← Quay lại trang sách

Chương 9

Hai mươi bốn giờ sau tại trung tâm Detroit xảy ra một sự kiện tuy hết sức nhỏ nhoi nhưng hậu quả sau nhiều tháng vẫn còn tác động tới những nhân vật chính trong các chương trước: gia đình (trung bình) của Trenton cũng như Brett DeLosanto, Barbara Zaleski và bố cô - Matt.

Thời gian: 20 giờ 30; Địa điểm: Đại lộ Ba. Dọc vỉa hè, một chiếc xe tuần tra, không có người.

“Dán bộ đít nhọ của mày vào tường”, viên cảnh sát da trắng ra lệnh.

Tay phải anh ta cầm súng ngắn, tay trái điều khiển ánh đèn bấm lên mặt Rollie Knight, đang nhắm nghiền mắt, hấp háy, rồi nhắm tịt khi luồng sáng tàn nhẫn rọi vào.

“Bây giờ đằng sau quay! Giơ tay lên! Mau, đồ lưu manh mạt hạng.”

Rollie Knight tuân lệnh, viên cảnh sát da trắng bảo người đồng đội Đen: “Khám đi!”

Anh chàng da màu bị cảnh sát bắt giữ này, đang lê gót trên đại lộ Ba thì xe tuần tra đỗ xịch ngay cạnh. Hai cảnh sát nhảy xuống, súng lăm lăm. Lúc đó Rollie Knight không bỏ chạy. Bây giờ anh mới cãi:

“Tôi có làm gì đâu! Hê! Tôi làm gì nào?” Sau đó, thấy bàn tay viên cảnh sát thứ hai nắn chân mình từ mắt cá ngược dần lên háng, anh ta rúc rích: “Hê, ông cù tôi nhột quá!

- Câm mõm! cảnh sát da trắng càu nhàu:

Rõ ràng đó là tay kỳ cựu trong nghề, mắt nhìn lạnh lùng, bụng phệ - từ khi thôi đi bộ, anh ta phát phì như bất cứ ai. Một tay dai như đỉa, sống sót được ở cái phường độc địa này nhờ chỗ không bao giờ lơ là chểnh mảng khi thi hành nhiệm vụ.

Viên cảnh sát Đen trẻ hơn nhiều tuổi, buông tay xuống, lùi lại một bước:

“Không có gì trên người”. Hạ thấp giọng, anh thêm “Tôi không rõ màu đít của hắn liên can gì đến chuyện này.”

Viên cảnh sát da trắng sững sờ. Trong lúc vội vã, anh ta quên khuấy mất rằng người cùng kíp mọi khi bị ốm, bữa nay anh đi cùng một đồng nghiệp da đen.

“Thôi, đừng nghĩ ngợi làm gì. Dù nước da cậu cũng đen như của nó, không phải vì thế mà tớ nhét cậu vào chung một duộc với đồ rác rưởi này.”

- Cám ơn, viên cảnh sát Đen nói giọng khô khan. Định nói thêm gì nữa nhưng anh ta lại thôi, quay sang Rollie Knight: “Bỏ tay xuống? Quay mặt lại.”

- Mày làm gì trong nửa giờ vừa qua? cảnh sát da trắng hỏi.

Anh ta nhẵn mặt Rollie không phải chỉ từ lúc bắt gặp hắn lảng vảng trong góc này, mà còn vì đã đọc tập lý lịch tư pháp của hắn ghi rõ hai án tù (Lần thứ nhất do chính anh ta bắt giữ).

Rollie đã trấn tĩnh lại. Đôi má võ vàng, thân hình gầy guộc do suy dinh dưỡng triền miên, mắt nhìn của hắn vẫn biểu hiện sức mạnh, một sức mạnh đặc biệt - sức mạnh của hận thù.

“Làm gì, ở đây, lúc này á? Tôi phải gánh vác một con búp bê Trắng. Hình như chồng nó không kham nổi, nên khi nào cái ấy hành nó, nó lại dẫn xác tới đây.”

Cảnh sát Trắng tím mặt, định phang cho Rollie một nòng súng giữa mặt, rồi sẽ khai là bị Nai đánh trước nên phải tự vệ. Đồng nghiệp cùng kíp sẽ chứng thực - bạn sát cánh nhau, đồng đội của nhau, gì mà chả chứng thực. Chết nỗi bữa nay bạn cùng kíp lại là người bên phía nó, có thể sẽ rầy rà. Tốt hơn là chờ dịp khác, thằng nhọ bẩn thỉu này sẽ chẳng thiệt gì, dù phải đợi, nó vẫn sẽ lĩnh đủ.

“Đừng láu cá, cảnh sát Đen gắt với Nai. Nói xem lúc ấy mày ở đâu.”

Chàng thanh niên nhổ nước bọt. Cảnh sát là kẻ thù, da màu gì cũng là thù - cảnh sát Đen càng tồi tệ vì nó làm tôi tớ - cho bọn Trắng. Tuy nhiên anh vẫn trả lời:

“Bên kia đường, phía trước mặt, ở tầng dưới.”

- Mày ở đấy bao lâu?

- Ồ độ một giờ chẳng hạn. Có thể hai giờ. Tôi không nhìn đồng hồ trên tường.

- Có cần tôi đi xác minh không? Cảnh sát Đen hỏi đồng nghiệp.

- Không cần, bọn kia sẽ cung cấp tất cả những bằng chứng ngoại phạm nó cần có. Chúng nói dối như chúng hít thở.

- Dù thế nào, cảnh sát Đen nhận xét, tôi không hiểu nó làm sao tới đây nhanh đến thế, từ đằng ấy. Trừ khi mọc cánh…

Chưa đầy năm phút trước đây, radio trên xe thông báo: vừa xảy ra vụ cướp ở cao ốc Fitso, cách đây chừng ba kilômét. Các nhân chứng thấy hai người chạy trốn trong chiếc xe hơi lớn… hiệu gì? Không rõ, nhưng là một kiểu đời mới.

Vài giây sau, hai cảnh sát thoáng thấy Rollie Knight lượn lờ trên đại lộ Ba. Khó có thể nghi gã bộ hành cô độc này có dính líu vào vụ cướp - nhất là vì nó xảy ra cách xa đến thế, nhưng cảnh sát da trắng đã nhận ra mặt quen. Thế là xảy ra vụ bắt giữ chớp nhoáng, nhanh đến nỗi viên cảnh sát Đen không kịp cân nhắc, vả lại, anh ta cũng hiểu tại sao người đồng nghiệp Trắng hành động như vậy: lệnh báo động là cái cớ cho anh ta gây sự với bất cứ ai vô phúc bị anh ta để ý. Có sự trùng hợp đáng chú ý: tất cả những người bị anh ta giữ lại, xô đẩy, lục soát đều là người da đen. Luôn luôn như thế.

Theo nhìn nhận của viên cảnh sát Đen, phải có mối liên quan giữa sự thô bạo của đồng nghiệp Trắng với nỗi khiếp sợ của anh ta khi phải đi tuần trong khu trung tâm. Sự khiếp sợ bao giờ cũng có mùi, một mùi khó ngửi và viên cảnh sát Đen ngửi thấy mùi này từ đồng nghiệp Trắng bốc ra - lúc được thông báo về vụ cướp, lúc nhảy xuống xe và ngay cả hiện giờ. Khiếp sợ làm người khó tính càng thêm độc địa, và khi nắm giữ được một mẩu quyền lực con con, hắn ta trở nên hung dữ.

Có lẽ phải thừa nhận nỗi khiếp sợ này phần lớn là chính đáng; cảnh sát của Detroit mà không biết sợ có nghĩa là anh ta thiếu đến mức tai hại trình độ tinh thông nghề nghiệp, và thiếu hẳn đầu óc tưởng tượng. Ở trung tâm thành phố, nơi tỉ lệ phạm tội cao nhất Hoa Kỳ, mỗi cảnh sát viên đều tự động trở thành một mục tiêu thường xuyên của lòng căm thù, đôi khi của dao găm và cả của súng đạn. Vì mạng sống của anh ta phụ thuộc vào tinh thần cảnh giác, nên một liều lượng sợ hãi nào đó là cần thiết, cũng như sự nghi ngờ, sự thận trọng, sự nhanh nhạy trước hiểm nguy. Cảnh sát viên như đứng trên tiền tuyến, trong một cuộc chiến thật sự; chung qui lại, trong cuộc chiến mọi điều tinh tế của văn minh - phép lịch sự, khoa tâm lý, sự độ lượng, lòng tử tế - tất cả, nói chung đều là đồ thừa phải vứt bỏ.

Tuy nhiên, một vài cảnh sát viên vẫn giữ vững được tính người sâu sắc giữa bầu không khí của khiếp sợ và bạo hành này. Họ chỉ là số ít: ba phần tư đồng nghiệp của họ là những kẻ phân biệt chủng tộc có nòi, giống hệt gã cảnh sát da trắng bụng phệ.

- Mày làm việc ở đâu, oắt con?

- Như ông vậy - tôi không làm việc, chỉ tiêu khiển.

Thấy đồng nghiệp một lần nữa sa sầm nét mặt, viên cảnh sát Đen vội vã can thiệp:

“Cút ngay! Một ngày nào đó, chúng tao sẽ khóa mõm lại!” Hai người lên xe. Gã Trắng tuôn ra hết cơn thịnh nộ:

“Tôi sẽ gô cổ nó có ngày, đồ chuột cống…”

(Chắc chắn sẽ như thế, cảnh sát Đen nghĩ bụng. Ngày mai, ngày kia, hôm nào mày đi với thằng cùng kíp Da Trắng mọi khi, cái thằng sẵn sàng quay mặt đi nơi khác, thằng bé này sẽ bị một chầu khốn khổ. Sự trả thù là thứ nhấm nháp tí một mới ngon, phải không?).

Sắp mở máy, cảnh sát Đen nghĩ lại.

“Đợi tôi một lát!”

Anh ta xuống xe, gọi Rollie Knight lúc này đã đi xa ba bốn chục mét. Thấy chàng trai đến gần, anh lấy vẻ mặt giả bộ hăm dọa. Nhưng giọng nói gần như thân tình:

“Đồng nghiệp tao không khoái cái thói láo xược của mày. Hễ có dịp là nó tóm cổ mày, và chuyện đó không có gì thích thú đâu. Nghe tao bảo: bán xới khỏi thành phố này, đến lúc nó nguôi nguôi.”

- Lời khuyên bảo của cảnh sát Đen, người anh em giả dối… tôi đếch cần.

- Tùy mày. Tao báo trước thế.

- Đi khỏi thành phố à? Dễ thế!! Đi bằng cái quái gì? không xe, không xu, làm thế nào đi?

Dưới vẻ ngờ nghệch bên ngoài, có thể nhận ra thái độ ít thù nghịch hơn.

Ít nhất phải cố thu xếp chỗ trốn, ở nơi nào đó.

- Cũng không dễ, trong xứ này.

Đúng vậy, viên cảnh sát Đen biết là không dễ. Bị cảnh sát bám, xung quanh có bao người có thể chỉ điểm, làm sao giấu kín tung tích hết ngày này sang đêm khác mà không bị phát hiện? Bất cứ viên cảnh sát nào nắm được bí quyết trong khu phố này đều có thể mua được tin với giá không đắt lắm: tiền chích một mũi hêrôin, một lời hứa che chở, hoặc đơn giản hơn, chỉ một lời hăm dọa khéo chọn. Tuy vậy, dù sao nếu có thể chuồn đi nơi khác ít nhất trong một phần ngày cũng giảm bớt nguy hiểm.

“Hay là tìm việc làm?” Các nhà máy xe hơi đang tuyển người.

- Tuyển bọn Trắng thì có.

- Không đúng: họ dùng khá nhiều thợ da màu.

- Một lần tôi đã thử xem, Rollie càu nhàu. Có thằng cha - da trắng, dĩ nhiên - vẫy tay đuổi đi.

- Cứ thử lần nữa xem. Cầm lấy cái này.

Anh đưa cho chàng trai tấm danh thiếp do nhân viên Ban Nhân sự một hãng xe hơi mới đưa tối qua địa chỉ phòng tuyển mộ, một cái tên, giờ mở cửa. Rollie Knight vò tấm các nhét vào túi.

“Cứng quá, không chùi đít được. Nhưng vẫn có thể đái vào đấy”.

- Mày dùng làm gì thì dùng, cảnh sát Đen càu nhàu, quay lưng đi về xe.

- Nói gì với nó vậy? Cảnh sát Trắng nghi ngờ hỏi.

- Chẳng nói gì nhiều. Bảo nó câm mồm, làm nó bình tĩnh lụi, thế thôi.

Anh khởi động máy, cố chăm chú nhìn thẳng phía trước, như để dập tắt ngay từ khi mới chớm mọi ý định bắt chuyện.

Nhiều khi thách đố thực ra chỉ là một thái độ anh hùng rơm để che đậy sự khiếp sợ đê hèn nhất.

Rollie Knight chính là một gã yêng hùng đáng thương. Gã run vì khiếp sợ khi nhớ lại người cảnh sát da trắng mà gã đã ngu ngốc khiêu khích, run nhất là khi nghĩ có thể bị trở lại nhà tù - chắc chắn trong nhiều năm vì với tập lý lịch tư pháp đã nặng, không thể trông mong được quan tòa nhẹ tay.

Phải là người da đen và sống trên đất Hoa Kỳ, mới hiểu tại sao hệ thống nhà tù Mỹ có thể hạ thấp được con người xuống đến mức tuyệt vọng thú vật. Tuy thật ra quá nhiều khi các tù nhân da trắng cũng bị ngược đãi, nhưng không bao giờ chúng bị đau khổ nhiều và thường xuyên như tù da đen. Cũng là sự thực: có một số nhà tù đỡ khắc nghiệt hơn, nhưng nhận xét như thế chẳng khác nào nhận xét rằng ở một góc nào đó của Địa ngục, sức nóng có đôi chút đỡ khủng khiếp. Người Đen - dù bị giam giữ ở nhà tù nào đều biết trước rằng lăng nhục và đối xử tàn tệ là món ăn hàng ngày của hắn, rằng sự thô bạo đối với thân thể có khi gây thành thương tật là chuyện thời sự trong tù. Nếu tù nhân gầy yếu - như trường hợp Roll Nai, một phần do thể tạng, một phần do thiếu ăn trong nhiều năm - thì nỗi kinh hoàng, sự căm giận bất lực càng có một cường độ khó lòng chịu nổi.

Trong lúc này, Rollie Knight càng run hơn vì trong phòng hắn giấu một ít ma túy marijuana. Bị khám nhà là tai họa giáng xuống ngay. Chỉ hút ít thôi, hắn dễ dàng đi vào con đường buôn lậu ma túy và tuy lời lãi không nhiều cũng có thể kiếm nổi miếng ăn đều đều - được vậy đã là khá vì từ ngày ra tù cách đây vài tháng, hắn không còn tìm ra cách nào khác để tồn tại.

Lắm mối lo thế, nên ngay trong đêm, hắn mang chỗ ma túy còn lại ném ra bãi hoang. Trong lòng nặng trĩu buồn lo - từ nay, đến sống cầm hơi cũng khó rồi.

Vì sợ sắp bị đói đến nơi nên ngay hôm sau hắn đến phòng tuyển mộ do viên cảnh sát Ben chỉ chỗ. Đi mà chẳng hề tin tưởng, điều này rất bình thường trong hoàn cảnh của hắn: cũng giống với mọi havenot - người không có của - trên khắp thế giới, Rollie Knight đã sống rất lâu mà không có căn cứ để tin vào bất cứ điều gì, rốt cuộc, khái niệm hy vọng đã vượt quá lý trí của gã.

Phòng tuyển mộ ở gần số 12, một trong những ngôi nhà bẩn thỉu, điêu tàn, hình thành khu giữa của Black-bottom, phường da đen cũ của trung tâm Detroit ngày trước. Không còn tấm kính nào, tuy vậy chỉ những cửa sổ tầng dưới mới bịt ván. Trong nhiều năm, ngôi nhà bị bỏ hoang, bị bít cửa, gần như đang mục nát tại chỗ. Bỗng nhiên, mới đây thôi, một sự “đổi mời” qua quít biến nó thành trung tâm của chương trình tuyển mộ “tận đáy” của các hãng lớn chế tạo xe hơi.

Chương trình này được lập ra sau những rối loạn chủng tộc 1967, nhằm cố gắng tạo công ăn việc làm cho một khối những người đói kém kinh niên - phần đông là người da màu - trước nay vẫn bị phó mặc cho số phận vì bị coi là “vô dụng”. Các hãng sản xuất xe hơi khơi mào chương trình tất nhiên tuyên bố là họ hành động hoàn toàn vì lòng vị tha. Nhưng theo những nhà quan sát vô liêm sỉ hoặc chỉ giản dị là những nhà quan sát sáng suốt, thật ra sự nhiệt tình dạo đức rất đẹp này biểu lộ mối lo sợ trước những rối loạn gần như thường xuyên làm trở ngại sản xuất rất nghiêm trọng, vả lại, đã từng có người tiên đoán: ngày nào khói hỏa hoạn lan tới tòa nhà của General Motors - điều này thực sự đã xảy ra năm 1967 - các hãng lớn sẽ biểu thị khuynh hướng xã hội. Lời tiên tri cay đắng, sẽ được các sự kiện chứng minh.

Nhìn chung chương trình tuyển mộ “tận đáy” cho kết quả tốt. Tất nhiên các hãng đều hạ thấp yêu cầu, đến mức nhận cả những gã có máu bụi đời hơn máu công nhân. Như đã dự tính, có một số phải thải loại, nhưng điều đáng ngạc nhiên là số lượng rất đông những người giữ vững được chỗ làm - và nhờ đó giữ vững được liều lương. Chân lý cổ xưa như trái đất đã được chứng minh: ngay một kẻ chuyên kéo lê cuộc đời khổ cực cũng biết nắm lấy vận may, với điều kiện là ta chìa nó ra cho hắn. Rollie Knight đến nơi vào lúc những người thuê mướn và những kẻ làm thuê đã có thời gian học được nhiều điều.

Gã bước vào phòng đợi, đã có khoảng bốn chục người - đàn ông, đàn bà - có với nhau ít nhất cũng một nét chung: màu da. Roll phải đợi độ một tiếng, phần lớn để ngủ gật - một thói quen giúp gã vượt qua các khoảng trống ban ngày.

Khi cuối cùng được gọi vào ngăn cabin nhỏ ở cuối phòng gã vẫn chưa tỉnh ngủ, xuýt nữa ngáp ngay trước mũi người xét hỏi ngồi sau bàn gỗ trắng. Một người Đen khoảng ngũ tuần, khá mập mạp, kính đồi mồi, áo thể thao, sơ mi xẫm nhưng không đeo cravat. Ông nói với giọng điềm đạm, thân mật:

“Chờ đợi làm mệt người, tôi biết. Bố tôi bảo: “Ngồi không còn kiệt sức hơn đốn củi”. Tất nhiên cụ nói vậy để tôi cố chặt được thật nhiều.”

Rollie Knight cố ý nhìn kỹ bàn tay ông ta:

“Ít lâu nay chắc ông không phải bổ nhiều củi nữa”.

- Đúng. Tôi thấy anh biết quan sát, và suy luận. Được điểm ấy rồi, anh có sẵn sàng nhận làm công việc gần nặng nhọc như chặt gỗ? Có hay không?

- Quả thật là…

Rollie bắt đầu tự hỏi tại sao mình đến đây. Một phút nữa họ sẽ tra đến lý lịch tư pháp và cuộc trao đổi sẽ kết thúc.

“Dù sao đã tới đây tức là anh kiếm việc làm, đúng không?” Ông ta xem từ phiếu màu vàng do cô thư ký ghi chép khi Rollie vào phòng đợi. “Đúng như trong này chứ, ông Nai?”

- Đúng như thế, Rollie đáp, cố giấu vẻ sửng sốt: có lẽ từ muôn đời nay bây giờ mới được gọi bằng “ông”.

- Vậy ta hãy bắt đầu bằng việc xác minh căn cước.

Ông ta lấy ra tập tờ khai. Đây cũng là một điểm mới trong phương pháp tuyển mộ: người xin việc không phải tự tay trả lời các câu hỏi. Ngày trước, hằng trăm người chỉ biết võ vẽ đọc và viết mặc nhiên bị loại ngay vì họ không thực hiện nổi cái việc cơ bản trong xã hội hiện đại: viết lá đơn xin việc.

Mở đầu không có vấn đề gì:

Tên: Knight, Rolland Joseph Louis. Tuổi 29. Địa chỉ: gã khai nhưng không nói rõ căn phòng bẩn thỉu này thực ra do một tên khác thuê và nhận cho gã ở nhờ vài ba ngày. Quả thực phần lớn cuộc đời Rollie lông bông như vậy - từ ngách buồng một người bạn vớ vẩn đến phòng trọ một khách sạn tồi tàn hạng bét, không kể những đêm ngủ dưới cổng nhà xe.

Thân nhân :gã nhớ được tên. Họ thì rất khác biệt bố mẹ gã không cưới xin, thậm chí không sống chung Rollie tránh không nói thêm…Vì gã biết mặt bố là do một hôm mẹ gã đã chỉ cho: một người thô kệch, hàm bạnh, vẻ cau có, mặt có vết sẹo rạch ngang. Một người hoàn toàn đáng ghét không hề biểu lộ chút lưu tâm đến thằng con. Vài năm sau, Rollie được tin bố vào tù, chung thân. Lão còn trong đó? Còn sống hay chết, không biết. Người mẹ mà gã rời bỏ khi mười lăm tuổi, hình như đang ngụ ở Cleveland, nếu không phải là ở Chicago?

Học vấn: trường làng, hết bảy. Lúc đi học có đầu óc nhanh nhạy, hiện nay vẫn thế khi có điều gì mới lạ, nhưng vì đã biết tất cả những gì một thằng bé da đen cần phải học để khi có điều kiện sẽ tiến thân trong cái cơ chế bẩn thỉu “của người Trắng vì người Trắng” nên gã thất vọng, và bây giờ đối với gã không làm gì có chuyện tiến thân nữa - Vậy đấy ông muốn thế nào…?

Công việc cũ: khó nhớ lại tên, chỗ làm. Nhiều việc, tầm thường và ngắn ngủi - chạy hàng vặt, quét đường (mùa đông, quét tuyết), rửa xe. Năm 1957 khi đến lượt Detroit bị ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế, không kiếm nổi việc làm, Roll bắt đầu mất hết nghị lực, thả trôi cuộc đời - thất nghiệp, những quán rượu thảm hại, cuối cùng là bản án đầu tiên về tội ăn cắp xe hơi.

Vừa vặn lúc người xét hỏi viết đến đây.

“Ông Roll Nai có lý lịch tư pháp chứ”.

- Úi chà!

- Tôi cần trả lời chi tiết hơn. Nhân đây xin báo trước rằng các lời khai của ông sẽ được thẩm tra: nếu ngay lúc này ông tỏ ra thành thật, điều đó sẽ được ghi nhận tốt trong hồ sơ.

Rollie nhún vai: nhất định phải thẩm tra. Hà tất phải diễn thuyết dài dòng, ừ đây, vụ thứ nhất. Lúc mười chín tuổi. Gã thoát ra được với giá rẻ: mười hai tháng thử thách.

Bây giờ bình phẩm việc đó làm gì vô ích. Chẳng ai cần đếm xỉa đến. Một bọn choai choai ngồi trên xe mời gã lên làm một vòng chơi, trò đùa cho vui thôi mà, rồi bỗng nhiên cảnh sát ập đến, ghép tội ăn cắp xe cho cả lũ, một cục với nhau. Hôm sau, trước khi ra tòa, người ta kéo Rollie riêng ra một chỗ, mặc cả: mày nhận là thủ phạm đi, sẽ thoát, chỉ bị một thời gian thử thách. Bàng hoàng, khiếp sợ, gã nhận lời. Bọn cảnh sát giữ lời hứa: vừa mở mồm, gã đã thấy mình được thả ra, tự do. Mãi về sau, gã mới biết nếu có luật sư như một tên da trắng cùng trong tình thế như gã - gã rất có thể không bị kết án, quan tòa chỉ dặn gã chọn bạn mà chơi, thế thôi. Họ cũng không bảo cho gã biết là nếu nhận tội, gã sẽ được tặng một bản lý lịch tư pháp, một tai họa có mặt khắp nơi, suốt đời.

Chưa nói tới chuyện nếu bị lần thứ hai sẽ nặng tội thêm vì đã có tiền án.

“Sau đó ra sao? người xét hỏi gặng thêm”.

- Sau đó? Tôi lại quay vào nhà tù. Lại một vụ trộm xe hơi. Lần này hết phép trốn. Bị hai niên.

(Không cần khai hai vụ trộm khác, không bị bắt giam).

“Hết chưa?.”

Một lần nữa Rollie tự hỏi tại sao gã dẫn thân tới đây. Vì chỉ sau một phút nữa họ sẽ tống ra khỏi cửa… Tốt nhất là làm cho nhanh.

“Chưa. Còn một vụ trấn lột có vũ khí. Lần ấy tôi rơi vào mức tối đa: từ năm đến mười lăm năm. Mất bốn năm ngồi Jackson Pen.”

Một đêm, gã cùng một tên nữa lẻn vào tiệm vàng bạc. Vớ được ba bốn chục đồng hồ, loại xấu. Khi ra, cảnh sát đã chực sẵn. Rollie ngu ngốc trót mang theo khẩu súng lục. Gã không rút súng ra nhưng vì mang nó trong người nên phải chịu xử nặng tội.

“Được tha sớm vì hạnh kiểm tốt?”

- Đâu có. Một giám thị ganh tị xà lim của tôi đẹp.

Người xét hỏi ném một cái nhìn sắc nhọn:

“Tôi cũng thích bông đùa. Nhưng bỏ cái đó sang bên, ông cho biết có phải vì hạnh kiểm tốt, hay không phải?”

- Thế cũng được, nếu ông thích.

- Được rồi. Ta ghi “hạnh kiểm tốt”. Bây giờ, về hạnh kiểm hiện tại của ông - ông vẫn còn những rắc rối với cảnh sát?

Rollie làm một cử chỉ phủ nhận. Không thể kể câu chuyện rắc rối với con lợn cảnh sát da trắng cho chú Tôm này. Tuy rằng chính vì cái đó - vì sợ những điều thằng cha cảnh sát này có thể thực hiện, sợ phải quay lại nhà tù - nên gã quyết định đi tìm việc làm. Người xét hỏi tiếp tục hỏi thêm - ngay điều này cũng gây hoang mang, đáng lý thì ngay sau mấy chữ “trấn lột có vũ khí’ ông ta đã phải mời gã ra khỏi cửa.

Gã không biết - vì không ai nói cho, vì gã không đọc báo chí - rằng chương trình tuyển mộ “tận đáy” có cách nhìn mới ngay cả với những kẻ có tiền án. Một sự đổi mới khó tin nhưng có thật.

Viên bác sĩ, cũng trắng nốt, còn trẻ, thái độ xa cách, nhìn với vẻ chê trách thân người gầy guộc, đôi má xanh xao của Rollie:

“Bất kể họ giao cho anh việc gì anh cũng nên tận dụng đồng lương để nuôi thân - Hoặc là anh lên cân, hoặc là anh không chịu nổi đòn. Nhất là không tới làm ở lò đúc như phần đông các người đăng ký ở đây. Tôi sẽ dặn họ đưa anh vào làm ở băng chuyền.”

Rollie nghe với vẻ khinh khỉnh. Tất cả những cái đó đều đáng ghét – tổ chức, con người, gã bác sĩ trẻ tự coi mình như Chúa lòng lành! Nếu không bị cháy túi thế này, nếu có được chút gì đủ nhấm nháp vài ngày gã sẽ đi thẳng sau khi bảo bọn họ hãy cút đi. Điều chắc chắn: gã sẽ không làm một ngày nào cho bọn chúng. Qua vòng nguy hiểm là xin chào!

Quay lại phòng đợi, rồi ngăn hẹp ở cuối phòng. Người xét hỏi tỏ ra vừa ý:

“Bác sĩ cho là được, vậy nên sẽ giao cho anh một chỗ làm ở băng chuyền lắp cáp. Việc nặng nhưng lương khá - có công đoàn chăm lo việc này. Nhận chứ?”

- Đã đến đây… (Thằng cha này muốn gì? Muốn mình hôn chân nó chăng?)

- Đúng thế, ông đã tới đây. Do đó tôi cho rằng ông nhận lời. Sẽ mất hai ba tuần học nghề, có trả lương, tất nhiên. Ngoài kia sẽ cho ông biết chi tiết. Chỗ làm, ngày, công giờ. Ngoài ra, còn điều này nữa…

Rollie biết thừa: Bài thuyết giáo dài dòng, bài giảng đạo nhai đi nhai lại. Tên Đen bán mình cho bọn da trắng này có lẽ hơi tí tỉnh giáo sư vào những lúc rảnh rỗi.

Người xét hỏi tháo kính. Đan ngón tay vào nhau, cúi người về phía trước:

“Ông đã đủ lọc lõi để hiểu được sự đời. Ông thấy rõ là người ta giúp ông một tay - do thời đại muốn vậy, và tuy điều đó đến quá muộn màng nhưng vẫn là đến rồi - có lẽ đây là lần đầu tiên có người giúp ông như thế. Nhưng tôi sẽ không làm tốt phần việc của tôi nếu bỏ sót không nói rõ điều này: với quá khứ như vậy, ông không có vận may này lần thứ hai nữa đâu. Vì vậy hãy chấm dứt trò ngu xuẩn đi, Rollie, hãy nắm chặt lấy vận hội này và bám chắc lấy nó. Đó là lời khuyên tốt nhất tôi cho anh ngày hôm nay. Chào!”

Ông chìa tay; sau giây lát do dự, Rollie nắm lấy, một cách hờ hững. Hắn có cảm tưởng mình vừa bị lừa phỉnh tuy không biết rõ về phương diện nào.

Lớp dạy nghề dự định trong tám tuần. Rollie Knight chịu đựng được một tuần rưỡi.

Tiền công tuần đầu nhiều hơn tất cả số tiền gã có được trong năm qua. Đủ chi một chầu rượu linh đình trong dịp nghỉ cuối tuần. Tuy vậy sáng thứ hai gã vẫn dậy được sớm, lên xe buýt tới Trung tâm dạy nghề ở tận bên kia thành phố.

Sau thứ ba, gã mệt lử. Cuối cùng khi mở mắt ra đã thấy ánh sáng xuyên qua cửa kính lem luốc (không có màn che, tất nhiên) chiếu vỗ mặt. Rollie chui khỏi chăn, loạng choạng đi tới cửa sổ. Dưới đường, đồng hồ chỉ mười hai giờ trưa.

Như thế là gã đã tung hê tuốt tuột, gã mất việc rồi. Nhận ra điều đó mà vẫn thản nhiên. Không thất vọng, bởi vì ngay từ đầu gã đã biết sẽ kết thúc như vậy. Bao giờ? Như thế nào? Chi tiết không quan trọng, vì kết cục đã biết trước như thế rồi.

Kinh nghiệm sống không dạy cho hắn - cũng như cho hàng ngàn gã con trai cùng cảnh ngộ như hắn – cách đánh giá các sự kiện với tầm nhìn xa. Vì khi sinh ra trong cảnh bần cùng triệt để, khi không có khả năng giảm nhẹ dù chỉ chút ít sự khốn khổ không phương cứu chữa, và khi phải tập thói quen tồn tại bằng cái “không bằng gì cả”, trong điều kiện ấy tầm nhìn xa trở thành không tưởng, tuyệt đối không thể có. Thực tế duy nhất: đó là ngày hôm nay, cái tức thì, khoảnh khắc thoáng qua, theo định nghĩa. Thái độ đó bị khá đông người da trắng những con người hời hợt - coi là “tính khí thất thường”, một tật đáng lên án. Các nhà xã hội học thông cảm hơn. gọi là “hội chứng định hướng hạn chế vào hiện tại”, “sự hoài nghi đối với tương lai”. Rollie chẳng hiểu một mảnh nào của những từ này nhưng bản năng của gã thâu tóm cả hai thứ đó. Cũng bản năng ấy mách bảo rằng hiện giờ gã vẫn còn mệt. Hắn nằm lại.

Gã không còn can đảm tới trình diện ở Trung tâm Dạy nghề cũng như ở phòng tuyển mộ. Đương nhiên gã lại bắt đầu lang thang ngoài đường, rình mò quanh các tiềm rượu bẩn thỉu, kiếm một đôla khi có cơ hội, cố quên cơn đói khi cơ hội này đến chậm. May thay gã cảnh sát da trắng bụng phệ bị khiêu khích để cho gã vẫn được yên thân.

Câu chuyện xuýt nhận được việc làm tuy vậy còn có một đoạn tái bút.

Có lẽ độ tuần sau, vào buổi chiều Rollie tiếp một huấn luyện viên lớp dạy nghề. Gã nhận ngay ra - một cựu đốc công, béo phị, đỏ au, còn thở hồng hộc sau khi leo ba tầng gác. Và chẳng tử tế gì.

“Sao anh dừng lại?”

- Tôi trúng sổ xố Sweepstake. Không cần đi làm.

- Rõ thật là… bọn các người! Chỉ mới nhìn cái buồng này cũng đã thấy lộn mửa! Khi nghĩ rằng tiền thuế của chúng tớ nuôi sống bọn các người.! Nếu tớ mà được toàn quyền…”

Lão rút ra tờ giấy:

“Ký vào đây một chữ. Đây, bên dưới. Để chứng thực là anh không muốn đi học.”

Thờ ơ, và cũng là để tránh rắc rối, Rollie nghe theo.

“Còn nữa, chưa xong - hãng đã làm séc trả công cho anh, bây giờ phải chuyển khoản”. Lão bới trong tập hồ sơ dày cộp: “A, đây rồi. Ký đi, ở mặt sau.”

Rollie ghi chuyển vào lưng tấm séc. Bốn tấm tất cả.

“Lần sau, huấn luyện viên cằn nhằn, phải thu xếp để tránh cho chúng tôi khỏi mất công thế này.”

Rollie Knight giả bộ nén một cái ngáp:

“Cút đi, Cục mỡ!”

Cả gã, cả người khách đều không để ý chiếc xe sang trọng đến đỗ bên kia đường, ngay chỗ đối diện. Trên xe chỉ có một người, da đen, cao lớn, lịch sự, tóc hoa râm. Người ấy đã trông thấy huấn luyện viên đi vào căn nhà “có sẵn đồ đạc cho thuê” thảm hại. Lúc này, khi lão béo phệ ra khỏi nhà, trèo lên xe, người Đen to lớn mở máy êm ru và bám theo, cách một quãng vừa đủ giữ bí mật, như vẫn bám theo hắn trong phần lớn buổi chiều hôm nay.