Chương 11
Sáu tuần sau bữa nói chuyện với Adam Trenton trên bãi thử, Brett DeLosanto tới khu trung tâm cũ của Detroit với tâm trạng ỉu xìu như bầu trời xám, thảm thê, đúng là bầu trời tháng mười một trên thành phố xám xịt và thê thảm này.
Đây không phải tâm trạng thường ngày của Brett. Nói chung tính khí chàng chuyên viên thiết kế trẻ tuổi này là vui vẻ, nhiệt thành, mà những thất bại và những mối hoài nghi gần đây không lay chuyển nổi. Nhưng cái thành phố kinh tởm này, thời tiết tồi tệ này… đối với dân California như Brett, thật đáng thất vọng.
Anh đi tới xe đậu trong bãi, gần các cửa hiệu lớn Congress và Shelby sau khi gội mưa lạnh buốt đi giữa dòng người xe đáng sợ, cứ mỗi lần anh định bước xuống lòng đường là lưu lượng xe lại đạt tới điểm cực đại. Ngồi sau tay lái, anh mở máy, bật lò sưởi và gạt mưa. Bãi xe chật cứng: Brett bị kẹt phải ngồi chờ hai xe phía trước di chuyển để cho xe ra. Tuy nhiên ban nãy khi trở lại anh đã ra hiệu gọi một người gác bãi, lúc này đang tíu tít cách đây mấy dãy xe. Trong vài phút nữa anh ta sẽ đến gỡ cho Brett.
Trận mưa rào, những đợt gió không dứt… giống hệt ngày anh đổ bộ lên Detroit.
Trong đội ngũ các nhà Vẽ kiểu của ngành công nghiệp xe hơi, số khá đông là người California, họ cũng như anh, đều tốt nghiệp Trung tâm nghệ thuật trường Cao đẳng thiết kế Los Angeles. Việc học được tổ chức theo chu kỳ ba tháng. Những người mãn khóa vào mùa rét khi tới Detroit đều bị choáng: giữa mùa đông tháng giá thành phố vốn đã ồn ào và vô cùng xấu xí này càng thêm ghê tởm đến nỗi có nhiều người bỏ đi ngay lập tức, tìm kiếm những chân trời tươi sáng hơn.
Brett đã trụ lại. Và về sau cũng thấy cuộc sống ở Detroit có những khoản bù trừ: các bảo tàng, những buổi hòa nhạc tuyệt vời, những rạp hát tốt, vùng ngoại vi rất đẹp với những gương hồ trong veo nạm giữa cảnh đồng quê thiên đường.
Tay gác bãi làm gì vậy? Sao không tới chuyển hai xe phía trước kia di?
Sở dĩ Brett cáu kỉnh chính là do một chuỗi những điều lặt vặt như vậy. Anh đã hẹn ăn trưa tại khách sạn Pontchartrain với Kreisel nhà sản xuất phụ tùng ô tô và cũng là bạn cũ. Tới khách sạn, được báo bãi xe hết chỗ. Anh phải đi gửi xe cách đó mấy trăm mét rồi cuốc bộ trở lại, người ướt đẫm như đĩa thịt tưới nước sốt. Về đến khách sạn lại có tin nhắn: Kreisel rất tiếc không tới được; Brett đã đi hai mươi lăm cây kilômét để ngồi ăn một mình. Tuy nhiên anh cũng nhân dịp này mua sắm vài thứ. Cứ mỗi lần đặt chân xuống lối qua đường đóng đinh anh lại phải thi tài với bọn lái xe hơi luôn vội vã, bắng nhắng, nhấn còi ầm ĩ không dứt như đua nhau trổ ngón thô lỗ, làm khó khách bộ hành đang bị cơn mưa hành hạ.
Chính sự cáu kỉnh man rợ của bọn ngồi xe hơi này làm anh chán nản nhất. Ngay ở New York nơi thân phận người bộ hành cũng không đáng ao ước hơn ở đây, những người lái xe không thô bạo đến thế. Còn ở Detroit này, người văn minh nhất vừa lên ngồi sau tay lái là biến ngay thành con quỷ nhập tràng Frankenstein động đực. Những kẻ mới đến lúc đầu thì khiếp sợ sau đó cũng hùa theo. Có lẽ vì bản năng tự vệ. Riêng Brett thì không. Quen với phép lịch sự tươi cười của quê hương California, anh coi tình trạng giao thông ở Detroit là cơn ác mộng đáng căm ghét.
Chắc người gác bãi quên. Brett có lẽ phải xuống xe đi tìm dưới cơn mưa tầm tã, điều chẳng khiến anh tươi tỉnh hơn. Tuy vậy, cơn tức giận của anh lập tức lắng dịu khi người gác bãi tới nơi - lấm lem bùn đất, quần áo đẫm nước dán vào da, mệt gần chết - Brett cho tiền trà nước và lễ phép chỉ những chiếc xe làm anh bị kẹt.
Lối ra bãi cách đây năm chục mét. Thấy có chiếc xe đi về phía đó Brett nhấn ga thêm một chút đồng thời chuẩn bị tiền trả người thu ngân.
Đột nhiên một chiếc hòm kính màu lục từ đâu chạy tới chắn ngang đường - chỉ cách két nước xe anh vài bước chân quay tại chỗ rồi chen ngang xếp thứ hai trong hàng xe ra cổng. Brett vội đạp dí chân phanh, mồm hét to “đồ khốn kiếp!”
Thật quá đáng: hẹn hụt, giao thông hoảng loạn, mưa, và bây giờ, thằng mất dạy. Brett nhảy xuống xe, chạy mấy bước đuổi kịp chiếc màu lục, tức tối giật mạnh cửa.
“Đồ khốn kiếp!”
Anh ngừng bặt. Trên xe, một gã Đen, cao lớn, quần áo chững chạc, khoảng ngũ tuần, tóc hoa râm, nhìn anh lạnh lùng.
“Sao? Anh nói gì?”
- Không có gì quan trọng, Brett làu bàu định đóng cửa lại.
- Xin lỗi, vội vàng làm gì! Đối với tôi thì lại quan trọng. Tôi có thể kiện lên Ban Quyền Công dân. Một anh chàng da trắng mở cửa xe, rõ ràng với ý định nện một đấm giữa mặt tôi. Khi thấy tôi khác màu da, anh ta thay đổi ý định. Thế cũng là phân biệt đối xử, phải không nào? Trái với luật Quyền Công dân.
- Một góc độ mới, tôi công nhận. Brett cười. Anh thích tôi làm nốt cử chỉ vừa rồi à?
- Nếu anh muốn! Tôi thì lại thích mời anh một cốc, để xin tha lỗi, để thanh minh rằng hành động ngu ngốc của tôi chỉ là hậu quả của một ngày đáng thất vọng.
- Cũng như ngày hôm nay của tôi, Brett thổ lộ. Đồng ý một ly. Ở đâu nào
- Anh vui lòng tới Jim's Garage? Góc đường số 3, phía tay phải, người gác cửa sẽ cất xe cho anh. Nhân thể, tự giới thiệu. Tên tôi là Wingate, Leonard…”
Bàn tay ra hiệu từ biệt; xe nổ máy.
Ngay tức thì họ nhận ra nhau: hai người cùng làm cho một hãng. Leonard Wingate làm ở ban nhân sự: theo suy luận của Brett qua trò chuyên, anh đoán Wingate giữ chức vụ khoảng hai bậc dưới phó chủ tịch, về sau anh biết thêm người bạn này là người Đen được giữ chức cao nhất trong hãng.
“Tôi đã nghe tiếng anh, anh DeLosanto. Nếu tôi không lầm, anh là Michelangelo của Orion.
- Rất vinh dự. Anh xem mẫu chưa?
- Chưa.
- Nếu muốn xem, tôi xin thu xếp.
- Rất vui sướng. Thứ uýt-xki Scot này được đấy chứ. Một nữa chăng?
- Tôi mời chầu này.
Quầy rượu của Jim's Garage có trang trí nhiều kỷ vật gợi lại thời kỳ phôi thai của nền công nghiệp xe hơi, là một nơi “ăn khách” ở trung tâm thành phố. Chiều tối, phòng bắt đầu đông dần.
“Đứa con Orion của anh… nhiều thứ phụ thuộc vào thành công của nó, Wingate nhận xét. Nhất là người của tôi.
- Người của anh?
- Tất cả thợ, nghĩa là những người ăn công giờ, Đen và Trắng. Tùy theo Orion ăn khách hay không, đời sống không biết bao gia đình ở Detroit này phụ thuộc vào nó: thợ càng làm nhiều giờ - trong tuần, càng mang được nhiều tiền về nhà - điều quyết định mức sống. Nếu họ có khả năng trả tiền cầm nhà hàng tháng, mua sắm quần áo mới, đi nghỉ phép năm, lo cho con cái học hành chu đáo…
- Vậy mà chúng tôi đâu có nghĩ đến những điều đó khi vẽ một kiểu thùng xe, khi ném những gói đất nặng vào tấm phi để tìm kiếm hình dạng tấm mặt nạ!
- Dĩ nhiên. Không bao giờ biết được lấy một nửa những điều xảy ra cho người khác: xã hội chúng ta quá chia sẻ thành nhiều tầng lớp. Nếu tình cờ anh chọc thủng được bức vách ngăn, anh sẽ thấy mình không thể giúp gì được cho anh bạn đang chết dí phía bên kia, vì có những tên bất lương, những kẻ ăn bám thối tha, những tên âm mưu bẩn thỉu…
Anh nện xuống quầy những cú đấm nối nhau liên tiếp. Rồi anh mỉm cười chua chát nhìn Brett:
“Xin lỗi…”
- Mời anh cốc thứ hai - tôi có cảm tưởng anh đang cần. Giữa những chuyện này và những cuộc nhào lộn tai hại ở bãi xe có liên quan gì chăng?
Wingate gật đầu:
“Tôi cũng phải xin lỗi anh về chuyện đó. Không có chủ định, tôi làm thế để dãn thần kinh. Một cách ngu ngốc, đúng vậy.
- Nguyên nhân cơn thịnh nộ thần thánh ấy không phải là bí mật quốc gia chứ?
- Không. Anh đã nghe nói về chương trình tuyển mộ “tận đáy” chưa?
- Nghe thì có nghe. Nhưng không biết gì hơn.
Thực ra Brett cũng chỉ biết rằng mới đây Barbara Zaleski quan tâm đến chương trình này, theo một đề án mới do Công ti OJL bổ nhiệm cô điều hành.
Wingate trình bày sự hoạt động của chương trình mới. Thu hút những người xưa nay vẫn để ngoài lề vì “vô dụng theo định nghĩa”; các phòng tuyển mộ của Ba Ông Lớn đặt trong thành phố; những thành công và thất bại của bản thân anh.
“Ngay từ giờ chúng tôi đã thấy việc này đáng được thí nghiệm. Tỉ suất “độ bền” - số người giữ vững chỗ làm việc do chúng tôi cấp - vượt quá 50%, cao hơn nhiều so với dự kiến. Cần nói rõ là tất cả mọi người đều lăn vào cuộc: công đoàn, báo chí, truyền hình, đúng là tất cả mọi người. Chính vì vậy mà thật là đau khi bị ngay những người cộng tác thân cận đâm vào lưng mình.”
- Đâm vào lưng? Brett sửng sốt. Như thế nào? Ai thế?
- Dài dòng lắm. Trong những người chúng tôi lấy vào có một số chưa hề bao giờ sống theo giờ giấc qui củ. Cái chính là do họ không thấy thế là cần. Có một công việc ổn định, như anh và tôi chẳng hạn, tạo ra những thói quen: sáng dậy sớm, đi xe buýt nào hoặc chuyến tàu nào, làm việc năm ngày trong tuần. Nếu chưa bao giờ làm như vậy anh sẽ ở vào tình thế của người học ngoại ngữ. Đúng thế, sẽ rất lâu: con người không thể thay cách ứng xử như thay sơmi. Vậy đó, nên từ khi đưa ra chương trình tuyển mộ mới, chúng tôi học thêm nhiều điều trong lãnh vực này. Ví dụ đã nhận thấy trong những người không tự mình thích ứng được với nhịp sống mới, có một số - không phải tất cả, chỉ vài ba người thôi - có thể thành công nếu giúp họ một tay.
- Các anh cần giúp tôi đây này. Sáng nào cũng khó chui ra khỏi giường quá!
Wingate tủm tỉm cười.
“Định thử giúp người nào, chúng tôi cử đến đấy một nhân viên cứu trợ xã hội. Anh ta hỏi tên đại lãn tại sao nghỉ việc. Nhiều khi, thằng cha mới bỏ có một ngày, hoặc đến nhà máy trễ vài ba giờ. Không cố tình: tự nhiên nó như vậy, hắn ta không biết tại sao lại như thế. Có điều, sau buổi nghỉ hoặc trễ giờ này, thằng cha bỏ hết. Vì hắn cho rằng chúng tôi sẽ thẳng tay, hắn dứt khoát bị mất chỗ làm.”
- Hắn nhầm?
“Hoàn toàn nhầm! chúng tôi kiên quyết giành kết quả cho chương trình, do đó, chúng tôi tạo cho mỗi người không phải chỉ một vận may mà cả một loạt tối đa dịp may. “Anh cười rúc rích: “Chúng tôi còn cấp cho những anh chàng ngủ quá giờ chiếc đồng hồ báo thức loại rẻ tiền: chắc anh thấy lạ, nhưng thực sự là phần đông bọn họ chưa bao giờ có. Vừa rồi ban giám đốc cho phép tôi mua hẳn một gốt[6].”
- Kỳ lạ thực, Brett lẩm bẩm.
Anh ngạc nhiên thực tình: đấy thật là một công cuộc vĩ đại, mỗi năm tốn kém nhiều tỉ đô la riêng để trả tiền công, và còn quan tâm cả đến một dúm thợ lười biếng không muốn ra khỏi giường.
“Điều thực sự quan trọng ở đây; Wingate nói tiếp, là chúng tôi cố bám không để tuột mất anh chàng. Khi người thợ vào làm trong khuôn khổ chương trình tuyển mộ vắng mặt ở lớp dạy nghề hoặc ở nhà máy, nhân viên phụ trách phải báo ngay cho một nhân viên cứu trợ xã hội. Anh này phải làm hết sức mình để vớt chàng kia - trừ một vài trường hợp rõ ràng phải bó tay.
- Đây có phải là khía cạnh gây nhiều băn khoăn nhất cho anh?
- Có thể nói đấy là một phần. Nhưng để tôi nói rõ đầu đuôi. Một khóa dạy nghề dài tám tuần. Mỗi lớp có khoảng hai trăm học viên. Anh nắm được không?
- Được. Một khóa tám tuần - từng toán hai trăm người.
- Chính xác. Toàn bộ do một huấn luyện viên trưởng và một nữ thư ký giám sát. Hai người này nắm toàn bộ phiếu cá nhân, hồ sơ, sổ điểm danh. Cũng chính họ đến cuối tuần phát séc tiền công do ban Kế toán gửi về. Tất nhiên các tấm séc được lập theo sổ điểm danh. “Giọng người Đen cao lớn bỗng chua chát. “Huấn luyện viên trưởng và nữ thư ký là hai đứa thật đẹp đôi. Hai tên bất lương gian dối, điêu toa, trộm cắp, báo hại những người chúng được giao cho giúp đỡ.
- Tôi bắt đầu hiểu, Brett thầm thì. Ít ra trên những nét lớn. Anh làm ơn nói rõ thêm.
- Rất đơn giản. Trong tám tuần học, thể nào chẳng có người bỏ. Như tôi nói ban nãy, chúng tôi đã dự kiến rồi, các phụ tá của tôi cố đưa các con chiên lạc trở về. Tất nhiên với điều kiện chúng tôi được báo. Khốn nỗi tên huấn luyện viên và tên thư ký kia không báo cáo mà vẫn chấm công những người vắng mặt trên sổ điểm danh. Thế là chúng vẫn tiếp tục nhận được séc trả công mấy thằng cha đó - và anh thừa hiểu chúng giữ lấy séc.
- Séc ghi danh, Brett cãi, chúng làm sao lĩnh tiền?
- Vẫn được. Sau ít lâu chúng báo cho ban kế toán biết có người này người nọ không đến làm nữa. Ban kế toán lập tức ngưng trả công những người này. Lúc đó huấn luyện viên mang séc đã để riêng ra, đến gặp những thằng cha có tên trên đó - dễ thôi vì địa chỉ có ghi trong phiếu. Hắn bịa ra đủ thứ chuyện về những thủ tục hành chính rắc rối đến nực cười, dẫn dắt thằng cha đến chỗ ghi chuyển vào lưng tấm séc, có khi nhiều tấm. Sau đó hắn rút tiền ở chỗ nào chả được. Tôi biết mánh khóe của chúng là như vậy - tôi đã bám theo huấn luyện viên suốt một buổi chiều.
- Nhưng nếu sau đó, nhân viên cứu trợ xã hội của anh tới gặp thằng cha để kéo hắn về - làm gì chả lật tẩy được bọn nó?
- Không nhất thiết. Xin đừng quên là chúng tôi dính vào những kẻ nửa bụi đời, đa nghi và thờ ơ. Những kẻ chỉ trả lời ở mức tối thiểu, có khi còn chẳng thèm nói câu nào. Tôi còn nghi tên huấn luyện viên đã phân phát vài phong bì. Chưa có bằng cớ, nhưng đã ngửi thấy mùi. Trong chuyện này, tất cả đều có mùi - có thể nói hẳn ra là thối hoắc!
Thế mà mình lại đi phàn nàn về những rắc rối cỏn con trong ngày, Brett nghĩ thầm. So với những cái này, thật là nhỏ mọn, vô nghĩa.
“Tự anh khám phá ra chuyện này?” Brett hỏi.
- Về cơ bản, vâng, chính tôi. Nhưng người đầu tiên đánh hơi thấy sự bất thường là một phụ tá: anh ta nhận thấy các lớp học nghề có một tỉ lệ người tham gia đều đặn cao khác thường. Quá tốt đẹp để là sự thật. Anh ta đến báo cho tôi, chúng tôi tiến hành một số cuộc kiểm tra - sau đó chỉ cần quan sát, rình bắt. Chúng tôi đã làm đúng như thế.
- Bây giờ sẽ như thế nào?
Wingate nhún vai:
“Bây giờ, ban An ninh Nội bộ lo chuyện này: trên danh nghĩa chính thức, vụ việc không còn thuộc chức trách của tôi. Chiều nay họ đã thẩm vấn huấn luyện viên trưởng và nữ thư ký, riêng từng người. Cả hai đều chịu khai, thú nhận tất - huấn luyện viên còn khóc nữa, hê, vâng… khóc!
- Hãng sẽ đệ đơn kiện, tôi chắc vậy
- Hai tên vô lại đang lo thế. Với tôi, điều đó sẽ làm tôi ngạc nhiên. “Anh Đen cao lớn đứng lên: anh hơn hẳn Brett một cái đầu. Giọng anh cay độc “Anh hiểu chứ: làm thế sẽ có hại đến hình ảnh tuyệt vời của chúng tôi. Báo chí sẽ làm rùm beng - tốt hơn hết là bịt kín vụ bê bối. Dù thế nào đi nữa, cái chính đối với các vị cấp trên của tôi là lấy lại tiền: tất cả phải lên đến hàng nghìn đô la.
- Phải kể thêm: những người đáng lẽ kéo được về, đáng lẽ anh có thể thuyết phục trở lại làm việc.
- Nào, nào! Anh trở nên đa cảm sao đấy?… cố nhiên nếu tôi có gấp mười lần số nhân viên hiện nay, nếu tôi biết chỗ tìm ra bọn họ sau bao nhiêu tuần mất hút, nếu … Tóm lại, chúng tôi làm tất cả những gì có thể làm được. Không nhiều nhặn gì chắc thế.
- Rất thông cảm với anh, Brett thì thầm. Tôi thành thực nói vậy. À… anh có vợ chưa?
- Rồi, nhưng cái ấy chẳng có nghĩa gì, hoặc gần như thế.
- Vậy thì… cô bạn tôi chắc đang sửa soạn bữa tối ở nhà. Mời anh… Có gì ăn nấy, không bầy vẽ.
Wingate không để phải nài lâu - chỉ vừa đủ thời gian để tỏ ra lịch thiệp.
Barbara Zaleski có chìa khóa riêng. Lúc hai người đàn ông bước vào nhà, cô đang ở dưới bếp sực nức mùi thơm thịt cừu quay.
“Hê, đầu bếp! Brett gọi to. Lại đây em - chúng mình có khách!”
Cô gái hiện ra, choàng tấm tạp đề trắng bé tí bên ngoài chiếc áo đan cô đã mặc ở phòng làm việc, - chi nhánh địa phương của Công ty OJL Tấm áo làm nổi rõ thân hình cô gái: Brett cảm thấy Leonard Wingate cũng nhận thấy rõ như anh. Như mọi khi, Barbara gài cặp kính mát trên đầu, giữa mái tóc dầy màu hạt dẻ. Cô quên không bỏ xuống, Brett gỡ ra và ôm hôn.
Giới thiệu xong, Brett tuyên bố:
“Barbara là người yêu của tôi…”
- Anh ấy muốn được như thế lắm, cô cắt ngang, nhưng chưa đạt. Vì vậy mỗi khi có dịp anh ấy lại dựng lên như thế để trả thù.
Vừa nói chuyện họ vừa uống hết chai Dom Perignon. Thỉnh thoảng Barbara biến vào bếp canh chừng món ăn. Trong một lần cô vắng mặt chốc lát như thế Wingate hỏi Brett có hay làm việc ở nhà không.
“Có thể nói là nhiều. Kia kìa, cánh cửa khép hờ kia là “tháp ngà” của tôi. Khi nào thấy cần tập trung đầu óc vào công việc tôi chui vào đó. Còn hơn ở Trung tâm Thiết kế mĩ thuật, một thứ Tadj Mahall hiện đại.”
- Anh ấy không phải chỉ làm cho hãng đâu. Để cho anh Leonard xem.
Gian phòng được bố trí thành xưởng. Dưới nền nhà, trong gầm chiếc bàn vẽ, la liệt những bản vẽ cùng một thứ - chiếc parơsốc đằng sau hết sức hào nhoáng - qua các công đoạn khác nhau. Một bản, chắc là bản cuối cùng trong tập, ghim trên tấm gỗ bần.
“Chắc là mẫu cuối cùng?” Wingate hỏi.
- Chưa đâu! Anh hiểu không, ta có vài ba ý, ta bắt đầu vui đùa với chúng được đến một lúc nào đó sẽ phải quăng chúng đi. Cũng có bận tìm được giữa mớ bòng bong ấy con đường dẫn tới kết quả mong đợi. Nhưng không phải lần nào cũng thế. Anh giật bản vẽ ở tấm bần vò nhàu. “Nếu anh gom tất cả các bản vẽ được nặn ra trước khi kiểu xe mới thực sự chào đời, anh có đủ giấy chất đầy căn phòng lớn của tòa án thành phố.”
Barbara bật chiếc đèn pha đặt trong góc phòng trước cái giá phủ vải. Cô cẩn thận tháo tấm vải từng đoạn.
“Còn cái này nữa, cô nói vẻ nghiêm trang. Không phải để vứt đi như những bản vẽ kia.”
Đó là một bức tranh gần hoàn thành, vẽ một đống tướng những phụ tùng, bộ phận, thành phần của xe. Brett đặt trên tấm ván rộng một số những vết tích xe hơi tìm thấy ở chỗ người thu nhặt sắt vụn: bugi cháy, trục cam gãy, can đựng dầu thủng, ruột bộ chế hòa khí, chụp đèn pha bẹp, nắm cửa, mảnh két nước, tay quay nứt, mớ đai ốc, đinh bu lông rỉ. Trên đỉnh, cắm xiên vào mảnh bình điện một vòng lái thiếu núm còi.
Tóm lại, một tập thô kệch, xấu xí nhất đời có thể tưởng tượng được. Vậy mà nhờ ngọn bút của Brett, cái đống phế liệu này bỗng sống dậy, khoác một vẻ đẹp gồ ghề pha lẫn nỗi buồn luyến tiếc não nùng. Bức tranh như nói lên: hãy ngắm nhìn những di vật này, chúng đã cũ mòn đến trở thành vô dụng, chỉ có tương lai duy nhất là sự phân hủy cuối cùng. Nhưng đã có một thời mỗi thứ đều có ích, đều có cuộc sống riêng, mỗi thứ là một phần của một mơ ước, một tham vọng, một thành công. Ngắm tranh, ta thấy trước rằng mọi nỗ lực trong hiện tại và trong tương lai, không tên tuổi hay được ca ngợi, sớm muộn đều kết thúc ở bãi rác công cộng. Nhưng bản thân sự nỗ lực, ý chí dám làm, tự nó không đủ cho chính nó rồi sao?
“Tôi có một vài tri thức sơ sài về hội họa, Wingate nói. Tranh vẽ của anh tốt đấy. Có thế nói là rất đáng chú ý.”
- Đó cũng là điều tôi nhắc đi nhắc lại đến muốn chết. Để cho anh ấy…
Cô phủ tấm tranh, tắt đèn pha. Họ trở về phòng lớn.
“Điều Barbara định nói, Brett càu nhàu, đó là: tôi đã bán linh hồn lấy một đĩa hạt đậu lăng.”
Anh đưa mắt nhìn khắp lượt căn phòng bài trí hiện đại, xa hoa đúng cách. “Dù đĩa đậu thực ra cũng khá ngon lành.”
- Brett có thể vừa vẽ kiểu vừa làm hội họa, Barbara khẳng định. Không may anh ấy thành công quá lớn trong việc vẽ kiểu thành ra không còn thì giờ vẽ tranh. Thỉnh thoảng bôi bác một tí, khi có cơ hội - với cái tài của anh ấy, thật thảm hại.
Brett cười thoải mái:
- Barbara chưa bao giờ thừa nhận rằng vẽ kiểu xe hơi cũng là một hoạt động sáng tạo như vẽ tranh. Cô ấy cũng không chịu công nhận xe hơi là niềm say mê lớn của tôi.
Anh nhớ lại câu đã nói với hai sinh viên thực tập mấy tuần trước: ở đây các bạn sống với xe từ sáng tới chiều, đến đêm lại ngủ với nó. Có phải đây là điều anh cảm thấy không? Có thể không mãnh liệt bằng khi mới tới. Detroit - hiện nay đôi khi anh tự vấn mình rằng không hiểu những người khác trong êkíp còn bị sự ám ảnh này đến mức nào: Thẳng thắn mà nói, có nhiều lý do thực tế khiến anh từ chối không chịu rời bỏ thế giới xe hơi. Ví dụ: tất cả những cái làm được với năm chục nghìn đôla một năm, chưa kể việc năm nay anh mới có hai mươi sáu tuổi và trong vài năm nữa anh sẽ còn đút túi được nhiều tiền hơn nữa. Vẫn tươi cười, anh quay sang Barbara:
“Nếu anh ở một túp lều ổ chuột, nếu người anh hôi mùi nhựa thông, em vẫn đến nấu ăn chứ?”
Cô nhìn vào mắt anh:
“Anh thừa biết: em cứ đến.”
Trong bữa ăn - đúng với hứa hẹn của những mùi thơm ngửi thấy ban nãy - Brett hướng câu chuyện vào vụ tống tiền qua các tấm séc Wingate vừa kế. Barbara tức giận đặt thẳng câu hỏi mà Brett DeLosanto không dám nêu:
“Tên huấn luyện viên trưởng và mụ thư ký là người da màu?”
- Tôi không thấy có gì khác nhau… Wingate cau mày.
- Anh biết rằng điều đó có khác nhau xa, Brett cắt ngang.
- Tất nhiên… Vậy thì… Không, họ đều là da trắng. Thì sao?
- Nếu là da đen, Barbara tư lự, vẫn có thể…
- Vẫn có thể, nhưng không chắc chắn đã xảy ra, Wingate dằn giọng. Anh ngừng lời, vẻ lúng túng… Tôi là khách của các bạn, vì thế…
- Thôi đi, Brett nói, trò ấy không ăn đâu.
Đã thế… Tôi ưa mọi thứ phải rõ ràng ngay trong bạn thân với nhau. Vậy, các bạn đừng để cái mã ngoài của tôi nó phỉnh: bộ đồ hoàng tử xứ Gal, bằng tốt nghiệp một trường nổi tiếng, địa vị xuất sắc. Tóm lại, tôi diện một bộ đồng phục đẹp. Và thế là tôi đóng vai thằng “Đen-làm-nhân-chứng-vô- tội”, cái thằng nhờ đó người ta khẳng định: một thằng Đen vẫn đi được rất xa. Trong trường hợp của tôi, kể cũng đúng thật, vì tôi là một trong những thằng hiếm có biết tìm chọn ông bố đẻ - một ông bố gatô rất mực nuông chiều tôi, lại có điều kiện cho tôi ăn học đến nơi đến chốn. Mà phải có một hành trang kha khá người da màu mới leo cao được. Đúng, tôi đã leo cao, cộng thêm chút may mắn tôi sẽ còn lên cao hơn, đến được chiếc ghế giám đốc. Dù sao tôi còn chưa già mấy, và cũng không thiếu tham vọng. Tôi biết rằng nếu tôi tranh giành chức vụ nào đó với một người trắng, và nếu người ta thấy tôi xứng đáng hơn, nhất định họ sẽ bổ nhiệm tôi. Nói tóm lại các con súc sắc đã được sửa thành súc sắc gian, có lợi cho tôi, vì thời thế muốn như vậy. Ban Quan hệ Đối ngoại vui sướng vì có thể hét to: Nhìn đây, chúng tôi có một người Đen trong hội đồng quản trị!”
Anh dừng lời, uống ngụm cà phê.
“Vậy nên, như tôi nói ban nãy: đừng bị cái mã bên ngoài lừa phỉnh: tôi vẫn thuộc về chủng tộc của tôi.”
Đột nhiên anh ta đặt tách, nhìn Barbara và Brett bằng cái nhìn nặng nề:
“Khi xảy ra chuyện như vậy, chuyện ngày hôm nay, không những tôi chỉ giản đơn bị bực tức: tôi phát điên phát dại lên, tôi sôi lên, tôi căm thù tất cả cái gì trắng!”
Mặt anh dịu xuống, Anh cầm tách - bàn tay vẫn còn run. Sau một phút anh nói tiếp:
“James Baldwin[7] viết câu này: “không bao giờ một người Mỹ dám đối xử với con chó hoặc con mèo của anh ta như đối xử với người Đen”. Hôm nay vẫn còn như thế, đúng vậy, ở Detroit và ở mọi nơi. Dù mấy năm nay có tiến bộ, thái độ số đông người Trắng căn bản không thay đổi. Ngay đôi chút việc làm nhằm gây ý thức tốt cho người Trắng - ví dụ chương trình tuyển mộ tận đáy - cũng là một phương thuốc vô hiệu. Trong lúc đó trường học, nhà ở, bệnh viện, vẫn mãi mãi ở vào tình trạng tồi tàn đến mức thực sự không thể tưởng tượng được. Chỉ những người da màu không coi tình trạng đó là chuyện lạ lùng, vì họ đã quen với cái thực tế không thể tưởng tượng được ấy. Một bài học nghiệt ngã học bằng kinh nghiệm xương máu của chính mình. Cho nên nếu ngành công nghiệp xe hơi muốn tiếp tục tồn tại, ở Detroit, nó sẽ buộc phải đương đầu với vấn đề này. Chỉ những nhà kỹ nghệ lớn ấy mới có khả năng cải thiện điều kiện sống của cộng đồng người Đen: không ai khác có đủ phương tiện tài chính và các kiến thức cần thiết. Vậy thì các vị hãy can thiệp đi, nhưng, xin nói riêng với nhau, tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu họ nhúc nhích.”
- Tóm lại, Barbara thì thầm, theo anh thì không còn hi vọng gì?
- Vẫn có thể cứ hi vọng. Nói cho cùng hi vọng chẳng tốn tiền. Miễn là đừng tự ru mình bằng ảo tưởng.
- Dù sao, xin cảm ơn sự thành thực của anh. Quá nhiều người lẩn trốn trong thói đạo đức giả - tôi đã rút được kinh nghiệm đau đớn ấy.
- Thôi, có lẽ em nên nói với Leonard về chức vụ mới của em, Brett gợi ý.
- Vâng. Tôi làm ở một công ty quảng cáo lớn, đúng cái nơi quản lý kinh phí của hãng anh - anh và Brett. Và sắp dựng bộ phim cho hãng các anh. Phim tư liệu, trung thực, khách quan, quay những phường nghèo ở trung tâm Detroit.
Wingate ngẩng đầu lên. Rõ ràng dự án này lôi cuốn anh.
“Tôi nghe nói đến nó lần đầu cách đây sáu tuần, Barbara thêm. Ở New York, trong phòng làm việc của Yates-Brown, ông chủ thân mến của tôi.”
Một ngày sau buổi trình bày không kết quả bản kế hoạch “rì rào” dành cho Orion.
Đúng như Teddy Osch đã dự đoán, Keith Yates-Brown chánh thanh tra Ngân sách triệu tập Barbara Zaleski tới phòng làm việc rất đẹp của ông trên lầu thượng Công ty.
Hôm trước ông ta đóng vai một nhân vật tươi cười, rất lịch sự nhưng bữa nay con người cao lớn này tỏ vẻ rầu rĩ khác thường. Và già hơn, tóc tai da dẻ xám hơn. Nhiều lần, nhất là vào cuối buổi nói chuyện, ông quay người ra cửa sổ, phóng tầm mắt qua các tòa nhà chọc trời của Manhattan nhìn về phía eo biển Long Island, dường như một phần suy tư của ông đang ở nơi xa ấy. Có lẽ việc phải thường xuyên tỏ ra niềm nở với khách hàng khiến thần kinh bị căng thẳng nên phải xen kẽ những lúc u buồn để đầu óc được thảnh thơi.
Dù thế nào đi nữa, tâm trạng bực bội của Yates-Brown bộc lộ ngay sau lúc ông mấp máy đầu lưỡi trả lời câu “Chào ông” của Barbara.
“Bữa qua cô tỏ ra xấc xược với khách hàng. Cô biết tính tôi rất ghét thói trâng tráo đó. Bài học đầu tiên người ta dạy cô ở đây là nghệ thuật tự kiềm chế, hơn nữa đôi khi còn phải biết nuốt chửng những lời đôi co.”
- Tôi hoàn toàn đồng ý. Lúc này tôi đang nuốt chửng đây ạ.
Ông ta có đủ thông minh để mỉm cười. Thoáng qua.
“Trước đây tôi tưởng cô là người có ý tứ, biết suy xét - và có đầu óc tưởng tượng, tất nhiên - nên mới đề cử cô phụ trách đề án này. Tôi vẫn giữ đề nghị ấy tuy trong cuộc họp bữa qua cô đã quá lời, điều tôi muốn coi chỉ là sai sót nhất thời… (Cha già ôi, đừng xổ bài thuyết giáo ra nữa, định nói gì thì nói ngay đi! Mình lại sắp phải nuốt cái gì đây không biết. Đúng là ngày đen đủi).”
- Tôi có thể nói rằng ngài chủ tịch hội đồng quản trị hãng khách hàng của chúng ta đích thân chú ý đến đề án này…
Ông nói mấy từ “chủ tịch hội đồng quản trị” vui vẻ kính cẩn nhuốm màu sợ hãi, Barbara tưởng chừng ông ta sắp chồm đậy đứng nghiêm.
“Do dó, cô có trách nhiệm - một trách nhiệm khá lớn đè nặng lên tất cả chúng ta ở OJL - tự tay đệ trình các báo cáo định kì lên ngài chủ tịch hội đồng quản trị.”
Tất nhiên - bởi vì vị chủ tịch ấy có toàn quyền lựa chọn, với thiện ý hoặc do tắc trách, nơi hãng cấp kinh phí quảng cáo, nên Barbara dễ dàng hình dung cảnh Yates-Brown và đồng bọn đứng run sợ trong hành lang lúc cô đương đầu với bạo chúa.
“Nội dung đề án là một bộ phim”
Ông tiếp tục đưa ra những chi tiết đã định sẵn. Chủ đề phim: Detroit, các khu phố nghèo ở trung tâm, dân chúng và những nỗi băn khoăn của họ - vấn đề chủng tộc cùng các vấn đề khác, cách sống, quan điểm và nhu cầu của họ. Một bộ phim tư liệu, chân thực, không tô vẽ. Không phải là công cụ tuyên truyền cho hãng, tên hãng chỉ được xuất hiện có một lần ở phần giới thiệu mở đầu bộ phim, với tư cách người hùn vốn. Bộ phim dành chủ yếu cho các tổ chức xã hội và giáo dục cùng các trường học. Sẽ chiếu nó trên truyền hình. Nếu phim hay nó có thể được chiếu trong các rạp.
Barbara với cương vị đại diện OJL sẽ điều hành toàn bộ công việc.
Cô được giao những khoản kinh phí dồi dào. Hãng sẽ tự chọn người sản xuất phim, thuê một đạo diễn hàng đầu và người viết kịch bản nếu cần thiết - hãng hi vọng Barbara dày dạn kinh nghiệm làm biên tập viên quảng cáo sẽ tự mình viết kịch bản.
“Do cô quyết định.”
Barbara ngồi nghe, càng lúc càng vui mừng hưng phấn. Bữa ăn sáng qua, rõ ràng Teddy Osch không cường điệu chút nào khi tuyên bố: “Tôi sẵn sàng trả giá đắt để được ở vào địa vị cô”. Bây giờ cô mới hiểu. Sự bổ nhiệm mới này không những là một sự tưởng lệ mà còn là một thách thức đối với cô. Đến nỗi chính cô cũng ngạc nhiên thấy mình bỗng dưng trở nên, đúng thế, độ lượng với Yates-Brown.
“Như thường lệ, sở chỉ huy của cô đặt tại phòng làm việc ở Detroit. Tất nhiên cô phải báo cáo cho chúng tôi biết đầy đủ tình hình - tôi nhấn mạnh: đầy đủ tình hình. Điểm cuối cùng, như lúc vào đầu cuộc nói chuyện tôi đã dặn: cô phải có ý tứ. Bộ phim đương nhiên phải vô tư nhưng tôi sẽ không ngạc nhiên nếu ngài chủ tịch hội đồng quản trị hãng khách hàng của ta đòi hỏi… hừm… tóm lại, ngài đòi hỏi một tác phẩm có khuynh hướng, nghĩa là thiên về mặt xã hội.”
Lại một món phải nuốt chửng, cô gái nghĩ thầm. Dù sao, tranh cãi ngay lúc này về những tư tưởng trừu tượng thật chẳng có tác dụng gì, sau này chắc sẽ còn phải bảo vệ nhiều ý tưởng.
Tám ngày sau, hoàn tất công việc bàn giao sổ sách cho bạn đồng nghiệp, cô bắt đầu lao vào đề án làm bộ phim được đặt tên (tạm thời) là THÀNH PHỐ XE HƠI…
… Cuộc trò chuyện tiếp tục trong phòng lớn nhà Brett DeLosanto.
“Mới bắt đầu cả thôi, Barbara kể. Bọn em đã nhất trí với một hãng sản xuất phim, thuê được một tay đạo diễn. Nếu trôi chảy sẽ quay thước phim đầu tiên vào tháng hai, chậm nhất tháng ba.”
Gã Đen cao lớn tóc hoa râm suy nghĩ rất lâu rồi trả lời:
“Nếu là một tên vô liêm sỉ, tôi sẽ nói rằng: khi có vấn đề đặt ra mà ta chỉ làm một cuốn phim về nó chứ không tìm cách giải quyết thì có khác gì Nêrôn ngồi gảy đàn “lia” trong lúc Rôma vẫn cháy. Tuy nhiên, qua công việc tôi cũng nghiệm ra rằng thông tin có vai trò quan trọng. Cô làm một việc có ích đấy. Nếu giúp cô được chút nào, tôi rất vui mừng.”
- Anh có thể giúp được lắm. Wes Gropetti, tay đạo diễn đã đồng ý với tôi là cần trình bày các khía cạnh khác nhau của cuộc sống trong khu phố khốn khổ này qua hình ảnh những con người thật ở đó. Ví dụ, nếu tìm ra một anh chàng vừa được thụ hưởng ích lợi của chương trình tuyển mộ “tận đáy”.
- Tôi biết, Wingate nói. Xin lưu ý: trong khi thực hiện chương trình này chúng tôi vẫn có phế liệu. Đúng đấy, sẽ thú vị hơn… một cậu đã bỏ giở, đã thấy huấn luyện viên trưởng đến nhà, mang theo những tấm séc đòi ghi chuyển. Một chú bé sau đó tôi đã gặp và thuyết phục trở lại làm việc. Anh rút sổ tay, lật mấy tờ: “Tên là Rollie Knight”.
***
Khoảng mười một giờ đêm Brett đưa Barbara về. Gia đình Zaleski ở Royal Oak, khu nhà thuộc ngoại ô, không mấy lộng lẫy, phía đông nam Birmingham. Xe vừa rời trung tâm rẽ vào một đại lộ hơi tối, Brett càu nhàu: “Mình thật ngu!”, hãm xe dạt vào nấp dưới bóng cây. Rồi quay sang ghì chặt lấy Barbara.
Họ hôn nhau thật lâu, thật say mê. Mãi Brett mới lấy lại hơi thở nhưng vẫn ôm cô gái bên mình.
“Này em, hướng chúng mình đang đi có nghĩa lý gì? Phải quay lại thôi em ạ - anh xin em, hãy quay lại, ở với anh đêm nay. Ca hai đứa chúng mình đều muốn, và chẳng có gì làm chúng mình phải nhịn.”
Khỏng phải lần đầu Brett cầu xin. Vừa nãy, lúc Wingate ra về, anh cũng đã mở cuộc tiến công bắt đầu từ đã lâu.
“Khổ thân anh, cô gái thở dài. Em làm anh thất vọng ghê gớm, phải không anh? Anh thú thực đi nào.”
- Làm sao anh biết được là em làm anh thất vọng, vì em vẫn từ chối có để anh thưởng thức đâu?
Cô bật cười. Vào những lúc thật bất ngờ, Brett vẫn làm cô cười được. Cô giơ tay vuốt trán anh chàng, muốn xóa đi vẻ đau khổ chắc đang hiện trên nét mặt.
“Thật bất công! Anh phản đối. Mọi người đều tin chắc chúng mình nằm với nhau, chỉ có em và anh biết rằng không có chuyện đó. Có lẽ ngay bố em cũng nghĩ thế.”
- Vâng, em cho rằng bố cũng nghĩ thế.
- Anh thì tin chắc: mỗi lần chúng mình gặp nhau, ông già sắt đá lại tỏ ý không ưa mối quan hệ đó. Nhưng vì thực ra không có quan hệ ấy, thành ra anh đã thiệt đơn lại thiệt kép.
- Em biết, anh thương yêu, em biết mà!
- Thế em chờ đợi gì nữa nào, sao không quyết ngay bây giờ đi? Barbara này, em đã hai mươi chín rồi, chắc không còn là cô gái trinh nữa… Vậy cái gì cầm giữ em? Hay tại anh có mùi đất nặn, em thấy anh quá tầm thường quá xấu xí?
- Đừng có ngốc, cô nói dứt khoát. Anh hấp dẫn em về tất cả mọi mặt - em nói là về mọi mặt, em không hề giấu diếm điều đó. Em đã thú thật với anh bao nhiêu lần rồi…
- Và điều đó chẳng hề đưa chúng ta tới đâu hết chẳng đi đến đâu.
- Anh ngoan đi, Brett. Đưa em về nhà..
Xe lại lăn bánh, cô chạm khẽ tay anh.
“Chính em cũng thường tự nhủ: làm thế chẳng có nghĩa lý gì. Nhưng đêm nay em không thể xử sự như bao cô gái khác; ít ra em cũng chưa làm điều ấy. Một thái độ cổ lỗ, có lẽ…
- Tóm lại, em chỉ nằm lên giường anh với chiếc nhẫn cưới trên tay. Phải không?
- Không! Em không chắc đã thích lấy chồng. Nên nhớ rằng em là một cô gái đi làm và có những tham vọng nghề nghiệp. Còn anh, em biết anh không dễ đàng chui đầu vào thòng lọng.
Brett mỉm cười ranh mãnh:
“Về điểm này thì em đúng. Nhưng nếu đã thế, tại sao chúng mình không sống chung với nhau?”
- Có thể thế, cô đáp lại, mơ màng.
- Em nói nghiêm chỉnh chứ?
- Em cũng đang tự hỏi. Dù sao, em phải có thời gian cân nhắc trước khi quyết định. Cô do dự: “Anh Brett, nếu anh thích, chúng mình sẽ tạm xa nhau trong vài tuần, nếu mỗi lần gặp nhau anh lại bị thất vọng.”
- Chúng mình đã thử cách này rồi còn gì! Thử và thấy chẳng ăn thua, đơn giản là vì anh thấy thiếu em quá. Không, con nghẽo thân yêu của anh, chúng mình cứ tiếp tục như vừa qua, ngay dù có khi anh cư xử như con ngựa giống trong chuồng. Mấy lại, ngay em cũng thế, nhất định em không tài nào chịu được mãi.
Họ yên lặng vài ba phút. Barbara lên tiếng trước:
“Anh muốn giúp em đôi chút phải không? Vậy thì, hãy vẽ xong bức tranh đi. Bức ban nãy cho Leonard xem ấy.”
- Vẽ xong tranh? Anh ngạc nhiên nhắc lại. Em cho rằng nó sẽ thay đổi được cái gì giữa chúng mình?
- Có thể. Em cho rằng bức tranh là một phần của chính con người anh, một phần quan trọng cần làm bộc lộ ra ngoài.
- Như con sán chẳng hạn?
- Anh nói đùa không tế nhị. Anh biết không, theo em nghĩ, anh rất có tài năng. Leonard cũng nghĩ thế. Tài năng quá lớn thành ra lĩnh vực công nghiệp không thể tạo cho anh một dịp may xứng với tầm cỡ. Nếu anh cứ bám lấy việc vẽ kiểu xe…
- Thôi, thôi, anh bằng lòng. Bằng lòng vẽ xong bức tranh. Dù sao anh cũng có ý định ấy rồi. Này, em có biết những trở ngại người họa sĩ phải vượt qua để được nổi tiếng và thêm vào đó, để kiếm được tí tiền không?
Xe quặt vào con đường dẫn tới tòa nhà đơn sơ của bố con Barbara. Lọt thỏm cuối gara có chiếc xe hai chỗ màu xám.
“Ông bố em đã về, Brett nhận xét. Anh thấy em lạnh rồi.”
Matt Zaleski đang trong nhà kính liền với bếp, chăm sóc mấy dò phong lan. Cách mười tám năm, ông tậu chỗ ở này, dựng thêm ngăn nhà kính. Hồi đó, việc dọn từ xóm thợ ngoại thành vào khu dân cư ven đô này thể hiện một cách xác thực sự thăng tiến tài chính của ông, và nhất là sự thoát ra vĩnh viễn khỏi khung cảnh quê hương, tức là khỏi một gia đình nghèo khổ người Ba Lan di cư. Ông hi vọng gian nhà kính trồng phong lan sẽ mang lại yên tĩnh và an ủi, giảm bớt cho ông sự căng thẳng quỉ quái của công việc phó giám đốc một nhà máy lớn. Niềm hi vọng ngày càng tỏ ra chỉ là ảo tưởng. Tuy Matt vẫn yêu thích vẻ đẹp tinh tế của phong lan nhưng vì khi về đến nhà ông vẫn còn thấy nỗi mệt nhọc ngày càng đè nặng thành ra việc phải chăm sóc hoa không còn là thú vui mà lại trở thành công việc khổ sai.
Chiều nay ông về muộn vì phải ở lại nhà máy tháo gỡ một số trục trặc trong việc cung ứng mấy thứ phụ tùng. Ăn xong mấy miếng qua quít ông sực nhớ phải bứng ngay một vài cây vào chậu một vài cây khác. Ông vừa chuyển ra chỗ thông thoáng một dò Masdevalia triangularis tuyệt đẹp, hoa có màu vàng tía rất lạ, thì nghe tiếng xe Brett. Lúc ông đang tưới thì hai người bước vào.
“Hi, chào bác Z!” Brett lên tiếng.
Zaleski vốn không thích gọi mình là “Z”, khẽ càu nhàu một lời đáp lại. Barbara hôn bố rồi xuống bếp làm món đồ uống nóng pha mạch nha mà hai người đàn ông rất thích.
“Tuyệt diệu!” Brett trầm trồ, cố ý ngắm nghía các dò phong lan đặt trên giá hoặc treo trong giỏ. Anh chỉ vào dò Catasetum saccatum trên mảnh vỏ cây: “Đẹp đến thế là cùng. Trông như cánh chim đang bay.”
Đằng sau cơn phẫn nộ của Matt, trước hết có sự mệt mỏi sau ngày lao động cật lực, và cả sự lo lắng sắp phải đương đầu với kế hoạch Orion. Vì nó không phải chỉ là một sự kiện.
Matt bất giác dịu hẳn đi:
“Tôi chưa bao giờ để ý, nhưng thật đúng như anh vừa nói: cánh hoa thế này, với nhị hoa cong lên trời tạo ra cảm giác hoa sắp bay đi thật.”
Brett vụng về suýt nữa là hỏng hết:
“Không có gì lủng củng trong nhà máy chứ, bác Z? Các cầu lăn của bác vẫn đứng vững?”
- Nó đứng vững, nhưng không phải nhờ ở kiểu cách điên loạn của những chiếc xe chúng tôi chế tạo.
- Quả tình, bác biết đấy: chúng cháu không ngại đưa các bậc lão thành lẩm cẩm như bác vào thử thách, chỉ cốt để các bác khỏi ngủ gật.
Quen thói bông lơn với bất cứ ai về bất cứ chuyện gì, Brett không biết rằng ông bố Barbara ghét lối pha trò nhả nhớt, tuy rất hồn nhiên ấy. Đến mức ông coi bạn con gái là một thằng ngốc tự cho mình là ranh ma.
Thấy Matt sa sầm nét mặt Brett vội vàng chữa:
“Ông sắp được đùa với Orion rồi đấy. Một thứ đồ chơi tự nó hình thành”.
. - Chẳng có cái quái gì tự nó hình thành! Matt gắt gỏng. Đó chính là điều những kẻ hay vỗ ngực các anh không muốn hiểu. Các anh kéo đến đây la liệt bằng cấp; các anh cho mình cái gì cũng biết, không có gì cản bước được các anh! Nhưng các anh nhầm to: chúng tôi đây này, những lão già lẩm cẩm này mới là những người làm nên cơ đồ…
mới mẻ mà là một đảo lộn gần như một tai biến. Nhà máy do ông làm chỉ huy phó sắp bị tháo tung, rồi lắp lại, tổ chức lại, đến mức chẳng còn cái gì hoạt động giống như trước đây nữa. Những vấn đề sản xuất mọi khi vốn đã khá gay cấn sắp trở thành những vấn đề khổng lồ được đặt ra liên tiếp trong mấy tháng liền. Matt sẽ phải đứng ở hàng đầu, bị buộc phải đồng thời có mặt ở khắp nơi, còng lưng vất vả suốt từ sáng đến tối, có khi còn lâu hơn: nhiều đêm chỉ mong được chợp mắt ba bốn tiếng đã lấy làm sướng. Ông đã cáng đáng ngoài ý muốn quá nhiều trận chiến đấu loại này và trận sắp tới - do sự xuất hiện của Orion mở màn, theo ông là thêm một trận quá sức mình.
Đột nhiên ông ngừng lời: ông chợt nhận thấy rằng thực ra ông vừa trút nỗi oán hận không phải với thằng oắt con lên mặt dạy đời Brett DeLosanto này (tuy ông không thể ưa được nó), mà chỉ đơn giản là muốn trút bỏ một gánh nặng ngày càng đè trĩu lên mình. Ông định tìm cách chống chế, rằng ông đã quá lời, thì bỗng Barbara xuất hiện trên bậc cửa nhà kính. Mặt cô tái nhợt:
“Bố, xin bố vui lòng xin lỗi anh Brett… Về những lời bố vừa nó…”
Brett định can thiệp nhưng Barbara kiên quyết:
“Bố phải xin lỗi, không thì con sẽ chia tay bố. Đi với Brett ngay lập tức. Con không nói đùa đâu.”
Matt biết con không đùa. Ông thấy bực, và choáng váng nữa… thử nghĩ xem, một đứa con gái dám nói với bố với giọng như thế, dám cư xử như một… tóm lại, như thế đấy! Freda vợ ông chắc không cho phép nó ăn nói thế. Nhưng Freda qua đời từ năm ngoái mất rồi và sau đó cuộc sống trong gia đình không được như trước. Đành chịu nhịn, ông lẩm bẩm một câu có thể coi là lời xin lỗi, đóng cửa nhà kính rồi lên gác nằm. Vài phút sau Brett cũng từ giã Barbara.