Chương 25
Rollie Knight gia nhập băng khua khoắng trong nhà máy hồi tháng hai. Ngay trong tuần gã thấy đốc công Frank Parkland ăn của đút. Đó cũng là sự việc khiến gã văng ra với May Lou vài bữa sau đó:
“Trong cái thế giới đáng nguyền rủa này chỉ có cứt thôi, toàn là cứt.”
Thoạt tiên gã có cảm tưởng chỉ dính líu sơ sơ vào chuyện mánh mung này. Bắt đầu bằng công việc nhận số và tiền cá cược hàng ngày vẫn diễn ra ở xưởng lắp ráp. Giao tiền, cuốn sổ màu vàng cho liên lạc viên Daddy-o để hắn chuyển về trung tâm, nơi tập hợp toàn bộ tiền đánh số nằm ở ngoại ô thành phố. Về sau, nghe được vài lời dị nghị bề ngoài có vẻ không quan trọng, gã bắt đầu bồn chồn lo lắng: mọi thứ đều chuyển đi bằng chiếc xe tải hàng.
Đốc công Frank Parkland không bao giờ nói năng gì khi gã đôi lần bỏ vị trí ở băng chuyền. Nếu gã chỉ kín đáo lủi đi chốc lát, Parkland lẳng lặng cử người khác đứng máy thay, quá lắm thì cảnh cáo qua loa vài câu lấy lệ. Rõ ràng đốc công vẫn tiếp tục nhận đút lót.
Về sau, Rollie làm môi giới cho Rollie tiếp tay bọn cho vay nặng lãi và bọn đầu cơ séc công thợ, hai hoạt động song song của băng.
Sở dĩ gã tham gia vì chính gã cũng đã vay nợ của chúng và dây dưa không trả được. Tiền công thoạt đầu tưởng là nhiều hóa ra không đủ trang trải các khoản chi của May Lou và bản thân gã. Thế là Rollie gạ gẫm bạn bè vay tiền của bọn cho vay còn gã đứng ra thu tiền trả nợ.
Những khoản vay nợ này dĩ nhiên phải chịu mức lãi cắt cổ. Người thợ đầu tuần vay hai mươi đô la, đến kì lương cuối tuần phải trả thành hai nhăm. Vậy mà, điều rất đáng ngạc nhiên là số người hỏi vay vẫn rất đông, số tiền vay rất lớn.
Đến kỳ lương, bọn chủ nợ (là nhân viên trong nhà máy, chẳng có gì phân biệt với những người khác) biến thành chuyên viên kế toán đi quơ séc trả công, nhận của những con nợ tự mang đến trả, rượt đuổi những người lần khân.
Số tiền ghi trên séc thường được qui tròn, chỗ lẻ thuộc về người đi thu nợ. Nếu tấm séc trị giá 100 đôla 99 xu, người thu nợ được hưởng 99 xu lẻ. Nhưng vẫn có tỷ lệ lãi tối thiểu được cố định là 25%. Vì vậy, người thu nợ có khi mang trong người những số tiền lớn, đôi khi tới 20.000 đôla tiền mặt. Khi đó anh ta thuê một số thợ làm vệ sĩ.
Người mắc nợ bao giờ cũng phải luôn nhớ đến việc trả nợ. Nếu không, anh ta sẽ bị gẫy một chân, hoặc một tay, hoặc còn hơn thế - và vẫn phải gánh y nguyên món nợ đó kèm theo lời hứa sẽ nhận được đòn trừng phạt mới nếu không trả nợ. Một vài kẻ may mắn như Rollie, còn được hưởng thêm khoản hoa hồng theo tỷ lệ tổng số tiền thu được. Dĩ nhiên, số gốc vẫn phải nộp đầy đủ.
Trong điều kiện như vậy, Rollie biến thành kẻ môi giới giữa chủ nợ và con nợ, nhất là vào kỳ lương. Nhưng mặc dù các hoạt động ấy, gã vẫn thường xuyên cạn túi.
Sang tháng sáu, gã bắt đầu buôn ma túy.
Thực ra, Rollie không muốn. Càng dính líu sâu, càng thấy trái với ý muốn của mình. Hơn nữa - đây là cơn ác mộng bám riết gã - gã có nguy cơ bị bắt và quay lại nhà tù với bản án rất nặng. Những người khác không có lý lịch tư pháp ít bị đe dọa hơn gã tuy họ làm ăn bất hợp pháp chẳng kém gì. Nếu bị, họ là những người phạm tội lần đầu, khác với Rollie. Chính đó là điều khiến gã bồn chồn lo lắng trong đêm tháng sáu có Gropetti đến quay đoạn phim dài trong căn phòng hắn ở chung với May Lou. Lúc ấy Leonard Wingate đã cảm nhận nỗi lo dai dẳng của Rollie, nhưng chưa có dịp bàn đến.
Rollie thấy rất rõ: vào băng thì dễ, nhưng ra thì khó. Big Rufe đã nhận thấy vẻ ngần ngại trên mặt Rollie khi nhận lệnh tham gia băng chuyên bán marijuana và LSD trong các xưởng.
“Tớ không thèm nhặt mảnh vụn của chiếc gatô, Rollie trả lời dứt khoát. Cậu đi tìm người khác.”
Hai người nấp sau dãy thùng, tranh cãi với nhau, Big Rufe ra mặt dọa nạt:
“Cậu thở ra mùi khiếp sợ!”
- Có lẽ.
- Ông chủ không ưa gà mái ướt lông. Chúng làm ông cáu. Rollie biết: khôn hồn thì đừng có hỏi ông chủ là ai, nhất định phải có một ai đó. Chắc không ở trong nhà máy.
Một tối kia giao hàng xong gã ở lại nhà máy cùng với năm sáu người nữa. Còn sớm mới đến giờ hẹn cuộc gặp gỡ bí mật. Trước đó lúc đang chấm công, có chiếc xe tải xịch tới, bọn họ bốc chỗ thùng, hộp để sẵn ở đó lên xe. Rollie biết chắc đây toàn là đồ mới: máy thu thanh, các thiết bị của máy lạnh. Có cả mấy thùng gỗ nặng, xem kí hiệu biết đấy là những bộ phận truyền lực. Phải dùng cẩu đưa lên xe.
Xe thứ nhất vừa chạy đi, chiếc thứ hai tới ngay. Bốc xếp tất cả trong ba giờ. Công việc tiến hành sau giờ tắt đèn, ở một khu ban đêm rất vắng vẻ trong nhà máy. Mặc dầu vậy tất cả các ngọn đèn đều sáng choang, xếp gần xong Big Rufe lo lắng nhìn quanh, thúc giục cả bọn nhanh tay.
Rollie được lĩnh hai trăm đôla tiền công ba giờ bốc hàng lên xe, số hàng rõ ràng là hàng ăn cắp. Một mẻ lưới khá nặng cân. Đằng sau băng này, nhất định phải là một tổ chức chặt chẽ, có qui mô rộng khắp? Chúng vung tiền mua chuộc để đưa xe tải ra vào nhà máy. Sau này Rollie được biết: nhiều cửa hiệu ở Detroit, ở Cleveland có bán các bộ phận truyền lực với giá rất rẻ.
“Cậu biết quá nhiều nên chắc đầu nặng chịch rồi”, Big Rufe bảo gã lúc đứng sau dãy thùng. Hắn nói thêm “Ông chủ giận vì chuyện đó. Vì ông thấy cậu không thích đi với bọn tớ. Có khi ông đang cho sửa soạn một cuộc vui ở bãi đậu xe.”
Rollie hiểu ý nghĩa lời nhắn nhủ đó. Ở bãi đậu xe đã xảy ra nhiều vụ ẩu đả, nhiều chân tay bị què cụt đến nỗi trật tự viên phải đi qua bãi từng tốp hai người một. Mới đêm qua, một gã thanh niên Đen vừa bị trấn lột. Trận đánh nhau kịch liệt đến nỗi anh thanh niên sống dở chết dở phải vào nằm bệnh viện.
Rollie rùng mình khiếp sợ.
Big Rufe khạc nhổ toẹt xuống đất.
“Úi chà chà, anh bạn ơi, ở địa vị cậu tớ sẽ cân nhắc!”
Cuối cùng Rollie đi bán ma túy, một phần vì nghe lời hứa hẹn của Big Rufe, phần khác do gã đang rất túng tiền. Lệnh khấu trừ tiền công tháng sáu, kế hoạch chi tiêu tằn tiện do Leonard Wingate đề ra làm gã và May Lou chỉ còn đủ sống chật vật với số tiền còn lại, không còn dư để Rollie trả nợ.
Chuyện buôn bán ma túy không gặp trục trặc gì, khiến Rollie có lúc tự hỏi phải chăng gã lo lắng không đâu. Gã mừng chỉ nhúng tay vào chuyện buôn bán marijuana và LSD, vì nếu đụng đến hêrôin thì nguy hiểm hơn nhiều. Trong nhà máy có ngựa[16] chạy, gã biết trong công nhân có người dùng. Nhưng không thể tin vào họ, nếu bị bắt họ sẽ phun ngay ra người bán.
Marihuana là chuyện khác. FBI và cảnh sát địa phương đã bí mật báo cho các giám đốc nhà máy rằng họ sẽ nhắm mắt làm ngơ nếu việc chuyên chở marijuana không vượt quá nửa kí mỗi chuyến. Lý do rất đơn giản: họ không đủ nhân viên để kiểm soát. Tin đó lộ ra, Rollie và các tay khác luôn chú ý chỉ mang vào nhà máy từng lượng nhỏ.
Bệnh nghiền marijuana lan rộng đến mức làm Rollie cũng sửng sốt: quá nửa số công nhân làm việc xung quanh gã hút đều đặn mỗi ngày hai đến ba điếu “kèm”[17]; nhiều người quả quyết: nhờ ma túy mà họ đứng vững.
“Rõ khốn khổ, một gã vẫn nhận thuốc của Rollie tuồn cho đều đều nói, nếu không đi mây về gió tí chút, làm sao chịu nổi nhịp độ chết người này!” Gã thú thật: chỉ cần một nửa “kèm” là có thể chịu đòn suốt mấy tiếng liền.
Một bữa khác Rollie nghe một công nhân trả lời người đốc công khuyên nên coi chừng marijuana:
“Nếu anh tống ra cửa tất cả những thằng nghiện hút, thì đóng cửa nhà máy luôn thể.”
Buôn ma túy còn giúp Rollie thoát khỏi tay bọn tàn bạo chuyên phe séc tiền công. Bây giờ gã có thể bớt ra đôi chút để bản thân gã cũng được xài ma túy. Gã thấy đúng là được đi mây về gió, đứng băng chuyền dễ dàng hơn. Năng suất vẫn không bị ảnh hưởng.
Rollie cố gắng làm việc sao cho vừa lòng Frank Parkland, tuy vẫn dành một ít thì giờ tham gia các hoạt động chợ đen.
Là thợ mới, gã được nghỉ hai tuần trong số bốn tuần nhà máy ngưng việc đề thích nghi với yêu cầu sản xuất Orion. Gã trở lại làm việc khi những chiếc Orion đợt đầu xuất hiện trên dây chuyền lắp ráp.
Gã rất mê kiểu xe mới. Ngay sau ngày đầu trở lại làm việc, khi tan ca về nhà gã khoe với May Lou:
“Chà chà, bánh xe của nó đẹp đến nỗi làm mình cửng lên.” Gã vui nhộn đến mức nói thêm:
“Em có muốn tranh thủ dịp tốt này một cái không?”
May Lou bật cười, cô nàng chẳng đòi hỏi gì hơn!
Tuy nhiên, trong lúc “ấy” Rollie vẫn cứ nghĩ đến những chiếc bánh xe kì lạ nọ, đến khả năng gã có chiếc Orion của gã.
Mọi việc đều trôi chảy, một thời gian Rollie gần như quên đi câu tín điều: Không có gì bền lâu.
Bền được đến hết tháng tám. Đến lúc này gã lại có dịp nhớ đến câu tín điều ấy.
Daddy-o mang đến lời nhắn của Big Rufe trong lúc gã đang ở vị trí sản xuất. Đêm hôm sau bọn chúng sẽ hành động. Gã phải ở lại trong nhà máy sau khi tan ca, ngày hôm sau. Rồi sẽ có thêm chỉ dẫn.
Rollie bực dọc bảo Daddy-o.
“Để tớ ghi vào sổ, người ạ!”
- Cậu láu cá lắm, Daddy-o đập lại, đừng có làm tớ nhỡ tàu. Cậu phải đến đấy!
Rollie biết mình sẽ đến. Sau chuyến kiếm được hai trăm đôla quá dễ dàng, hi vọng lần này chắc cũng thế. Nhưng hôm sau, trước lúc tan ca nửa giờ gã nhận được những chỉ thị khác hẳn với điều gã chờ đợi. Rollie (Daddy-o truyền lại cho gã như vậy) phải nấn ná ở băng chuyền rồi ở lại trong khu vực đó cho đến lúc ca đêm bắt đầu làm việc. Khi ấy gã sẽ vào phòng thay quần áo kiêm phòng tắm nhập bọn với Daddy-o, Big Rufe và những tên khác.
Vì thế khi còi tan tầm nổi lên, Rollie không hòa vào dòng người ùa như điên ra cổng mà lững thững đến chỗ máy bán hàng tự động mua chai Côca. Mất nhiều thì giờ hơn mọi bận vì máy hỏng. Hai nhân viên của công ty đại lý đến lấy hết tiền đi. Rollie nhìn rõ những đồng tiền trắng bạc chảy như nước xuống bao vải thô. Cuối cùng gã cũng tìm ra chiếc máy còn hoạt động, mua chai nước, láng cháng vài phút nữa rồi đi vào phòng thay quần áo của nhân viên.
Chỗ này thật kinh khiếp. Nền ximăng ẩm ướt khăn khẳn mùi nước đái. Một dãy bồn đá to - máng uống - xây giữa phòng. To đến nỗi cùng một lúc hàng tá công nhân có thể rửa ráy thoải mái. Khoảng còn lại lủng củng những tủ hốc tường, rãnh đái, buồng tắm cửa rả tan hoang…
Rollie rửa mặt mũi chân tay trong máng, lau bằng khăn giấy. Lúc này chỉ có mình gã trong phòng. Thợ ca đêm sắp kéo đến.
Một cánh cửa chính bật mở. Big Rufe bước vào, thân hình đẫy đà nhưng bước chân rất nhẹ. Vẻ dữ tợn, hắn nhìn đồng hồ đeo tay. Bắp thịt gân guốc hằn rõ dưới tay áo sơ mi xắn cao. Thấy Rollie đi tới, hắn ra hiệu bảo im lặng. Vài giây sau, Daddy-o cũng bước vào qua cái cửa ấy. Gã thanh niên Đen thở hồng hộc như vừa mới chạy, mồ hôi ròng ròng trên trán, trên vết sẹo vạch ngang mặt.
Big Rufe bảo gã, giọng trách mắng:
“Đã bảo phải nhanh nhảu cơ mà!”
- Nhanh đấy chứ! Bọn nó đến chậm. Có trục trặc. Hình như gặp khó khăn, chúng bị vướng lâu.
Giọng Daddy-o the thé, hồi hộp, hắn bỏ quên mất vẻ huênh hoang thường ngày.
- Bây giờ chúng ở đâu?
- Nhà ăn ở phía nam, Loroay gác. Nó sẽ tìm đến chỗ hẹn.
- Chặng cuối của chúng đấy.
Big Rufe quay sang những tên khác:
“Biến.”
Rollie không nhúc nhích:
“Biến đi đâu? Làm gì?”
- Bây giờ phải nhanh chân, Big Rufe nói rất khẽ, mắt vẫn dán vào cửa. Một đòn nảy lửa, mà dễ ợt: nện bọn thu tiền ở máy bán hàng, sẵn sàng hết rồi - trò trẻ con ấy mà. Chúng phải vác nặng lại chỉ có hai đứa, mình những bốn. Sẽ đưa mày con dao.
- Chịu. Tôi không quen.
- Mặc kệ mày. Cầm lấy. Cả cái này nữa…
Big Rufe dúi vào tay gã khẩu súng ngắn giảm thanh.
Rollie từ chối:
“Không! Tôi đã bảo là không!”
- Thì có khác đếch gì? Lúc này mày phải có khí giới. Mấy lại có hay không bây giờ cũng thế thôi.
Big Rufe đẩy gã đi trước. Lúc ra khỏi phòng thay quần áo, Rollie máy móc nhét khẩu súng vào thắt lưng, không để ai trông thấy.
Bọn chúng luồn lỏi qua nhà máy, đi qua các đường ngang, cố tránh không để bị lộ. Rollie tuy chưa bao giờ đặt chân đến nhà ăn ở phía nam nhưng biết nó ở chỗ nào. Các giám thị, đốc công thường lui tới đó. Chắc ở đấy có hàng loạt máy bán hàng tự động, như chỗ gã mua chai Côca.
Vừa chạy cùng đồng bọn Rollie vừa hỏi:
“Tại sao phải là tôi?”
- Có lẽ vì mày cũng giống chúng tao, Big Rufe trả lời. Cũng có lẽ vì ông chủ cho rằng càng dính líu sâu càng ít nghĩ đến chuồn.
- Ông chủ cũng tham gia?
- Tao nói rồi: mọi cái đều được tổ chức chu đáo. Chúng tao để mắt tới bọn coi máy tự động một tháng nay rồi. Khó hiểu tại sao cho đến giờ chưa có đứa nào nhẩy lên đầu chúng nó.
Big Rufe nói dối.
Thực ra không khó hiểu tại sao những người trông coi máy bán hàng cho đến nay vẫn chưa bị tấn công lần nào. Big Rufe biết rất rõ, do đó hắn cũng biết rõ bọn hắn đang bị nguy hiểm như thế nào. Biết, nhưng hắn sẵn sàng chấp nhận tất cả, sẵn sàng nhào vào cuộc chiến.
Rollie Knight thì không biết. Nếu biết được điều Big Rufe giấu kín, thì dù hậu quả như thế nào hắn cũng bỏ trốn ngay.
Điều Big Rufe biết rõ là: việc đặt các máy hàng tự động trong nhà máy là do Mafia tài trợ và tổ chức.
•••
Bản liệt kê hoạt động của Mafia trong khu Wayne, bang Michigan, trong đó có thành phố Detroit bao gồm các hoạt động tội ác như ám sát và hoạt động buôn bán ít nhiều bất hợp pháp. Trong vùng này, nói tới vai trò của Mafia thích hợp hơn là của Cosa Nostra, vì các gia đình gốc Sicilian sinh cơ lập nghiệp ở đây là linh hồn của những hoạt động ấy. Nói “có ít nhiều” sự hợp tác bất hợp pháp cũng thích hợp hơn vì các vụ do Mafia kiểm soát bao giờ cũng có những thủ đoạn cùng kết hợp song song: tăng giá hàng, đe dọa, hủ hóa, xúc phạm thân thể, đốt nhà.
Trong các nhà máy của Detroit, kể cả nhà máy xe hơi, quyền lực của Mafia rất mạnh. Nó kiểm soát việc đầu cơ séc trả công, cấp vốn và kiểm soát việc cho vay nặng lãi, dây máu ăn phần trong các hoạt động khác. Nó đứng đằng sau các vụ trộm cắp qui mô lớn trong các nhà máy, tham gia việc tẩu tán các đồ ăn cắp được. Xuyên qua các hoạt động bên ngoài là hợp pháp, như cung cấp thực phẩm và dịch vụ hậu cần, nó thò vòi vào tận quả tim của nhà máy. Những tấm bình phong này che đậy các hoạt động khác và cũng là cách ngụy trang tiền thu được. Mỗi năm, Mafia thu về số lợi nhuận hàng nhiều chục triệu đôla.
Mấy năm gần đây, một trong các thủ lĩnh Mafia ngày càng già đi, suy yếu cả về thể chất và tinh thần, gần như phải rút lui khỏi vũ đài. Trong hàng ngũ bọn Mafia ở Detroit nổ ra cuộc tranh giành quyền lực. Trong cuộc tranh giành này, khối duy nhất có lực lượng áp đảo là khối Đen - ở Detroit cũng vậy, ở các nơi khác cũng thế - nên có lẽ chẳng bao lâu nữa sẽ phải nói tới bọn Mafia Đen.
Một nhánh Mafia Đen, do một thủ lĩnh ẩn danh cầm đầu, với Big Rufe làm phó trong nhà máy đã phản ứng và đấu tranh chống lại thể lệ cũ. Mấy tháng trước bắt đầu xảy ra những vụ trấn lột trong nhiều khu trước kia là cấm địa: nhiều vụ được tiến hành độc lập với “quyền lực trung ương” ở ngay nội thành và trong các nhà máy. Cũng ông sếp bí mật này điều hành nạn mãi dâm, che chở các ổ gái điếm. Tất cả đều xảy ra trong những khu trước kia chịu dưới quyền lực tuyệt đối của “Mafia cũ”.
Mafia Đen biết sẽ bị trả thù và điều này thực tế đã xảy ra. Hai tên cho vay nặng lãi người Đen bị hành hung ngay tại nhà riêng, ăn đòn đau và mất hết nhẵn nhụi. Sau đó không lâu, một thành viên Mafia Đen bị chặn đường và bị bắn chết bằng súng ngắn. Xe hơi bị lật úp và đốt cháy. Giấy tờ bị hủy, tiền bạc mất sạch. Tất cả các vụ này, từ tính chất tàn bạo đến sự diễn biến chớp nhoáng đều nói lên bàn tay của Mafia, điều mà các nạn nhân và người cộng tác với họ đều thừa nhận.
Mafia Đen buộc phải cài số lùi. Cuộc trấn lột các người trông coi máy bán hàng sẽ là một trong sáu “phi vụ” của những kẻ còn chưa chịu chấp nhận tình thế đó. Tất cả đã được chuẩn bị chu đáo và trận này biểu lộ ý định chiếm thế mạnh trong cuộc tranh chấp quyền lực.
Rollie Knight, Big Rufe và Daddy-o vào hành lang tầng dưới, đến đứng ở chân cầu thang sắt. Một thềm nghỉ giữa hai tầng che mắt không nhìn được đầu cầu thang phía trên.
Big Rufe ra lệnh:
“Nấp đây.”
Một khuôn mặt ló ra phía trên. Rollie nhận ra Leroy Colfax, một tên trong băng Big Rufe, có tật liến thoắng.
Big Rufe vẫn hạ giọng:
“Mấy thằng chết dẫm còn đấy?”
- Úi chà, phải hai ba phút nữa mới xong.
- Được. Chúng tớ ở đây. Để mắt nhìn, bám sát nghe!
-Rõ!
Leroy Colfax biến mất. Big Rufe ra hiệu cho Daddy-o và Rollie:
“Vào đi”.
Chòi gác của người bảo vệ vẫn để ngỏ, đủ rộng cho cả ba ẩn nấp. Big Rufe khép hờ cánh cửa, hỏi Daddy-o:
“Mặt nạ đâu?”
- Ôi chà!
Rollie thấy Daddy-o, trẻ nhất bọn, run lên bần bật. Nhưng vẫn lấy trong túi ra ba mặt nạ, thực ra là ba chiếc tất nilông. Big Rufe chui đầu vào một chiếc, bảo hai gã làm theo.
Bên ngoài, hành lang vẫn vắng lặng, chỉ nghe văng vẳng đằng xa tiếng ầm ì của băng chuyền lắp ráp chạy từ khi thợ ca ba đến làm. Đây là thời cơ thuận tiện. Trong giờ làm việc ban đêm, sự đi lại giảm hẳn.
“Hai cậu làm theo tớ, rõ chưa?”
Qua mặt nạ nilông, cặp mắt Big Rufe chăm chú dò xét Daddy-o và Rollie.
“Khéo tay thì không có rắc rối gì. Khi hai thằng vừa vào, các cậu trói nghiến lại. Loroi đã mang sẵn thừng đây.”
Hắn chỉ hai cuộn thừng mảnh màu vàng dưới đất
Chúng im lặng chờ. Dần dần Rollie đi đến chỗ phó mặc cho tình thế xô đẩy. Gã biết đã dấn thân vào cuộc đến mức này thì không có cách nào thoát không có cách nào bào chữa cho gã về những điều sắp xảy ra. Gã biết dù hậu quả như thế nào, cũng sẽ phải chia cho ba đứa cùng chịu, gã đâu có quyền lựa chọn. Bọn kia quyết định hết.
Big Rufe rút ra khẩu Côn to tướng. Daddy-o cầm khẩu giảm thanh, giống khẩu của Rollie. Gã cũng miễn cưỡng rút súng ở thắt lưng ra.
Daddy-o giật mình thấy Big Rufe dùng tay ra hiệu. Nghe có tiếng chân bước xuống thang sắt, tiếng người lào xào.
Cửa chòi gác vẫn để hé cho đến lúc tiếng chân trên nền gạch xa dần. Big Rufe tung cửa, bộ ba đeo mặt nạ xông ra súng lăm lăm.
Hai nhân viên đi gom tiền ở dãy máy bán hàng tự động tròn xoe mắt.
Cả hai đều mặc chế phục màu xám, đeo huy hiệu của công ty cung ứng. Một người có mái tóc dài màu hung rối tung, bộ mặt nhợt nhạt lúc này tái xanh; người kia mắt lồi mi mắt húp, trông như người Anh-điêng. Mỗi người vác hai bao tải to chằng vào nhau bằng dây xích có khóa. Hai người đều trạc độ ba mươi tuổi, lực lưỡng, to khỏe, chắc sẽ chống cự ra trò nếu bị tấn công. Big Rufe không để họ kịp đối phó.
Nó dí súng vào ngực người tóc hung, hất đầu về phía chòi gác:
“Chui vào kia, con!”
Bảo người thứ hai:
“Mày nữa!”
Mặt nạ nilông làm giọng nó bị nghẹt lại.
Người Anh-điêng liếc nhìn ra sau như muốn bỏ chạy. Lập tức có hai việc xảy ra: Anh ta thoáng thấy một người bịt kín mặt - Leroy Colfax - vung con dao dài nhảy xuống thang chặn đường, cùng lúc đó mũi súng của Big Rufe đập mạnh vào mặt anh, xé toạc một lỗ trên má trái, máu tuôn ra.
Rollie Knight ấn mạnh súng vào mạng sườn người tóc hung vừa quay lại định cứu bạn. Rollie dọa:
“Giơ tay lên, không tao sẽ dùng cái này!”
Gã mong cho xong thật nhanh, không phải nặng tay quá. Người tóc hung đã trấn tĩnh lại. Khi hai người thu ngân bị đẩy vào gian phòng hẹp, anh ta phản đối.
“Nghe đây, mấy người, có biết là…”
- Câm mồm! Daddy-o đã hết sợ, bảo anh ta thế. Đưa cho tao cái này.
Nó giằng các bao vải, đẩy anh ta dúi vào giữa đống xô chổi.
Leroy Colfax túm nốt hai bao tiền của người kia. Anh này tuy bị thương ở má, máu còn đang ròng ròng, vẫn rất nhanh trí. Anh nhẩy bổ tới Leroy thúc đầu gối vào bụng dưới gã, thẳng tay trái đấm một quả vào giữa bụng. Tay phải lột phăng chiếc mặt nạ. Trong một lúc, hai người nhìn nhau chằm chằm.
Người nhân viên rít răng:
“A, tao biết rồi, tao biết mày… ái ái… ối ối…”
Anh thét lên, tiếng thét biến ngay thành tiếng rên. Rồi im bặt. Anh ngã sấp xuống đất, nặng trịch. Đè lên mũi dao săn dài Leroy cắm ngập bụng.
“Trời!” Người tóc hung kêu lên.
Anh ta nhìn xác bạn nằm ngay đơ dưới đất:
“Quân khốn kiếp! Chúng mày giết nó rồi!”
Vừa nói xong anh ta gục xuống, bị Big Rufe nện báng súng giữa sọ.
Daddy-o run hơn lúc nào hết, hoảng sợ:
“Có quá tay không?”
- Xong là xong, Big Rufe trả lời - Tại chúng đánh trước.
Nhưng chính nó cũng không tự tin như lúc nãy. Nó nhặt hai bao dính nhau, ra lệnh:
“Mang nốt đi.”
Leroy Colfax nhấc hai bao còn lại lên.
Rollie vội kêu:
“Khoan đã”.
Có tiếng chân bước xuống thang sắt.
Frank Parkland ở lại muộn trong nhà máy vì bận dự cuộc họp đốc công ở phòng Matt Zaleski bàn một số việc trong đó có việc sản xuất xe Orion. Từ chỗ họp, anh trở lại nhà ăn ở phía nam lấy chiếc áo len đan và vài giấy tờ riêng bỏ quên. Vừa ra khỏi cửa, anh nghe dưới nhà có tiếng kêu, bèn xuống xem có chuyện gì.
Parkland đã đi quá cửa chòi gác, bỗng thấy có cái gì khác khác. Anh ta quay lại và nhìn rõ cái vừa nãy chỉ thấy thoáng qua: những vệt máu dưới khe cửa.
Viên đốc công do dự. Nhưng anh ta không phải người nhát gan. Anh đẩy cửa bước vào.
Vài giây sau, anh bị nện mạnh vào đầu và ngã lăn bất tỉnh giữa hai nhân viên thu tiền.
Khoảng một giờ sau, người ta mới phát hiện ra ba người trong chòi. Trước đó lâu lắm, Big Rufe, Daddy-o Lester, Leroy Colfax và Rollie Knight vượt tường ra khỏi nhà máy.
Người Anh-điêng đã chết. Hai người kia còn thoi thóp.