kín các mẩu thuốc và cái vỏ chai mà tôi cũng vứt qua cửa sổ ra xa ngoài phố.
Sáng hôm sau, chị tôi gõ cửa buồng tôi. Tôi không trả lời. Bà ấy lại gõ. Tôi kêu lên:
- Để cho tôi ngủ!
Tôi nghe tiếng bà ấy đi.
Đến hai giờ chiều tôi mới dậy. Chị tôi đợi tôi cùng ăn cơm trong bếp. Đây là cuộc nói chuyện giữa hai chúng tôi:
- Chị đã hâm lại cơm ba lần.
- Tôi không đói. Chị pha cà phê đi.
- Hai giờ rồi, làm sao chú có thể ngủ lâu đến vậy?
- Tôi đã viết đến tận năm giờ sáng. Tôi là nghệ sĩ. Tôi có quyền làm việc khi nào tôi muốn, khi cảm hứng cho phép. Viết không giống như may áo đâu. Chị hãy nhớ lấy điều đó.
Chị tôi nhìn tôi vẻ khâm phục:
- Chú nói có lý, hãy thứ lỗi cho chị. Chú sắp viết xong cuốn sách của chú chưa?
- Cũng sắp xong.
- Sung sướng quá! Sẽ là một cuốn sách hay đây, mấy đoạn chị đọc trong đó khiến chị tin như vậy... Tôi nghĩ thầm:
- Đồ ngu!
Tôi uống rượu ngày càng nhiều, tôi mất thận trọng. Tôi để quên gói thuốc lá trong túi áo khoác. Bà chị tôi lấy cớ chải áo, lục túi tôi. Một hôm bà ấy vào buồng tôi tay hươ hươ bao thuốc lá còn một nửa:
- Chú hút thuốc!
Tôi đáp lại với vẻ thách thức:
- Tôi không thể viết được nếu không hút.
- Chú đã hứa với tôi không hút nữa kia mà!
- Tôi cũng tự hứa như vậy. Nhưng tôi đã nhận ra rằng tôi không thể viết mà không hút thuốc. Nếu tôi ngừng hút thì tôi cũng ngừng viết. Tôi đã quyết định tốt hơn hết là cứ tiếp tục hút và viết còn hơn là sống mà không viết. Tôi sắp đến đoạn cuối của cuốn sách của tôi. Tôi hút thuốc hay không hút thì có gì là quan trọng đâu.
Chị tôi xúc động, lui ra; sau đó trở lại với một cái gạt tàn và đặt lên bàn tôi:
- Vậy chú hút đi, nếu vì cuốn sách thì không có gì quan trọng.
Để uống rượu tôi đã áp dụng chiến thuật sau đây: tôi mua hàng lít rượu trong các khu phố khác nhau của thành phố và chú ý không mua hai lần liền tại cùng một cửa hàng. Tôi mang chai rượu về nhà trong túi áo khoác giấu nó trong cái giá để ô trong hành lang, và khi chị tôi đi ra ngoài hay đi ngủ, tôi đi lấy chai rượu, tự giam mình trong buồng, tôi uống rượu và hút thuốc đến khuya.
Tôi tránh các quán rượu, mọi việc đều êm đẹp, giữa tôi và chị tôi cho đến mùa xuân năm nay thì Sophiê bắt đầu nóng ruột:
- Victor, bao giờ thì chú xong cuốn sách của chú? Không thể kéo dài mãi được đâu. Chú không bao giờ dậy trước hai giờ chiều, vẻ mặt chú rất xấu, chú sẽ ốm mất và làm cho tôi cũng ốm theo.
- Tôi đã viết xong, bây giờ tôi còn phải sửa và đánh máy. Đó là một việc lớn đấy.
- Chị chưa bao giờ nghĩ rằng viết một cuốn sách lại mất nhiều thời gian như vậy.
- Sophiê, một cuốn sách không phải là một cái áo, chị đừng quên điều đó.
*
Mùa hè đã đến. Cái nóng làm tôi khổ sở ghê gớm. Buổi chiều tôi vào rừng nằm dưới các gốc cây. Đôi khi tôi ngủ thiếp đi, tôi có những giấc mơ lộn xộn. Một buổi tối, một cơn giông khủng khiếp bất chợt tới trong giấc ngủ. Đó là ngày mười bốn tháng Tám. Tôi ra khỏi rừng thật nhanh bằng đôi chân ốm yếu của tôi. Tôi vội đến náu mình trong một quán rượu đầu tiên. Thợ thuyền, dân thường uống rượu ở đây. Họ rất vui mừng vì đã nhiều tháng rồi trời chưa mưa. Tôi gọi một cốc nước chanh, họ cười rồi mọi ngươi đưa cho tôi một cốc vang đỏ. Tôi nhận cốc rượu. Sau đó tôi gọi một chai và khao tất cả mọi ngươi. Trong lúc trời mưa, tôi gọi hết chai này đến chai khác, tôi cảm thấy được bao bọc trong một tình bạn nồng nhiệt. Tôi tiêu hết số tiền mang theo. Các ông bạn của tôi lần lượt ra về, tôi không buồn về, tôi cảm thấy cô đơn, tôi không có nhà, tôi không biết đi đâu, tôi muốn trở lại ngôi nhà của tôi, hiệu sách của tôi trong cái thành phố nhỏ xa xôi, nó là nơi lý tưởng, bây giờ thì tôi biết chắc chắn điều đó, lẽ ra tôi không bao giờ được rời bỏ cái thành phố biên giới để đến với chị tôi mà ngay từ thưở nhỏ tôi đã ghét.
Ông chủ quán rượu đã nói:
- Đóng cửa thôi!
Ra ngoài phố, cái chân trái của tôi, cái chân đau quỵ xuống làm tôi ngã.
Sau đó tôi không nhớ gì nữa. Tôi tỉnh dậy người ướt đẫm mồ hôi. Tôi không dám ra khỏi buồng. Những màu ký ức chầm chậm quay lại với tôi. Những bộ mặt hớn hở, tầm thường trong một quán rượu ngoại ô... Sau đó là mưa, là bùn... bộ đồng phục của cảnh sát đưa tôi về... bộ mặt biến sắc của chị tôi... những lời tôi chửi chị.. cái cười của cảnh sát.
Ngôi nhà yên ắng. Bên ngoài mặt trời lại sáng chói với cái nóng ngột ngạt.
Tôi đứng dậy, tôi lôi chiếc vali cũ của tôi ra từ dưới gầm giường, tôi nhét quần áo của tôi vào. Đó là giải pháp duy nhất. Phải mau chóng đi khỏi đây. Đầu óc tôi quay cuồng. Mắt tôi, miệng tôi, họng tôi nóng bỏng. Tôi chóng mặt, tôi phải ngồi xuống. Tôi nghĩ rằng trong tình trạng này thì không thể nào đi đến ga được. Tôi lục lọi trong sọt giấy và tìm được một chai rượu, tôi tu luôn. Tôi cảm thấy trong người khá hơn. Tôi sờ đầu, sau tai trái có một vết u gây đau đớn. Tôi lại cầm chai rượu đưa lên miệng, đúng lúc chị tôi đi vào buồng. Tôi đặt chai rượu xuống và đợi. Chị tôi cũng đợi. Im lặng kéo dài rất lâu. Chính bà ấy đã phá tan nó bằng một giọng bình thản và kỳ lạ:
- Chú có gì để nói không?
- Chẳng có gì.
Bà ấy đã gào lên:
- Hay đấy nhỉ! Thật quá hay đấy! Chú không có gì để nói! Chú say khướt, chú nằm trong bùn, cảnh sát nhặt chú về, vậy mà chú không có gì để nói!
- Bà để tôi yên. Tôi đi đây.
Bà ấy rít lên:
- Phải, tôi thấy rồi, chú sắp xếp vali. Nhưng chú đi đâu, đồ ngu ngốc, chú đi đâu không một xu dính túi như vậy?
- Tôi còn tiền bán cửa hàng sách ở ngân hàng.
- À ra thế! Tôi tự hỏi không biết chú còn được bao nhiêu. Chú đã bán tống bán tháo cái cửa hàng sách đó, chút ít tiền vơ được, chú đã phung phí vào rượu, vào thuốc lá hết.
Đương nhiên tôi không bao giờ nói với bà ấy về những đồng tiền vàng và bạc, cũng như đồ nữ trang mà tôi đã nhận được và gửi ngân hàng. Tôi chỉ trả lời đơn giản:
- Tôi còn đủ tiền để đi.
Bà ấy nói:
- Thế còn tôi thì sao? Tôi chưa được trả tiền. Tôi đã nuôi chú, cho chú ở, đã chăm sóc chú. Ai là người thanh toán cho tôi những khoản đó?
Tôi đóng khóa vali:
- Tôi sẽ thanh toán cho chị. Hãy để cho tôi đi.
Đột nhiên dịu đi, bà ấy nói:
- Victor, đừng trẻ con như thế. Tôi tha thứ cho chú một lần cuối. Việc xảy ra đêm qua coi như một tai nạn. Mọi việc sẽ thay đổi sau khi chú hoàn thành cuốn sách.
Tôi hỏi:
- Sách nào?
Bà ấy đã nâng tập “bản thảo” của tôi lên:
- Cuốn sách ấy. Sách của chú ấy.
- Tôi đã không viết một dòng nào trong đó.
- Có gần hai trăm trang đánh máy mà.
- Phải, hai trăm trang cóp trong đủ mọi loại sách.
- Cóp ư? Tôi không hiểu.
- Chị không bao giờ hiểu gì hết. Hai trăm trang đó, tôi đã cóp trong sách. Không có lấy một dòng nào do tôi viết cả. Bà ấy nhìn tôi, tôi nhấc chai rượu lên và uống rất lâu.
Bà ấy lắc đầu:
- Tôi không tin, chú say rồi, chú nói linh tinh. Tại sao chú lại làm thế kia chứ?
Tôi cười gằn:
- Để làm cho chị tưởng rằng tôi viết. Nhưng ở đây thì tôi không thể viết được. Chị quấy rầy tôi, chị không ngừng rình mò tôi, chị làm tôi không viết được. Chỉ nhìn thấy chị thôi, biết rằng chị có mặt trong nhà cũng đủ làm tôi không viết nổi. Chị phá hoại mọi thứ, huỷ hoại tất cả, tiêu huỷ mọi sự sáng tạo, cuộc sống, tự do, cảm hứng của tôi. Từ thời thơ ấu, chị chỉ làm một việc là giám sát tôi, chỉ đạo tôi, làm phiền tôi!
Bà ấy đứng im một lát, sau đó bà nói, mắt nhìn sàn nhà và tấm thảm sờn:
- Chị đã hy sinh tất cả cho công việc của chú, cho cuốn sách của chú. Chị đã hy sinh công việc của chị, khách hàng của chị, những năm cuối đời của chị. Chị đi rón rén trên đầu ngón chân để khỏi làm phiền chú. Vậy mà chú không viết được một dòng nào trong gần hai năm chú ở đây? Chú chỉ ăn uống và hút thuốc! Chú chỉ là đồ ăn hại, đồ vô tích sự, đồ say rượu, quân ăn bám! Tôi đã thông báo cho các khách hàng của tôi biết về xuất bản cuốn sách. Vậy mà chú đã chẳng viết gì hết! Tôi sẽ là trò cười cho cả thành phố. Chú đã làm cho nhà này mất danh dự! Đáng lẽ ra tôi phải để chú chết đi trong cái thành phố bẩn thỉu của chú, trong cái cửa hàng sách ghê tởm của chú. Chú đã sống một mình ở đó hơn hai chục năm, tại sao chú không viết sách ở đó, tôi có đến đó quấy rầy chú đâu, có ai đến đó quấy rầy chú đâu? Tại sao vậy? Bởi vì chú không có khả năng viết lấy một dòng cho một cuốn sách dù là dở nhất, ngay cả khi thuận lợi nhất và trong những điều kiện tốt nhất.
Tôi tiếp tục uống rượu trong khi bà ấy nói, và từ xa xăm tôi nghe thấy giọng nói của tôi trả lời bà ấy như thế nó từ phòng bên cạnh vang lại. Tôi bảo bà ấy rằng bà ấy có lý, rằng tôi không thể, đã không thể viết bất kỳ cái gì khi mà bà còn sống. Tôi nhắc lại những kinh nghiệm tình dục trẻ con mà bà khởi xướng, vì bà lớn hơn tôi nhiều tuổi, và những trò đó đã làm cho tôi bực mình qua cả sức tưởng tượng của bà.
Bà chị tôi đáp lại rằng đó chỉ là những trò trẻ con, rằng nhắc lại những chuyện đó là vô vị, nhất là khi bà ấy vẫn trinh bạch và rằng: “cái đó” không làm cho bà quan tâm từ lâu rồi.
Tôi bảo rằng tôi biết là “cái đó” không làm bà quan tâm, bà đành lòng ve vuốt hông và ngực khách hàng của bà. Tôi đã quan sát bà những lúc bà thử quần áo cho họ, tôi đã chứng kiến niềm khoái cảm của bà khi bà sờ vào người các cô khách trẻ đẹp, bản thân bà chưa bao giờ trẻ đẹp, bà chỉ là một con người hư hỏng.
Tôi báo bà ấy rằng vì đã xấu xí và vì cái thanh giáo đạo đức giả của bà mà chẳng thằng đàn ông nào thèm quan tâm đến bà. Thế là bà ấy quay lại với các cô khách hàng và viện cớ là lấy số đo, vuốt cho vải phẳng ra, bá ấy liền sờ soạng các cô gái trẻ đẹp đến đặt bà may áo.
Chị tôi nói:
- Chú quá đáng lắm, Victor, thế đủ rồi!
Bà tóm lấy chai rượu, chai rượu của tôi đập vào chiếc máy chữ, rượu bắn tung toé lên mặt bàn. Chị tôi, tay cầm cổ cái chai vỡ tiến lại gần.
Tôi đứng lên, tôi giữ cánh tay bà ấy bất động, tôi vặn cổ tay bà, bà ấy buông cái chai. Chúng tôi ngã xuống giường, tôi đè lên người bà ấy, tay tôi xiết chặt cái cổ gầy guộc của bà cho đến khi bà ấy không còn giãy được nữa.
*
Hôm sau Lucas trả lại bản thảo của Victor cho Peter. Vài tháng sau Peter lại về thành phố quê hương để tham dự phiên tòa. Anh vắng mặt mấy tuần lễ. Khi về anh ghé vào hiệu sách, xoa đầu Mathias và nói với Lucas:
- Tối nay hãy đến nhà chú.
Lucas nói:
- Sự việc có vẻ nghiêm trọng đấy.
Peter gật đầu
- Đừng hỏi chú lúc này. Thôi tạm biệt nhé.
Peter đi ra, thằng bé quay về phía Lucas.
- Có chuyện gì không hay xảy ra với Peter vậy?
- Không phải với Peter, mà là với bạn của Peter.
Mathias nói:
- Cũng vậy thôi, có khi còn xấu hơn.
- Cháu nói đúng, đôi khi còn xấu hơn.
Đến nhà Peter, Lucas hỏi:
- Thế nào?
Peter uống cạn một hơi cốc rượu anh vừa rót:
- Thế nào ư? Tử hình. Sáng qua đã bị treo cổ. Uống đi cháu!
- Peter, chú say rồi.
Peter nhấc chai rượu lên, xem xét mực nước và cười gằn:
- Phải, chú đã uống hết nửa chai. Chú tiếp tục sự nghiệp của Victor đấy.
Lucas đứng dậy:
- Cháu sẽ trở lại một ngày khác. Nói chuyện với chú trong tình trạng này chẳng ích gì.
Peter nói:
- Trái lại. Chú chỉ có thể nói về Victor trong tình trạng này. Cháu hãy ngồi xuống đi. Đây, cái này là của cháu. Victor gửi cho cho cháu đấy.
Anh đẩy đến trước Lucas một chiếc túi nhỏ bằng vải, Lucas hỏi:
- Cái gì vậy?
- Tiền vàng và đồ nữ trang. Cả bạc nữa. Victor không có thời gian để tiêu, bác ấy nói với chú:
“Anh hãy trả lại tất cả những thứ này cho Lucas. Cậu ấy đã mua cái nhà và hiệu sách quá đắt. Còn anh, Peter, tôi để lại cho anh ngôi nhà của tôi, tức ngôi nhà của chị tôi và cha mẹ tôi. Cả chị tôi và tôi đều không có người thừa kế. Anh hãy bán cái nhà này đi, nó bị nguyền rủa, một lời nguyền đã được đặt lên nó từ thời chúng tôi còn bé. Anh hãy bán nó đi và trở về cái thành phố nhỏ xa xôi, cái nơi lý tưởng mà lẽ ra tôi không bao giờ được rời bỏ”.
Sau một lúc im lặng, Lucas nói:
-.Chú đã dự kiến một hình phạt nhẹ hơn đối với Victor. Chú còn hy vọng bác ấy sẽ tránh được ngồi tù và sẽ kết thúc cuộc đời trong một nhà thương điên.
- Chú đã nhầm, thế thôi. Chú không thể biết trước các nhà tâm thần học lại thừa nhận rằng Victor phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình, cũng như không biết Victor đã xử sự ở phiên toà như một tên ngu ngốc. Victor đã không biểu lộ một chút hối tiếc, một chút ăn năn hối lỗi nào. Bác ấy không ngừng nhắc đi nhắc lại: “Tôi phải giết bà ta, tôi phải làm việc đó, đó là giải pháp duy nhất để tôi có thể viết cuốn sách của tôi.” Các vị bồi thẩm đã cho rằng không ai có quyền giết người với cái cớ rằng người này ngăn cản người kia viết sách. Các vị cũng tuyên bố rằng thật quá dễ để uống vài ba cốc rượu, giết những người lương thiện rồi trắng án. Các vị kết luận rằng Victor là một kẻ ích kỷ, đồi trụy, nguy hiểm cho xã hội. Trừ chú ra, tất cả nhân chứng đều khai chống lại Victor và có lợi cho bà chị, bà này đã sống một cuộc đời gương mẫu, đáng kính và bà được mọi người quý mến, nhất là các khách hàng của bà.
Lucas hỏi:
- Chú có gặp Victor bên ngoài phiên tòa lần nào không?
- Có, sau khi kết án. Chú có thể vào xà lim và ở lại với bác ấy bao nhiêu lâu cũng được. Chú đã ở lại bên bác ấy đến ngày cuối cùng.
- Bác ấy có sợ không?
- Sợ ư? Chú cho rằng đó không phải là từ thích hợp. Lúc đầu, bác ấy không tin, bác ấy không thể tin vào sự việc. Bác ấy có hy vọng một ân xá, một phép màu hay không thì chú không biết. Hôm bác ấy viết và ký di chúc, chắc chắn bác ấy không còn ảo tưởng gì nữa. Đêm cuối cùng bác ấy bảo chú: “Peter, tôi biết rằng tôi sắp chết, nhưng tôi không hiểu. Đáng lẽ chỉ có một xác chết của chị tôi, sẽ có một cái thứ hai, là xác tôi. Nhưng ai cần đến một cái xác thứ hai? Chúa chăng? Nhất định không phải, Chúa cần gì đến thân thể chúng ta. Xã hội chăng? Xã hội sẽ được lợi một cuốn sách hoặc nhiều cuốn sách nếu để cho tôi được sống hơn là được thêm một xác chết không có lợi gì cho ai cả.”
Lucas hỏi:
- Chú có tham dự cuộc hành quyết không?
- Không. Victor có yêu cầu chú, nhưng chú từ chối, cháu cho rằng chú hèn, phải không?
- Đây không phải là lần đầu tiên. Nhưng cháu hiểu chú.
- Còn cháu, cháu có thể dự không?
- Nếu bác ấy yêu cầu thì cháu làm.