Chương 30
Từ hạ tuần tháng tám, Rollie Knight sống trong khiếp sợ. Nỗi khiếp sợ bất chợt nảy sinh trong nhà máy, ở chòi gác nơi Leroy Colfax đâm người thu ngân, bỏ lại người thứ hai cùng với đốc công Parkland bị thương nằm chết ngất. Sau đó, trong cuộc tháo chạy hấp tấp của bộ tứ - Big Rufe, Colfax, Daddy-o và bản thân gã, Rollie Knight, nỗi khiếp sợ như khảm sâu vào gã, không xóa đi được. Trong đêm đen, chúng phải vượt qua hàng rào rất cao bằng cọc sắt chằng dây xích, vì không thể đi qua cửa: người ta sẽ hỏi bọn chúng ở lại nhà máy làm gì.
Rollie đứt một mảnh tay lúc vướng dây thép gai căng trên rào, Big Rufe thì ngã từ trên cao xuống rất đau, chân đi khập khiễng. Nhưng cuối cùng cả bọn ra thoát - trong lúc này dẫu sao đây là điều chủ yếu. Như dã thỏa thuận, chúng chia đường, cố tránh các khoảng sáng đèn, đến tụ tập ở một bãi đậu có xe của Big Rufe để sẵn. Daddy-o ngồi lái, mắt cá chân Big Rufe mỗi lúc càng sưng trông thấy, gã đen to lớn phải nghiến chặt răng nén tiếng rên rỉ. Tất nhiên khi ra khỏi bãi chúng mới bật đèn pha.
Sau lưng chúng mọi thứ đều bình thường: xem ra hình như không ai báo động.
“Này, các người, Daddy-o cười gằn, nói về run, cánh mình đã được rét ra trò, đúng không: Dù sao, nhót ra được là thấy khoái tỷ rồi.”
- Còn xơi mày mới gọi là thoát Big Rufe ngồi ghế sau càu nhàu.
Rollie đang mải cầm nắm giẻ bẩn lau máu từ vết thương chảy ra, thấy Bic nói đúng.
Chúng mang theo tất cả các bao tiền, không để mất bao nào. Big Rufe và Colfax bắt đầu dùng dao rạch những vệt dài. Chia số tiền - toàn tiền xu - vào bốn bao giấy to, vứt các bao vải qua cửa.
Về đến khu nội thành, chúng bỏ xe trong hẻm sâu. Trước khi đi mỗi đứa một ngả, Big Rufe nhắc lại chỉ thị:
“Không được quên: cái chính là thật bình tĩnh, vẫn đi làm như thường. Thế, chẳng đứa nào nghi ngờ. Hiểu rồi chứ? Chỉ cần vắng mặt ở nhà máy là chúng nghi ngay, sau một cú như vậy bọn cảnh sát khốn kiếp nó đã để ý thằng nào, là chỉ có chết.”
- Hay là chuồn? Leroy Colfax rên rỉ.
- Thử xem, tao thề sẽ túm được mày, thu xếp cho mày ổn thỏa như cho thằng thu ngân kia, chính mày ném chúng ông vào cứt…
- Tôi có nói là tôi chuồn đâu nào? Colfax vội vã chống chế. Tôi chỉ nghĩ, thế thôi.
- Đừng nghĩ nữa! Óc mày được mấy tý, ai còn lạ!
Rollie tránh không tham dự cuộc cãi vã. Gã có thể trả giá đắt để chuồn được - nhưng chuồn đi đâu? Càng lúc càng cảm thấy bị xử tội mà không được quyền chống án. Thấy cuộc đời gã trôi đi như máu từ vết thương đang chảy. “Không ai thoát được số mệnh”, đúng thật. Guồng máy dẫn đến thảm kịch đêm nay thật ra đã bắt đầu quay từ trước, từ bữa tên cảnh sát trắng béo phệ sinh sự, tên cảnh sát đen giúi cho gã địa chỉ phòng tuyển mộ. Sai lầm của gã là đã dẫn xác đến đấy. Nếu không? Không bằng cách đó thì cũng bằng cách khác số mệnh vẫn cứ tóm gáy gã chẳng sao thoát được.
“Nghe rõ cả chưa? Big Rufe nhắc lại. Chúng ta đã cùng nhau ra tay thì mãi mãi vẫn cùng nhau. Cứ khóa mõm lại cho thật chặt là yên trí.”
Những tên kia có lẽ tin, riêng Rollie không tin chút nào.
Mỗi đứa ôm một túi giấy đầy tiền xu. Túi của Big Rufe to hơn trông thấy.
Đi vòng vèo, luôn nép sát tường, Rollie về đến nhà.
May Lou đi vắng, chắc đi xem phim. Rollie rửa vết thương, lấy khăn mặt băng qua loa.
Xong đâu đấy gã ngồi đếm tiền. Trước hết phải mất một lúc xếp xu thành từng cọc nhỏ. Gã được 30 đôla 75 xu - không bằng tiền công một ngày làm việc trong nhà máy.
Chà, dấn thân vào biết bao nguy hiểm để lấy món tiền chẳng đáng gì. Chưa kể bao nhiêu nguy hiểm không kém khủng khiếp trước đó, - do từ chối không chịu dính líu sâu hơn vào các tội phạm trong nhà máy, do dính líu vào vụ đêm nay… Những mối nguy khủng khiếp thật, làm gã sợ đến nỗi phải chịu khuất phục. Với Big Rufe, đặt hàng một đòn trừng phạt gã - một đòn làm Rollie thừa sống thiếu chết - chẳng khó khăn hơn bà nội trợ đặt mua mớ khoai ở sạp thực phẩm. Thành ra dù Rollie có từ chối dấn thân vào những trò chết người này, cuối cùng gã cũng vẫn là người thua cuộc.
Tuy nhiên xét đến cùng, gã có thể chỉ thua ít hơn bây giờ, sau thảm họa không thể cứu vãn này, gã có thể bị tòa xử về tội giết người. Tù chung thân, hẳn rồi.
Một tình thế thật kinh khủng. Nhưng về một mặt nào đó tình thế này cũng chẳng mới mẻ lạ lẫm gì đối với gã: suốt đời, trong tâm trạng Rollie chỉ có hai thứ: buồn rầu tuyệt vọng và sợ hãi ngày mai… Ủ ê, cam phận, gã giấu gói tiền dưới gầm giường, lăn ra ngủ. May Lou về, gã vẫn không hay biết.
Sáng hôm sau May Lou vừa băng bó lại cho gã vừa nhìn gã, tò mò, cầu khẩn. Đời nào Rollie chịu trả lời câu hỏi thầm lặng trong mắt cô. Một lời giải thích cũng không. Gã vào nhà máy.
Mọi người trong xưởng bàn tán về vụ án đêm qua. Tin tức đăng trên các báo buổi sáng, trên đài phát thanh và truyền hình. Thợ đứng máy cạnh Rollie bàn nhiều hơn về Frank Parkland: anh ta được đưa ngay vào viện, chắc sẽ thoát nạn sau cơn choáng não nhẹ. Một tay châm biếm bình luận trong tiếng cười thích chí của bạn bè: “Thế mới biết sọ dừa bọn đốc công dầy thật.” Không ai tỏ ra xúc động vì vụ trộm, vì việc người thu tiền bị giết.
Số kiếp thật trớ trêu: Big Rufe dặn dò rất tỉ mỉ ba tên tòng phạm đừng tỏ vẻ gì khác thường dễ làm lộ cả bọn, lại chính là tên duy nhất khiến mọi người chú ý, ngoài ý muốn của hắn: mắt cá chân sưng tấy không đi nổi, hắn phải cáo ốm nằm nhà. Viện cớ đêm qua say rượu hắn bị ngã cầu thang ngay tại nhà.
Khi đến báo tin ấy cho Rollie, Daddy-o tỏ ra bối rối gần như hốt hoảng. Lúc sau thấy hắn lại mò đến chắc để dốc thêm bầu tâm sự, Rollie gầm gừ đuổi hắn cuốn xéo. Thằng ngu yếu bóng vía này có thể làm bật mí.
Đấy là sự kiện độc nhất trong ngày. Hôm sau không xảy ra chuyện gì. Theo Rollie biết thì cho đến lúc này không có ai trong kíp làm ngày bị xét hỏi.
Hôm sau nữa vẫn không có gì. Như thế, suốt cả tuần.
Rollie bắt đầu thấy yên tâm. Tuy vẫn còn lo có thể xảy ra điều xấu nhất; đôi khi cảnh sát bỏ qua vụ trộm, vụ lừa đảo, nhưng với vụ án mạng thì đừng hòng.
Gã không biết rằng các sự kiện sẽ chứng minh gã có mặt sai và cũng có mặt đúng.
Giờ thực hiện vụ cướp đã được tính toán kỹ. Xảy ra đúng lúc ấy, nó làm cảnh sát tập trung cố gắng điều tra trong kíp thợ làm đêm. Vả lại các thanh tra cảnh sát không đoán chắc thủ phạm là người trong nhà máy: nhiều vụ trộm trong các nhà máy lớn là do những lưu manh chuyên nghiệp lọt vào bằng những căn cước giả.
Tang chứng chỉ đủ ghi vỏn vẹn vài dòng trong những biên bản đầu tiên. Nhân viên thu tiền sống sót khai: thủ phạm gồm bốn tên, đeo mặt nạ, có vũ khí. Anh ta cho đó là bốn tên Đen, nhưng không nhớ chiều cao, chiều ngang thân của chúng.
Frank Parkland vừa đặt chân vào chồi gác đã bị đánh gục nên chẳng ghi nhận được gì.
Không tìm thấy vũ khí, không có dấu tay. Bao vải dựng tiền rách toang vứt ở rìa đường, quá lắm cũng chỉ cho biết hung thủ đi về phía trung tâm thành phố.
Bốn thanh tra cảnh sát chịu trách nhiệm phá vụ án đành phải truy cứu phiếu cá nhân của khoảng 3.000 công nhân làm ca đêm. Đồng thời lại phải giám sát kỹ hơn trước số công nhân làm ngày. Cộng lại thành một khối người rất lớn. Đã thế cảnh sát lại húc phải một bức tường câm lặng. Bức tường không một vết nứt.
Sau ba tuần, tuy chưa hẳn đã xếp vụ án lại nhưng cảnh sát bị vướng vào nhiều vụ khác.
Trong khi đó cuộc điều tra vẫn tiếp tục, nhưng trên một bình diện khác.
Mafia tự coi mình là một quốc gia trong Quốc gia nên không ưa sự can thiệp từ bên ngoài. Nếu sự can thiệp ấy lại do một băng đối địch tiến hành, sự trừng phạt sẽ rất nghiêm khắc đủ chặn đứng mọi sự xâm nhập về sau.
Ngay từ lúc nhân viên có bộ mặt Anh-điêng bị Leroy Colfax đâm chết, hung thủ và ba tên tòng phạm đã lập tức bị kết án. Tử hình, tất nhiên.
Tính tất nhiên rất lôgic, vì bốn tên chỉ là những con tốt đen trong cuộc chiến giữa Mafia Trắng và Mafia Đen.
“Gia đình” chỉ huy tổ chức Mafia - thứ thiệt, của bọn Mỹ gốc Italian - hoạt động rất bí mật, rất có hiệu quả. Nhờ có mạng lưới chỉ điểm tốt hơn của cảnh sát rất nhiều.
Sau nhiều đòn thăm dò không kết quả, chúng dùng đến thủ đoạn cổ điển: treo giải thưởng. Một nghìn đôla. Trong khu trung tâm, không ít kẻ dám vì số tiền đó mà phản lại cả mẹ mình.
Mười ngày sau vụ án mạng, Rollie biết tin này. Tối bữa ấy gã ngồi uống vại bia trong cái quán nhếch nhác ở đại lộ Ba. Tuy đã có những phen toát mồ hôi lạnh vì sợ, gã đã bắt đầu tin vào phép lạ: thoát nạn. Chợt người ngồi cạnh gã báo tin: Mafia - hình như là một hãng kinh doanh nổi tiếng - thưởng một nghìn đôla cho người cung cấp tin tức về vụ cướp. Nghe thế Rollie tưởng mình ốm đến nơi. Phải cố lắm gã mới nén nổi cơn lợm giọng ghê gớm.
“Ngon đấy chứ, hả?” Người đó, một tên dắt mối loại cò con cho bọn đánh cá ngựa thuê, nói tiếp: “Chõm được thằng nào, cứ mách ngay cho tớ, tớ sẽ báo cho chỗ cần báo. Chia đôi. Chịu không?”
- Tớ sẽ dỏng tai. Rollie càu nhàu.
Gã nhớ tới địa chỉ Big Rufe. Vừa chui vào cửa hang tên Đen to gã bị ngay một họng súng dí sát mũi, chắc vẫn khẩu súng mười hôm trước. Nhận ra Rollie, Big Rufe thu súng nhét vào thắt lưng.
“Phần bọn Ritan, mày hiểu chưa? Chúng cứ liệu hồn, xớ rớ mò tới đây là bỏ xác liền.”
Ngoài sự tỉnh táo đề phòng này ra, Big Rufe tỏ vẻ thản nhiên rất kỳ lạ. Có lẽ do nó vẫn biết có nguy cơ này từ lâu và đành chịu lép một bề trước sức mạnh Mafia. Điều này mãi về sau Rollie mới hiểu được nguyên nhân.
Gã bỏ về ngay, rõ ràng Big Rufe chẳng giúp được gì.
Từ lúc ấy gã sống trong nỗi khiếp sợ còn đê hèn hơn nữa. Biết mình phải hoàn toàn bó tay không thể làm gì để chống lại sự de dọa có mặt khắp nơi này. Chỉ còn biết ngồi chờ nó tới. Tuy vậy gã vẫn đi làm. Vì đi làm đã thành thói quen.
Cuối cùng té ra Big Rufe lại là tên phản bội cả bọn.
Để thanh toán vài món nợ lặt vặt dây dưa từ lâu nó mang tiền đi trả nhưng dại dột trả toàn bằng đồng 25 xu. Điều rất nhỏ mọn thôi nhưng lại làm có người sinh nghi đi báo cho một tên vô danh tiểu tốt của Mafia, tên này vội báo cáo cho thủ lĩnh của nó. Các thủ lĩnh ghép thêm những chi tiết đã nắm được về tên Đen to, về những mối giao du của nó và đi đến những kết luận rất lôgic.
Big Rufe bị lôi đi giữa lúc nửa đêm đang nằm ngủ say trong nhà. Nó bị trói chặt, nhét giẻ vào mồm, khiêng vào một ngôi nhà gần công viên Hailên. Trước khi bị giết, nó bị tra tấn đến lúc chịu khai hết tên của đồng bọn.
Sáng hôm sau người ta tìm thấy xác hắn trên một con đường ban đêm có rất nhiều xe tải hạng nặng chạy qua không ngớt. Ít nhất đã có năm sáu xe đè lên xác chết. Tai nạn giao thông, hẳn vậy.
Rollie nghe tin này từ mồm Daddy-o - suy sụp hơn bao giờ hết. Gã không mảy may tin rằng đã xảy ra tai nạn. Những đứa khác cũng không tin.
Leroy Colfax quyết định nằm im như chuột trong hang, và van xin sự che chở của bạn bè thân thiết có chân trong các tổ chức quá khích người da đen. Sau hai tuần nó mới hiểu: các chiến sĩ nghiệp đoàn cũng đặt giá, như tất cả mọi người. Colfax bị bắt cóc, bị giết trên một bãi hoang vùng ngoại ô. Giải phẫu pháp y cho thấy hắn bị sáu phát đạn. Về mặt dấu vết tội phạm, chỉ chừng ấy là quá ít.
Daddy-o bỏ trốn. Nhảy lên chuyến xe ca đầu tiên chạy về New York, nó định giấu mặt trong khu Haclem. Trong nhiều tháng hắn đã tưởng được an toàn. Cho đến một hôm đang đi trong hẻm tối, hắn bị hai tên bất thình lình hiện ra từ chỗ nào không biết xỉa dao vào sườn.
Rollie Knight vẫn tiếp tục đợi. Và tiếp tục chết dần từng mảng một.
Leonard Wingate không tài nào nhận ra giọng nói lanh lảnh ở đầu dây đằng kia. Một đứa trẻ? Một thiếu phụ?
“May Lou nào thế?”
- Bạn gái Rollie - Rollie Knight ấy mà.
- A, biết rồi. Sao cô có số điện thoại của tôi? Trong danh bạ không có mà!
- Ông đã ghi vào tấm danh thiếp đưa cho em. Đề phòng khi chúng em gặp rắc rối - ấy là ông dặn thế.
Ừ-, có thế thật, anh mang máng nhớ ra. Hôm ấy một toán làm phim đã đến tận nhà, quay phim họ. Chà, không đúng lúc chút nào: hôm nay anh được mời đến nhà bạn ăn tối.
“Tôi nhớ ra rồi. Bây giờ cô hãy nói từ đầu xem nào.”
- Ông biết Rollie nghỉ việc rồi chứ ạ? Chắc họ phải báo cho ông.
- Cô nói tôi mới biết đấy. Nhà máy thuê mười nghìn thợ, nên tuy là một trong những người phụ trách về nhân sự tôi vẫn không được biết về từng con người cụ thể.
Vừa nói Wingate vừa nhìn mặt mình trong gương. Anh muốn nói với mình trong gương: đồ làm bộ, mặc bộ đồ đẹp, với máy điện thoại không ghi số trong danh bạ, mày đã làm con bé hiểu rằng một đứa nghèo hèn như nó không thể quấy rầy một ông sang trọng như mày nếu nó chỉ có mỗi một thứ: nước da đồng mầu với mày. Sau đó sẽ ra sao?
“Chà, rất tiếc May Lou ạ. Cô gọi chẳng đúng lúc chút nào. Tôi thành thực xin lỗi. Nào, cô nói lại từ đầu đi.”
- Thế đấy, như em vừa nói. Rollie không ăn nữa, không ngủ nữa, chẳng chịu làm gì sất. Ra ngoài cũng không. Cứ ngồi đó, đợi… không bảo gì em. Như thể… như thể đang chờ chết.
- Thôi việc lâu chưa?
- Hai tuần rồi
- Cậu ấy bảo gọi tôi à?
- Anh ấy chẳng bảo gì. Nhưng rất cần được giúp đỡ. Thấy rõ lắm.
Wingate không trả lời ngay. Một mặt, Rollie Knight không còn nằm trong số người anh phải có trách nhiệm này nọ: dù sao gã Đen này cũng nghỉ việc rồi - tự ý nghỉ - những mười lăm ngày rồi. Mặt khác, Wingate có phần hối hận về thái độ tự mãn của mình hồi nãy. Anh quyết định.
“Được. Không chắc đã giúp được gì, nhưng tôi cũng thử cố thu xếp tạt qua nhà trong ba; bốn ngày tới.”
- Ông không đến ngay được sao? cô van nài.
- Hơi khó. Tôi sắp phải đi. Chậm mất rồi.
- Vâng, vâng, em hiểu… Ông có thấy, trước nay em chưa bao giờ xin ông cái gì, đúng không ạ?
- Rất đúng.
Anh có cảm tưởng May Lou chưa bao giờ hỏi xin ai cái gì, cô không xin của đời một thứ gì, vả chăng cô cũng chưa được nhận bao nhiêu.
“Vậy, tối nay, em xin… em van ông: ông đến đi với Rollie của em.”
Một buổi tối dễ chịu ở nhà những người bạn dễ thương - một bữa ăn thịnh soạn có vang Pháp, - đành bỏ tất cả đấy, bỏ hết.
“Tôi sẽ tới. Nhắc lại địa chỉ đi.”
Không thể nhận ra Rollie: bơ phờ, ngơ ngác, mặt đờ đẫn. Đang ngồi bên chiếc bàn gỗ trắng quay mặt ra cửa, gã giật nẩy mình khi Wingate bước vào. Sau khi nhận ra khách, thái độ gã trở lại như cũ.
Wingate có nhã ý mang theo chai uýt-xki. Tìm trong ngách bếp được hai chiếc cốc. May Lou bỏ ra ngoài ngay khi anh vừa đến, nhìn anh với vẻ biết ơn:
“Em ở ngoài kia, chỗ thềm nghỉ chân ở cầu thang”, cô thì thầm.
Wingate rót rượu tràn miệng cốc.
“Nào, uống đi. Uống thoải mái, nhấm nháp lai rai. Nhưng phải nói xem sao.”
Rollie chẳng buồn ngẩng đầu, đưa tay vớ cốc rượu. Wingate đợi vài giây rồi nói tiếp:
“Tôi biết rất chính xác cậu nghĩ gì về tôi, biết cậu gọi những người như tôi bằng những từ gì, những từ thường là ngu xuẩn, nói chung là bất công ví dụ Đen sơn Trắng, chú Tôm chẳng hạn. Nhưng dù cậu có ghét cay ghét đắng tôi đi nữa cậu cũng phải thừa nhận rằng lúc này chỉ còn có tôi là bạn duy nhất của cậu”. Wingate uống cạn cốc rượu, rót cốc nữa, đẩy chai về phía Rollie. “Uống nữa đi, nhưng phải nói trước khi tôi uống xong cốc này, không thì tôi về. Tôi rất sợ bỏ phí thì giờ. Nào nói xem: tại sao cậu bỏ việc?”
Rollie do dự lần cuối cùng, rồi bắt đầu nói. Thái độ có phần thô bạo của Wingate dường như đã mở cửa một con đập: các câu nói của Rollie xô vào nhau, chồm lên nhau, tuôn chảy ào ạt. Lúc được tuyển vào nhà máy, những ngày đầu trong xưởng - giai đoạn dầu, mới đó đã cách đây hơn một năm rồi - Bàn tay của tội ác xiết chặt dần, lôi gã đến vụ cướp kéo theo án mạng, cuối cùng là tin đồn: Rollie Knight bị Mafia lên án tử hình, khả năng sắp xảy ra cuộc hành quyết mà Rollie đang chờ, cam phận, bó tay không có cách gì chống lại.
Wingate tự chủ được đến đoạn cuối câu chuyện thì đùng đùng nổi giận:
“Đồ ngu. Thằng ngu khốn khổ. Người ta giúp mày một tay. Mày bắt đầu thoát. Đang trên đường thoát ra thì hấp! mày tung hê tất cả! Tao thật muốn giết chết mày cho hả giận?
Rollie ngẩng đầu. Trong một thoáng, tính châm biếm tính xấc xược ngày xưa vụt trở lại:
“Ông ơi, muốn làm chuyện đó ông còn phải xếp hàng chán.”
Câu Rollie vừa nói lôi Wingate về với thực tế trước mắt. Anh đang đứng trước tình thế tiến lui đều khó. Giúp Rollie trốn đi, là giúp cho một hung thủ thoát khỏi bàn tay công lý. Chỉ riêng việc anh không tố cáo gã trước pháp luật cũng đủ để anh bị buộc tội “tòng phạm sau khi tội phạm xảy ra”. Mặt khác, nếu phủi tay anh sẽ bỏ mặt Rollie cho bọn đâm thuê chém mướn lúc nảy chắc đang lùng sục gã.
Chà, giá anh đi khỏi nhà sớm hơn độ năm phút, giá anh đủ sáng ý để đừng cầm máy khi chuông reo - giá mà… Anh cố trấn tĩnh để suy nghĩ… Thỉnh thoảng đưa mắt liếc ra cửa, lo lắng. Biết đâu bọn đao phủ ập đến ngay lúc này…
Bây giờ có lẽ trước hết phải tìm được một mưu sĩ. Ngỏ lời với ai được? Với thủ trưởng của anh, ông trưởng ban Nhân sự? Chắc chắn ông ta, xuất thân con nhà luật, sẽ khuyên đi báo cảnh sát. “Còn thế nào nữa! Đã xảy ra án mạng, anh biết tên một hung thủ. Việc còn lại là của tòa án!”
Nhưng đó là điều mà anh, Leonard Wingate không bao giờ làm. Hoặc chưa làm trước khi hỏi thêm được ý kiến người khác. Hỏi… à, hay là đi hỏi Brett DeLosanto?
Từ bữa gặp nhau lần đầu, tháng mười một năm ngoái, hai người đã mến nhau. Wingate thực lòng thán phục chàng vẽ kiểu trẻ tuổi từ khi nhận ra ở anh ta một con người đúng đắn, vững vàng, có lương tri, độ lượng dưới vỏ ngoài có vẻ tự do, phóng túng. Hơn nữa Brett chắc còn nhớ Rollie Knight. Wingate sẽ gọi điện, hẹn đến gặp ngay tối nay.
May Lou đã vào nhà, lặng lẽ đến nỗi sau mấy phút Wingate mới trông thấy. Cô có nghe được một phần lời thú tội của Rollie? Nhưng đã đến nước này, điều đó không còn quan trọng gì nhiều.
“Cửa ngoài có khóa được không?” anh hỏi.
- Được ạ.
- Tốt. Tôi về, rồi sẽ quay lại. Tôi đi khỏi, cô khóa chặt cửa, không mở cho bất cứ ai. Khi tôi trở lại cô chú ý nhận kỹ tiếng tôi. Cô có hiểu không?
- Em hiểu, thưa ông “May Lou trả lời, kiên quyết.”
Cô nhìn thẳng mặt anh. Bé tẹo, gầy guộc, tầm thường, nhưng chắc không thiếu nghị lực.
Chật vật lắm Wingate mới gọi được Brett DeLosanto. Mất rất nhiều thì giờ quý báu, qua trung gian của bệnh viện Matt Zaleski đang điều trị ở phòng cấp cứu anh mới được biết cô Barbara và ông DeLosanto cùng với ông bà Trenton đang dự buổi hòa nhạc giao hưởng tại trụ sở Hội người yêu nhạc thuộc trung tâm văn hóa.
Tất nhiên phải đợi lúc giải lao. Các cô xếp chỗ rất khó tính: không thể làm gián đoạn Romeo và Juliet của Prokofiev. Mãi mới thấy cửa mở. Tuy rất đông người, Wingate nhận ngay ra Brett, Barbara và cặp Trenton. Anh máy họ ra một góc, kể rõ đầu đuôi.
Brett nhận lời cùng đi ngay với anh. Năm người hẹn sẽ gặp lại nhau đông đủ tại nhà Brett: sau khi nghe Wingate kể câu chuyện thê thảm, cả Barbara lẫn vợ chồng Trenton không còn bụng dạ nào ngồi thưởng thức nhạc cổ điển.
Hai người lên xe Wingate. Mưa đã tạnh, họ ném áo mưa lên ghế sau. Trên chặng đường ngắn ngủi, Wingate thuật lại chi tiết vụ án mạng, ban nãy không muốn nói trước mặt hai thiếu phụ. Brett gật đầu:
“Dù thế nào, cũng loại đứt một giải pháp: không thể giúp hắn trốn khỏi thành phố.”
- Tôi cũng nghĩ thế, Wingate càu nhàu. Nếu chỉ là vụ cạy cửa bẻ khóa thông thường, tôi đã nghĩ đến việc gửi thằng nhóc ngốc nghếch này đi một chỗ kín đáo, đằng này lại là vụ án mạng, không thể được. Không giải quyết được vấn đề.
- Theo tôi, hắn cần một luật sư. Thật giỏi, nhưng đắt lắm - đúng cái thứ hắn chưa bao giờ thuê nổi.
- Hắn lấy đâu ra tiền, Wingate phân vân.
- Ta sẽ đi kiếm. Tôi góp một phần, báo động cho bạn bè, kêu gọi tất cả những người tranh đấu chống bất công chủng tộc và bất công xã hội. Có luật sư giỏi, hắn có hy vọng thoát nạn. Chỉ còn xem hắn có chịu nhận lời không.
- Nếu chúng mình chịu khó nài ép, tôi tin chắc hắn sẽ nhận.
- Được thế, sáng mai ta đi tìm luật sư. Ông ta sẽ tiếp xúc với cảnh sát. Đêm nay phải bảo Rollie và cô gái đến ngủ ở nhà tôi. Chắc bụng hơn. Barbara không cự nự gì đâu! Hai người tới góc đường 12 cắt đường Blaine. Wingate dẹp xe trước cửa nhà Rollie, cẩn thận khóa chặt cửa xe.
Bao giờ cũng vậy, ngay lối vào đã ngửi thấy mùi rác rưởi hôi thối. Đặt chân lên cầu thang hẹp, Wingate sực nhớ phải đánh tiếng. Xưng tên thật to, chắc thế.
Vấn đề đã được giải quyết xong. Rất bất ngờ.
Trên tầng ba, cửa phòng mở toang, ổ khóa đứt tung. Trong phòng, một mình May Lou đang xếp quần áo vào chiếc vali giấy.
“Rollie đâu?” Wingate hỏi.
Cô không ngẩng đầu.
“Đi rồi. Họ kéo đến - lôi anh ấy đi…”
- Lâu chưa?
- Lúc ông vừa ra.
Mãi cô mới đủ can đảm ngước mắt lên nhìn họ thấy cô vừa khóc.
“Cô thử tả hình dạng chúng xem, Brett gợi ý, chúng tôi sẽ báo cảnh sát để…”
Wingate lắc đầu. Chậm mất rồi còn gì. Chắc hẳn là đã quá chậm, chậm ngay từ đầu. Wingate biết Brett và bản thân anh sắp sửa làm gì: ra đi, tránh xa, giả bộ không thấy gì không nghe gì sất. Như hàng triệu người khác, ở Detroit, ở khắp nơi.
Anh quay lại May Lou.
“Còn cô, cô sẽ ra sao đây?”
- Ôi, em tìm cách xoay sở vậy thôi…
Wingate rút ví, móc hết tiền trong đó đưa cho cô gái Đen:
“Tôi rất buồn, buồn ngao ngán, anh thì thầm. Chẳng thay đổi được gì, hẳn vậy, nhưng dù sao tôi thật lòng buồn ngao ngán…”
Họ xuống nhà.
Ra ngoài đường, họ thấy cửa xe bên phải mờ toang, kín vỡ nát: hai chiếc áo mưa biến mất.
Không bao giờ tìm thấy xác Rollie Knight.