Chương 7
Lần đầu tiên tôi tới nhà thờ. Thực ra nhà thờ chỉ là tầng trệt ngang tầm mặt vườn của một tòa nhà nhỏ nằm ở giữa làng. Chỉ cần bước xuống vài bậc cầu thang là đã ở trước một cánh cửa đôi bọc nệm chần, và dù có lớp nệm chần ấy, tôi vẫn nghe thấy tiếng nhạc từ bên trong vọng ra, tiếng đàn dương cầm pha tiếng hát lao xao. Khi đẩy cánh cửa ra, tôi nghe thấy giọng June. Cô bé đứng trên một thứ giống như cái bục, xung quanh là những đứa trẻ trạc tuổi, nhưng June cao hơn chúng một cái đầu. Bên phải sân khấu, mục sư ngồi bên cây dương cầm, ông chơi một giai điệu hơi chậm và buồn, nhưng nhịp nhàng, và các cô bé vỗ tay theo nhịp.
June hát bằng tiếng Anh: nobody knows but Jesus *, tôi biết lời bài này. Giọng cô bé rất trong, không lảnh lót như giọng trẻ con, mà khỏe và hơi trầm, và tôi thấy rùng mình. Tôi dừng lại trước cửa, mặc dù những người ở hàng cuối đã ngồi xích lại với nhau để chừa chỗ trên ghế băng cho tôi. Tôi không thể tiến lên. Có gì đó ngăn tôi bước hẳn vào phòng, như thể tôi không có quyền. Như thể người ta đột nhiên sẽ yêu cầu tôi ra ngoài, như thể họ sẽ nhận ra tôi và tôi không còn chỗ trong nhà thờ này nữa. Hoặc đó là bởi chính tôi, tôi không thể bước tiếp. Tôi cứ đứng dựa vào khung cửa, giữ nó không đóng lại, để cảm nhận khí lạnh bên ngoài, đẩy không khí nóng và đầy mùi người từ bên trong ra, một thứ mùi kỳ lạ của da và gỗ, hoặc của áo quần vải vóc mới, một thứ mùi gần gũi và nhạt nhẽo khiến tôi ghê tởm.
Tiếng Anh, nghĩa là: Không ai biết ngoại trừ Chúa.
Bỗng tiếng hát ngừng lại. June vẫn đứng trên sân khấu, một bóng đèn công suất lớn chiếu vào cô bé. Ánh đèn làm nổi bật thân hình cô bé dưới lớp váy, vết hằn chỗ bộ ngực mới nhú, phần bụng hơi nhô lên. Ánh đèn lấp lánh trên trán vì cô bé vuốt tóc ra sau thành một búi tóc dày, màu hung vàng. Khuôn mặt không tươi cười, cô bé dường như thu mình, chỉ khẽ nhếch miệng, cổ gập lại, mắt cụp xuống như đang nhìn một điểm bất định trước mặt, giữa cử tọa. Mục sư thuyết giảng một bài ngắn, và đọc mấy đoạn trích trong cuốn sách kinh. Ông ta còn trẻ, nhưng có vẻ tự phụ và thiển cận, và những cô bé con đứng quanh ông ta trông như lũ cào cào châu chấu. Chỉ riêng June là nổi bật giữa đám người lộn xộn và phù phiếm này, với đôi mắt cụp xuống, thân hình cao lớn, hai chân hơi choãi ra, cánh tay buông dọc thân người, không duyên dáng.
Rồi cô bé chợt nhìn thấy tôi. Khuôn mặt bất động, không cười, nhưng tôi thấy đôi mắt cô bé mở to, tôi cảm thấy mối liên hệ của ánh nhìn ấy trong ánh mắt tôi, như thể đang nghe thấy tim cô bé đập qua một sợi dây. Cô bé không nghe lời mục sư nói nữa, cũng không quan tâm đến những đứa trẻ bên cạnh, hay các tín hữu đang nhìn mình. Cô bé hoàn toàn gắn với tôi bởi sợi dây đó, và không còn điều gì khác quan trọng nữa. Còn tôi, tôi cảm thấy một nỗi bối rối chưa từng biết đến, chưa từng trải qua. Tôi có cảm giác như thể chóng mặt, một cảm giác bạo lực. Tôi là chủ nhân, không phải một chủ nhân thống trị, mà là người có thể điều khiển được từng suy nghĩ trong cô bé, từng cử chỉ, từng ý nghĩ. Đã mấy lần mục sư hắng giọng, bắt nhịp lại câu đầu bài thánh ca, và tôi không biết mình đã làm gì, chắc là tôi đã giơ tay trái lên một chút, lòng bàn tay hướng về phía cô bé, không phải để chào, mà để bảo nó hãy bắt đầu, và June cất giọng hát. Phải chăng cô bé chưa bao giờ hát hay đến vậy, với giọng hát trong trẻo và mạnh mẽ như thế, hông cùng vai hơi lắc lư, tôi nghĩ đến Mary ngày xưa trong chiếc váy đỏ, khi ánh đèn chiếu rọi vào nàng? Mục sư chơi đàn say sưa một cách thái quá, mấy cô bé con gầy gò xấu xí vừa uốn éo vừa nhìn June, còn cử tọa bắt đầu vỗ tay, và khi bài thánh ca kết thúc, họ hoan hô, dù đó là điều cấm kỵ, không ai hoan hô một lời cầu nguyện, nhưng đây không chỉ còn là một lời cầu nguyện. Còn tôi, tôi chậm rãi lùi bước, cho đến khi cánh cửa bọc nệm chần đóng lại và cắt ngang sợi dây kết nối ánh mắt, cắt ngang làn sóng nhạc.
Tôi đấu tranh với bản thân để không thay đổi. Tôi cảm thấy mối nguy hiểm bao quanh mình. Tôi cảm thấy điều đó, một âm mưu, một kế hoạch bí mật nhằm ép buộc tôi, hạn chế tự do của tôi. Để ngăn tôi di chuyển, chặn lối ra của tôi. Tôi không muốn quên đi mình là ai, và vì sao mình tới đây. Tôi không muốn bị ru ngủ bằng những lời hay ý đẹp, những lời tụng ca, tôi không muốn người ta gán cho mình những tình cảm tốt đẹp. Tôi không phải là người tốt. Tôi là một con yêu tinh, đúng vậy. Mary trước kia đã nói với tôi như vậy. Nàng bảo rằng tôi tồn tại chỉ để ăn thịt người khác, để quyến rũ rồi ăn thịt họ.
Tôi tới đây để thấy. Để thấy khi biển hé mở, để lộ những vực thẳm, những kẽ nứt, và lớp tảo đen di động dưới lòng biển. Để nhìn những người chết đuối với đôi mắt đã bị đục khoét dưới đáy huyệt, nhìn những vực sâu nơi lắng đọng tàn tro hài cốt.
Sự tình cờ đã để một thiên thần xuất hiện trên con đường tôi đi, một đứa trẻ thơ ngây và lạ lùng. Đã rất lâu rồi, đây là lần đầu tiên tôi được gặp một con người.
Ở nhà tù, trong trung tâm cải tạo, tôi đã gặp đủ loại đàn ông và đàn bà, phần lớn đều là những kẻ bình thường. Chẳng độc ác hơn chẳng xấu xí hơn những kẻ khác. Còn giờ đây, khi tôi không còn trông đợi gì nữa... Nhưng tôi không muốn vậy. Tôi không muốn nữa. Đã quá muộn rồi. Tôi muốn cứ là mình của hiện tại, Philip Kyo, một nhà báo thất bại, một nhà văn kém cỏi, dù không muốn nhưng vẫn bị mắc bẫy do những bản năng xấu của mình giăng ra, bị kết án vì một tội mà mình không phạm phải. Không có hy vọng cải tà quy chính.
Trong phiên tòa, công tố viên đã nói về tôi, ông ta bảo tôi là một quái vật máu lạnh. “Anh ta không tham gia vào tội ác, thưa quý vị. Không, không, các vị có thể tin là vậy, vì chính nạn nhân đã làm chứng cho điều đó. Anh ta không làm gì cả. Anh ta chỉ nhìn. Và khi nạn nhân, người phụ nữ vô tội đáng thương kia, hướng mắt về phía anh ta, để cầu xin, van nài anh ta trong im lặng rằng hãy cứu giúp cô ấy, anh ta không động đậy. Anh ta chỉ nhìn. Thế thôi. Anh ta không cảm thấy bất kỳ một sự thương cảm, hay phẫn nộ nào. Anh ta nhìn. Nhìn, liệu điều đó có nghĩa là vắng mặt hay không? Anh ta có làm điều gì khác không? Anh ta có cảm thấy bị kích thích, có nói gì để cổ vũ cho những kẻ hiếp dâm hay không? Anh ta từ chối nói về chuyện đó, thưa quý vị, anh ta giam mình trong im lặng, để không phải trả lời các câu hỏi, để không cảm thấy có trách nhiệm, để không đối mặt với sự thật. Ngay cả khi anh ta không trả lời các câu hỏi, những chiếc kim của máy phát hiện nói dối đã nói thay anh ta, chúng tố cáo anh ta. Các vị hãy xem, với những câu hỏi mà chúng tôi đặt ra cho anh ta về trách nhiệm, về vụ hiếp dâm qua ủy quyền trong đó anh ta không chỉ là nhân chứng, mà là một trong số những kẻ gây án, máy đã ghi nhận hiện tượng giải phóng adrenaline, nhịp tim tăng nhanh, mồ hôi toát ra mang ý nghĩa tiết lộ. Một sự thú nhận, thưa quý vị bồi thẩm. Một sự thú nhận.”
Những cánh cửa khép lại. Trong sáu năm, tôi đã nghe tiếng cửa đóng mở, tiếng chốt cửa, tiếng khóa lạch cạch. Trong sáu năm, tôi đã bị nhốt trong sự im lặng. Những xà lim. Những hành lang. Những căn phòng ở bệnh viện tâm thần, chái nhà dành cho đám bệnh nhân nguy hiểm. Khi được thả tự do, sau ngần ấy năm, tôi không còn biết gì về thế giới nữa. Cùng với Mary, tôi tìm kiếm một nơi để ẩn náu. Với tôi là để chạy trốn quá khứ, còn với nàng là để thoát khỏi một cuộc tình tuyệt vọng. Tất cả vẫn còn có thể. Hồi ấy chúng tôi còn trẻ, chúng tôi đã nói đến chuyện có một đứa con. Và rồi một hôm, vì nàng say, nàng đã đi vào lòng biển và đã không trở về.
Tôi đã quay lại đất liền, để rút tiền ở ngân hàng, hoặc gửi một bức thư, tôi cũng không biết nữa. Tôi đi chuyến tàu buổi sáng, tầm tám giờ. Chiều hôm ấy, Mary đi vào lòng biển. Nàng là một tay bơi giỏi. Biển không có bão. Chỉ có đôi chút sóng lừng, là biển nổi gió như người ta vẫn thường gọi. Chắc là đợt thủy triều lớn cuối hè. Mary để lại áo quần trên bãi đá, nàng mặc bộ đồ bơi không tay bằng cao su, nàng buộc gọn mái tóc dài, nàng đeo kính nhạt màu và nàng bơi về phía mặt trời.
Vì sao tôi trở lại nơi này? Tất cả những chuyện ấy đã xảy ra từ rất lâu rồi, ở một cuộc đời khác. Tôi đã làm việc như hết thảy mọi người. Nghề báo, đã kết thúc rồi. Để sống sót, tôi nhận giảng dạy về ngôn ngữ tại một học viện ở Manila. Tôi từng môi giới chứng khoán, xuất khẩu thực phẩm khô, phân phối đất sét rải chuồng mèo, thậm chí tôi còn quản lý một quán bar ở Philippines, ở miền Nam, trên một bãi biển mà du khách Nhật Bản và Canada thường lui tới. Tôi quen biết nhiều phụ nữ, hầu hết là những gái làng chơi chuyên nghiệp, tôi từng mắc bệnh lậu ở Thái Lan, bị rận mu, có lúc tôi thậm chí còn ngỡ mình đã mắc sida, nhưng xét nghiệm máu âm tính. Lẽ ra tôi đã phải chết hai mươi lần rồi nhưng tôi vẫn đang ở đây. Đã từ lâu lắm rồi, tôi không còn điều gì giống như một gia đình. Lần cuối tôi nhận được tin tức về anh trai, khi ấy anh đang ở New Zealand, và đã kết hôn với một phụ nữ người Anh. Khi tôi ngồi tù, không ai đến thăm tôi. Không ai tìm tôi. Chắc chẳng có ai nhớ tôi.
Có lẽ tôi quay lại hòn đảo này để chết. Tôi không thực sự nghĩ đến điều đó, vì xét cho cùng thì chết ở đây hay ở nơi khác với tôi đều như nhau. Dù sao người ta cũng đâu có được trải nghiệm cái chết của mình, không phải tôi đã nói điều đó. Nhưng June đã hỏi tôi, khi chúng tôi gặp nhau để câu cá trên đê, và câu hỏi của cô bé đã khiến tôi suy nghĩ. Một đường vòng dài bắt đầu từ bờ biển này rồi cuối cùng quay trở lại đó. Điều mà tôi không lên kế hoạch trước - đã lâu rồi tôi không còn lên kế hoạch cho tương lai nữa. Điều tất yếu sẽ xảy đến. Không có bất kỳ lối thoát nào khác. Không có lời giải thích nào khác cho việc tôi trở lại nơi đáng nguyền rủa này.
Vì nàng, Mary, người mà tôi đã biết thân hình và đã hưởng thụ nó, giờ đây không còn lại gì, không một hình ảnh, không một ký ức có thể chạm tới được. Biển đã nuốt chửng tất cả, biển đã xóa đi thể xác và tinh thần của nàng khỏi mặt đất. Nàng không còn tồn tại, bởi vậy nàng chưa bao giờ tồn tại. Tôi đã tìm kiếm trong ký ức nhưng vô vọng, đã đi khắp những con đường mòn, ngồi trên những mỏm đá, mà chẳng nhận ra bất cứ điều gì. Vậy là đến lượt tôi phải chết. June có lý, tôi phải tìm ra nơi để chết, nhưng tôi không hề muốn chết đuối. Tôi biết chuyện đó diễn ra như thế nào, chúng tôi đã từng dìm vài người xuống nước trong những lần tác chiến, tôi đã chứng kiến cả việc ấy. Làm vậy để bắt họ khai. Tôi là thư ký, tôi nhìn và ghi vào sổ mấy điều rời rạc. Những thân thể bị đẩy vào chậu nước, cổ tay và mắt cá chân bị cùm, những khuôn mặt co giật vì sợ, tiếng thở khò khè. Những tiếng la hét. Tôi nhìn, tôi viết. Họ luôn khai ra, những gã kia bảo là họ hót! Không, đuối nước không dành cho tôi. Thà trèo lên đỉnh vách đá và nhảy xuống còn hơn. Cú va chạm với mặt biển cứng và đen y như một tấm gang đúc. Thân thể tôi nát tan, bị những dòng nước cuốn đi, thân thể tôi xé vụn dưới đáy sâu. Bởi vậy tôi đã nhiều lần đến chỗ vách đá hướng về phía mặt trời mọc. Tôi rất thích ý tưởng được chết trong khi ngắm cảnh bình minh. Dường như với tôi điều đó logic, và hợp lẽ. Giống như chết vào đúng giữa trưa. Khi mặt trời dừng lại trên thiên đỉnh vài mi li giây, bất động, suy tưởng về tận thế, rồi uể oải đi xuống phía chân trời, trong trang phục hoàng hôn diêm dúa.
Dù không muốn nhưng hằng ngày tôi đều tới cuộc hẹn. Chẳng phải là trớ trêu sao? Cuộc hẹn với một cô bé con. Gọi là hẹn cũng được, vì chúng tôi không bao giờ nói gì, nhất là lời chào tạm biệt, không bao giờ hẹn gặp ngày mai, chẳng có gì định trước. Với cái vẻ tự tin kỳ cục của một đứa trẻ ở tuổi đó, chính cô bé đã quyết định: “Không cần phải nói lời hẹn gặp lại đâu, vì đằng nào chúng ta cũng ở trên một hòn đảo, có thể trốn đi đâu được chứ?”
Chiều chiều, tôi ra chỗ con đê mang theo dụng cụ câu, tôi ngồi trên những tảng đá, giống một thứ bánh đường bằng bê tông có lũ hà bám vào. Tôi chuẩn bị lưỡi câu. Tôi đã thuộc bài, và biết rõ cách xâu con tôm từ đầu đến đuôi. Khi triều dâng, tôi quăng dây câu, và chờ đợi. Tôi đã luyện tập chút ít và giờ đã câu được cá, những con cá bống trắng, cá chào mào, và thi thoảng là một con cá thu đi lạc. Trên đê chỉ có mình tôi. Chỗ này không nhiều cá lắm, do là nơi những con phà qua lại. Thảng hoặc có một cặp du khách, cũng lạc đường, người đàn ông chụp ảnh cho người phụ nữ, hoặc có khi nhờ tôi chụp chung cho họ một tấm.
June đang ở đây. Cô bé đến lặng lẽ, như một con mèo. Cô bé ngồi trên những tảng đá bên cạnh tôi, và chúng tôi cứ ngồi như vậy một lúc lâu, chẳng nói năng gì. Nó cũng đã quyết định chúng tôi không bao giờ phải chào gặp gỡ, để thời gian cứ tiếp diễn không gián đoạn. Nó kể tiếp những gì đang nói ngày hôm trước, mà chưa nói xong. Hoặc bắt đầu một câu chuyện mới, với cô bé, thời gian không tồn tại, từ khi nó ra về vào ngày hôm trước cho đến giờ mới chỉ có một tiếng đồng hồ, nó chỉ sống trong hiện tại.
“Trong giấc mơ của cháu, có một con người lạ lùng ở dưới đáy biển, một cô gái to béo đang ngủ, một cô gái khổng lồ... Cô ấy ngủ dưới đáy biển và cháu bơi đến gần cô ấy, cháu nhận ra mắt cô ấy đang mở, đôi mắt to có màu xanh của cá chết, cô ấy nhìn cháu, còn cháu thì cố gắng thoát khỏi cô ấy, cháu bơi lùi lại, nhưng biển cứ đẩy cháu về phía cô ấy, cô ấy dang tay ra, thân hình bắt đầu động đậy, da cô ấy rung rung như lớp sương đông cứng, sợ lắm...”
Chính những giấc mơ của cô bé nối liền ngày này với ngày khác. Cô bé chỉ sống vì những giấc mơ. “Ngài kể cho cháu nghe về những giấc mơ của ngài đi.” Nhưng tôi chẳng bao giờ ngủ mơ. Tôi chỉ có thể kể cho cô bé về người phụ nữ mà tôi yêu, người đã đi vào lòng biển, và không bao giờ xuất hiện trở lại nữa. Khi tôi quyết định kể cho cô bé nghe chuyện đó, nó kêu lên: “Cô ấy chính là người cháu đã nhìn thấy đấy thưa ngài, cô gái to béo nằm dưới đáy biển ấy!” Tôi đáp với giọng chua cay: “Nhưng người phụ nữ ta kể với cháu đâu có to béo, và mắt cô ấy không xanh biếc.” June vẫn cố nài: “Không, đúng là cô ấy mà, cháu chắc chắn đấy, và nhất là cô ấy có thể đã thay đổi, mọi người đều thay đổi khi già đi mà!” Tôi không biết tại sao chuyện đó lại làm cô bé bối rối. June không chịu hài lòng với những vẻ bề ngoài. Cô bé có nếp nhăn giữa hai chân mày làm khuôn mặt tối đi, bỗng nhiên nó không còn dáng dấp của một đứa trẻ nữa. “Sao vậy, bé con? Tại sao lúc này cháu lại buồn thế?” Cô bé quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt, nhưng tôi thấy đôi vai nó rung lên vì thổn thức. “Sao cháu lại khóc?” Tôi vòng tay quanh người cô bé, ôm nó vào lòng, cảm nhận thân hình nó, chạm vào hai bờ vai tròn của nó. Cô bé giơ tay lên, úp hai lòng bàn tay che lấy mặt. Cô bé nói: “Bởi vì ngài sắp chết, ngài sắp ra đi và cháu chỉ còn lại một mình ở đây với những người cháu ghét.” Tôi gắng nói với nó: “Nhưng cháu ở với mẹ mà, cháu không ghét mẹ.” Cô bé không nghe tôi nói. Nước mắt vẫn lã chã rơi làm tóc dính bết vào miệng. Nó đặt nắm tay lên mí mắt để ngăn nước mắt trào ra. “Ánh mắt ngài thật buồn, cô bé nói rành rọt. Ánh mắt ấy nói với cháu rằng ngài sẽ chết, hoặc sẽ đi thật xa.”
Đúng lúc ấy, tôi bỗng cảm thấy mình tươi mới, dường như tất cả những năm tháng tôi đã không sống đều được dung thứ, cuốn bay theo gió. Nhờ những giọt nước mắt của một cô bé mười ba tuổi. Tôi ôm June chặt hơn một chút, quên đi mình là ai, cô bé là ai, nó một đứa trẻ, còn tôi một ông già. Tôi siết chặt June đến nỗi xương cô bé kêu răng rắc. “Ái, ái!” Cô bé không kêu to, mà chỉ khẽ nói, và tôi hôn lên trán nó, gần mái tóc bù xù hoang dã, tôi hôn lên chỗ gần môi, để cảm nhận những lọn tóc ướt đẫm, để nếm những giọt nước mắt của cô bé, đó là chất rượu thần của tuổi xuân tôi.