← Quay lại trang sách

Chương 8

Và thế đấy, tôi không yêu cầu mà bỗng nhiên hai chúng tôi bắt đầu nói về Chúa. Ngài Kyo, chắc chắn là không tin vào Chúa rồi. Ông thậm chí còn không muốn nhắc đến tên Chúa. Ông bảo: “Tại sao, chẳng lẽ lại có thứ gì chăng? Tại sao, chẳng lẽ tất cả những thứ này, trái đất, động vật và con người, biển cả, như vậy vẫn chưa đủ hay sao?”

Tôi chẳng biết trả lời thế nào, tôi không biết gì về cuộc sống. “Nhưng ngài không cảm thấy bên trong mình có cái gì đó khác ư? Còn cháu thì thấy, nó là một cục tròn nhỏ, ấm nóng ở bên trong cháu, ở đây, phía trên rốn, ngài không cảm thấy sao?” Trước khi ông kịp cười nhạo, tôi đã cầm lấy tay ông và đặt nó lên bụng mình, đúng vào chỗ ấy. “Ngài hãy nhắm mắt lại. Hãy nhắm mắt lại và ngài sẽ cảm nhận được cục nóng đó.” Ông đã làm như vậy, ông nhắm mắt ngồi yên, và tôi cảm thấy hơi ấm đi từ bụng mình đến lòng bàn tay ông, rồi quay trở lại. Tôi vô cùng chắc chắn là ông sẽ thấy được Chúa. Tôi vô cùng hạnh phúc khi ông không còn niềm ưu uất, nỗi tuyệt vọng. Tôi vô cùng tự hào vì đã tặng ông món quà ấy. Bây giờ thì ông không thể quên nó được nữa. Ngay cả khi chúng tôi có trở thành những người xa lạ với nhau, thì ông cũng sẽ nhớ mãi khoảnh khắc này, khi lối đi ấy đã mở ra tới chỗ ông, đi đến tận trái tim ông.

Ông đã xúc động, tôi nghĩ vậy. Ông rụt tay về, nhưng không nắm lại, ông đặt tay lên đùi như thể bàn tay ấy vẫn đang chứa đựng hơi ấm từ bụng tôi.

“June này, ta chỉ tin vào những gì mình nhìn thấy, ta là như vậy đấy.” Ông vẫn mang bộ mặt u tối, đôi mắt vô hình. “Có lẽ ta đã quá già để thay đổi rồi.” Tôi lại cầm lấy bàn tay ông, chỉ để siết chặt nó trong tay mình. “Nhưng ngài đã cảm thấy, đúng không? Ngài đã cảm nhận thấy điều đó trong mình phải không?” Ông không trả lời. Ông không thể nói ra.

“Ta cảm thấy những gì bên trong cháu, nhưng ta không tin vào điều gì khác ngoài cháu, June ạ. Ta nói với cháu rồi, ta đã già và chai sạn, đừng cố bắt ta phải nói ra điều ta không thể nói.” Ông tiếp lời, giọng nhỏ nhẹ, từng từ một. “Nhưng còn cháu... Cháu là một cô bé tốt... Cháu chân thật... Ta tin những gì cháu nói... Ta tin cháu biết những điều ấy... Cháu đã được chọn, đúng vậy, được chọn cho những điều ấy.” Ông ở rất gần tôi, gần hơn bất cứ người nào hết, thậm chí là mẹ tôi hay mục sư David. Như thể ở ngưỡng cửa, chỉ cần một bước nữa thôi. Nhưng đúng lúc ấy, tôi biết ông sẽ không làm thế, ông sẽ không bước qua cánh cửa. Ông đã nói ra điều đó: “Ta ở phía xấu xa của thế giới, June ạ. Ta sẽ chẳng bao giờ đứng cùng phía với cháu.”

Tôi nói nhỏ mà không nhìn ông. Có lẽ là để ông hiểu, hay có lẽ để tôi nhớ kỹ hơn. “Cháu chưa kể chuyện này với ai, không ai khác ngoài ngài. Nhưng ngài không bao giờ được nhắc lại chuyện này, cũng không được chế giễu cháu, ngài hứa chứ?” Ông gật đầu. Có lẽ ông nghĩ rằng tôi sẽ kể cho ông nghe những câu chuyện nhỏ ngọt ngào mà bọn trẻ con đôi khi bịa ra để dỗ dành người già.

“Chuyện này xảy ra trong nhà thờ, sau khi hát xong, cháu ở lại một mình, mọi người đã về hết, cả mẹ cháu cũng vậy. Cháu đã hát trong đội hợp xướng, và cháu ngồi trên ghế của mình, cháu lạnh, cháu cảm thấy cô đơn và buồn, và rồi lúc sau, ở đây, trong bụng mình, cháu cảm thấy hơi ấm nóng dần lên, nó chạy trong cơ thể cháu, cháu cảm nhận được cục nóng đó, cháu thấy mình đang trôi, cháu nhắm mắt và cảm thấy hơi nóng ấy tận sâu trong mình, rồi cháu không còn sợ nữa, cháu không còn cô đơn nữa, có một tiếng nói phát ra bên trong cháu, trong tâm trí cháu, nó chỉ nói toàn những gì cháu hiểu được, không phải là những từ ngữ thông thường, đó là tiếng nói chỉ dành riêng cho cháu, cho một mình cháu.”

Tôi nhắm mắt, và dường như tôi vẫn nghe thấy tiếng nói ấy, ở đó, bên bờ biển. Đó là một giọng nói không trầm không bổng, một giọng lao xao, vo ve. Tôi những muốn Ngài Kyo nghe thấy tiếng nói ấy, nếu nghe thấy nó, chắc ông sẽ không bao giờ còn như trước nữa. Liệu ông có nghe thấy không? Phải chăng là tôi đang nói? Tôi đặt tay ông lên bụng mình, bàn tay to và khỏe của ông, và giọng nói ấy chắc sẽ đi qua những ngón tay dài, qua lòng bàn tay mở ra, bàn tay ông hẳn có nghe thấy giọng nói đang thì thầm những lời rung động, những lời chậm rãi và nặng trĩu, những lời sẽ không chấm dứt. Ông là người duy nhất biết bí mật của tôi, tôi chưa từng nói chuyện này với mẹ hay bất cứ ai, chưa từng kể với mục sư. Nhưng còn ông, Ngài Kyo, ông đang đứng bên bờ, chỉ cần bước một bước nữa thôi là mọi thứ sẽ thay đổi. Có một lát, tôi thấy dường như ông đã nghe thấy tôi, rồi ông rụt tay lại, và nhích ra xa. Ông sợ những gì thiên hạ sẽ nghĩ nếu họ nhìn thấy chúng tôi, bàn tay ông đặt trên bụng một cô bé mười ba tuổi. Ông đã tránh ra, mặt tối sầm, đôi mắt không ánh sáng. Ông bảo: “Ta không thể, June ạ. Ta không phải là người tốt. Ta không thể là người mà cháu mong đợi, ta chỉ là một người như bao người khác.” Ông đã lùi lại, lưng dựa vào một mỏm đá. Ánh hoàng hôn như một đám sương mù giăng xuống mặt ông. Vào ban đêm, con người ta không còn là chính mình, điều đó tôi đã hiểu ra từ lâu, khi cái gã ấy đến ở nhà chúng tôi, và mẹ tôi cùng gã thì thầm những lời ngọt ngào. “Rồi cháu sẽ sống cuộc đời của cháu, cháu sẽ rời khỏi đảo này và đi ra thế giới. Cháu sẽ quên ta, sẽ quên tất cả, cháu sẽ trở thành một người khác, June ạ.” Những lời ông nói khiến tôi rất đau lòng. Những lời ấy đâm xuyên qua người và cắm sâu vào tim tôi. Tại sao ông không lắng nghe tôi? “Tại sao ngài không tin cháu? Cháu...” Nhưng nước mắt ngăn tôi thốt nên lời. Ông nhoài tới định ôm tôi vào vòng tay, nhưng tôi không muốn nữa. Không bao giờ muốn nữa. Tôi không cần sự âu yếm của ông. Tôi không phải là con bé đã làm hỏng mất đồ chơi, tôi không phải là người phụ nữ si tình bị người ta bỏ rơi. Muốn vậy, ông chỉ cần tới gặp cô dược sĩ của ông. Đây là chuyện khác, thế mà ông đã không hiểu gì hết. Tôi bỏ chạy, hướng về phía nhà mình. Tôi chạy ngược sườn dốc lên mạn cao của đảo, tôi muốn hét lên: “Cháu ghét ngài!” Tôi muốn chết. Lũ chó sủa trong những ngôi nhà, trời đã tối, đèn đã thắp, vài chiếc xe hơi từ từ lướt qua.

Chúng tôi đã có một đêm bên nhau. Đừng nghĩ rằng chúng tôi là tình nhân rồi mọi chuyện. Tranh thủ lúc mẹ đang bận bịu với gã bồ, tôi nhảy qua cửa sổ và chạy băng qua những cánh đồng đến tận bờ biển, nơi Ngài Kyo dựng chiếc lều quân dụng nhỏ. Khi trời không có gió, và biển lặng, ông tới ngủ ở đó, để nghe tiếng sóng vỗ. Ông không biết là tôi sẽ đến, nhưng không có vẻ ngạc nhiên khi tôi dừng chân trước cửa lều. Tôi không biết ông có uống gì không, nhưng ông có vẻ vui, ông mỉm cười. “Vào đi, ông nói, cháu không muốn đứng mãi ngoài đó đấy chứ?” Bên trong lều rất nhỏ, với một cái mái thấp tè. Các mặt lều đính những loại túi may bằng vải chống muỗi. Khi ngồi xuống đất, không khí nhẹ nhàng lưu thông, và ta nghe được mọi âm thanh của biển. Mái lều đung đưa trong gió. Đêm nay, trời có trăng và nhiều sao, một ánh sáng mờ êm dịu chiếu vào bên trong lều. Thật dễ chịu, tôi không muốn nói chuyện. Chúng tôi ngồi yên, với cửa lều mở khẽ va đập trong gió, lắng nghe và nhìn ngắm. Tôi nghe tiếng tim mình đập trong lồng ngực, chậm, thật chậm. Tôi cũng nghe thấy cả tiếng thở của ông, lướt qua thật sâu, ra vào chuyển động như những con sóng. Thật dễ chịu, tôi không muốn động đậy. Tôi muốn cứ thế này mãi, cho tới sáng. Để lắng nghe và cảm nhận đêm tối, biển cả, gió, mùi của cát và tảo biển, tiếng nhịp tim tôi và hơi thở của Ngài Kyo, cho đến cuối, đến sáng mai. Tôi không muốn ngủ. Có lúc, Ngài Kyo đi ra ngoài, bước về phía những đụn cát. Tôi nghĩ ông đi tiểu ở nhà vệ sinh công cộng. Rồi ông trở lại, mang khuôn mặt ướt đẫm nước biển. Đến lượt tôi đi ra tận bờ, tôi cởi giày và lội xuống biển, còn ông ở bên tôi. Tôi còn đang ngập ngừng thì ông đã bế tôi lên và cùng tôi bước đi trong biển. Tôi cảm nhận nước biển đang ấm lên trong ống quần, dưới lớp áo thun của mình. Ông lội nước đến ngang người. Bãi biển nhợt nhạt dưới ánh trăng, nhưng dưới nước có rất nhiều con cá trong suốt đang lượn quanh chúng tôi.

Khi trở lại lều, tôi run lên vì lạnh. Ngài Kyo đã giúp tôi cởi quần áo, rồi chà xát khắp người để sưởi ấm cho tôi. Tôi nhớ đôi tay to lớn của ông xoa trên lưng, trên vai tôi. Một lúc sau, tôi buồn ngủ, tôi cuộn mình trong chiếc khăn tắm và nằm sát bên ông, hai tay choàng qua người ông. Tôi không ngủ, nhưng cứ nằm yên như vậy, mắt mở to, không chờ đợi. Nhiều giờ trôi qua, trăng đã lẩn sau những đám mây, nước biển dâng lên gần cửa lều đến mức tôi cảm nhận được mùi của nó. Tôi chưa từng trải qua điều gì như vậy. Tôi đã quay về một thời gian khác, thời bố mẹ tôi yêu nhau. Được bế trong vòng tay người đàn ông này, tôi nhẹ lướt vào thời gian ấy. Có lúc, không hiểu vì sao, tôi quay mặt về phía ông. Ngài Kyo cúi xuống tôi, khuôn mặt u tối không thấy rõ. Nhưng đôi mắt ông sáng rực, đôi mắt ấy nhìn tôi, nghiến ngấu tôi. Tôi đã rùng mình, vì sợ hay vì tức giận, tôi cũng không biết nữa, nhưng ông giữ chặt tôi trong tay, và tôi giấu mặt đi để không nhìn thấy ông nữa. Thế rồi, sáng ra, tôi vội vàng mặc quần áo và chạy một mạch qua những cánh đồng chìm trong sương mù.

Ngài Kyo đã già rồi. Ông cần tôi. Tôi quyết định kể từ hôm nay, ông sẽ là người đàn ông của đời tôi. Tôi biết các người sẽ nói gì. Khoảng cách đến như thế về tuổi tác giữa ông và tôi khiến ý tưởng này trở nên ngớ ngẩn, điên rồ và bất khả. Đúng là như vậy, đúng là có sự chênh lệch ấy, chính xác là bốn mươi lăm tuổi. Nhưng khi tôi nói ông sẽ là người đàn ông của đời tôi, tôi không có ý là mãi mãi. Có điều gì tồn tại mãi mãi được không? Ngay cả cây cối cũng không tồn tại mãi được. Ngay cả những vì sao. Thầy giáo khoa học của chúng tôi đã nói như vậy: “Những ngôi sao mà các em nhìn thấy trên trời ở xa đến mức một số ngôi đã chết mà ánh sáng chúng phát ra vẫn tiếp tục đi tới trái đất trong hàng triệu năm nữa.” Tôi thừa biết Ngài Kyo rồi sẽ chết. Một hôm, trong khi đang ngắm biển và những con sóng, ông đã thổ lộ với tôi điều này: “June à, cháu không nên yêu ta, bởi vì ta là một người chết đang hưởng án treo.” Thấy tôi có vẻ không hiểu, ông nói thêm: “Ta đã chết từ lâu rồi, ta đã gây ra một chuyện khủng khiếp, và không thể sửa chữa được. Mọi thứ ta nhìn thấy đều nói với ta về cái chết, cháu có hiểu không?” Tôi đáp: “Cháu không biết tại sao ngài lại nói như vậy, sự sống là một quà tặng cơ mà.” Ông nói: “Hãy nhìn biển mà xem. Nó dường như đang sống, nó di chuyển, chứa đầy tôm cá và sò ốc, mẹ cháu là một người đàn bà của biển, hằng ngày bà mò lặn dưới đó để cháu không phải chết đói. Nhưng biển cũng là một vực thẳm nơi mọi thứ biến mất, nơi mọi thứ bị lãng quên. Bởi vậy ta thường ra bờ biển mỗi ngày, để ngắm biển, để không quên, để biết rằng ta phải chết và biến mất.” Tôi ghi nhớ lời ông nói. Đó là những bài học thật nhất mà tôi từng được nghe. Không ai nói điều này ở trường hay nhà thờ cả. Người lớn không ngừng kể những điều dối trá. Họ cả quyết như đinh đóng cột điều mình nói, nhưng họ nói dối, họ chẳng biết gì. Ngài Kyo là người nói thật. Ông không tìm cách tô vẽ cuộc sống. Ông không ngọt ngào. Ông đắng và mạnh như cà phê. Giờ đây tôi mang vị cà phê trong miệng, vị đắng ấy, và tôi không thể sống thiếu nó. Chính Ngài Kyo đã ban tặng nó cho tôi, vào cái đêm tôi nằm nép vào người ông dưới mái lều. Bây giờ, khi tan học, tôi không còn đi cùng với bọn trẻ vào tiệm tạp hóa mua kẹo mút hay kem que. Tôi tới quán cà phê-pizza của một anh chàng đồng tính, như người ta đồn, nhưng tôi thây kệ, anh ấy là người tử tế và phục vụ tôi một tách cà phê đen mà không hỏi han gì. Khi tôi kể chuyện này với Ngài Kyo, ông mỉm cười: “Đồ uống đó không dành cho trẻ con!” Tôi đáp lại cộc cằn: “Nhưng cháu có còn là trẻ con nữa đâu!” Tôi không nói cho ông biết quyết định của mình, rằng ông sẽ là người đàn ông của đời tôi. Tôi không muốn đột ngột hấp tấp vì ông dễ phát hoảng. Có thể thực ra ông là người rụt rè, có thể ông sợ người đời đàm tiếu. Không, tôi không nghĩ vậy. Ngài Kyo thờ ơ với chuyện ngồi lê đôi mách, với điều đồn thổi, với mọi lời độc mồm độc miệng. Ông quả cảm. Vả chăng, ông từng là lính. Ông không kể với tôi như vậy, nhưng tôi hơi ngờ chuyện đó. Cách ông đi, đứng. Luôn thẳng băng, cả ánh mắt cũng vậy, cái cách ông đột ngột nhìn ta chằm chằm, không chớp mắt như thể muốn đọc suy nghĩ của ta, hay cân nhắc trong đầu ý nghĩa lời nói của ta. Cho nên mọi người sợ ông, họ dè chừng. Bố tôi cũng là lính, mẹ không muốn kể nhưng tôi tin chắc như vậy. Bố là lính, bố gặp mẹ rồi họ yêu nhau. Bố không bỏ tôi, không đâu, ông không thể làm việc đó được, có chuyện gì đó đã xảy ra với ông rồi ông chết, và thinh lặng bao phủ lên ông.

Người duy nhất Ngài Kyo giao du là cô dược sĩ, như tôi đã nói, cô ta thuộc loại đàn bà thích ăn tươi nuốt sống đàn ông và bắt họ làm nô lệ, nhưng cô ta không thể làm thế với Ngài Kyo vì tôi đã quyết định ông thuộc về tôi.

Chắc chắn cô dược sĩ có lợi thế (nhất là nếu ông cần đến thuốc men) nhưng cô ta không thể chăm lo cho Ngài Kyo tốt như tôi được. Vả chăng, trước đó, vào một chiều mưa, chúng tôi trú trong lều, trên bãi biển vắng bóng du khách. Ông buồn và ủ rũ quá nên tôi bắt đầu xoa bóp cho ông, mà không cần xin phép. Tôi biết cách xoa bóp. Hồi nhỏ, tôi đã tập xoa bóp cho mẹ. Buổi tối, khi đi biển về, mẹ đau ê ẩm khắp người, mẹ nằm duỗi dài và bảo: “Con làm đi, càng mạnh càng tốt, chỗ này, này và này.” Ngài Kyo bị bất ngờ nhưng để mặc tôi làm. Ông cởi chiếc áo vest đen ra, và tôi xoa bóp lưng ông qua lần áo sơ mi. Tôi quỳ bên trên người ông và đưa ngón tay dọc theo các bắp thịt, hai bên cột sống, trên gáy, tới tận chân tóc ông. Chúng tôi trú trong lều, bóng tối dần buông. Tôi cho rằng Ngài Kyo đã ngủ thiếp đi, vì ông đã nằm nghiêng người trên cát, và tôi cảm thấy hơi thở của ông trở nên êm ả hơn. Tôi nghĩ khi xoa bóp cổ và đầu tôi đã có thể lôi ra những suy nghĩ u tối, chết chóc trong ông, nắm bắt chúng trong tay, rồi chúng đã bị gió cuốn đi và tan vào biển. Trời đã tối hẳn, một đám sương mù màu trắng chia cắt bầu trời, ánh nắng vẫn còn kéo một vệt lớn phía chân trời. Qua cửa lều, tôi ngắm biển và trời rồi thầm nghĩ mình có thể ở bên Ngài Kyo mãi mãi, ban đầu làm con gái ông, rồi mai này khi lớn lên có thể thành vợ ông. Ý nghĩ ấy làm tôi vừa lòng dù tôi không thể thổ lộ với ông ngay. Tôi tưởng tượng sẽ đánh thức Ngài Kyo và cho ông hay: “Cháu quyết định mai sau sẽ lấy ngài đấy.” Tôi mỉm cười với ý nghĩ ấy, mọi chuyện thành rõ ràng, tôi đã mất thời gian mới hiểu ra. Tôi tiếp tục xoa bóp, nhưng nhẹ nhàng hơn, để ông không tỉnh giấc.

Nhưng chuyện không diễn ra đúng như vậy. Khi thấy trời tối, Ngài Kyo đứng dậy, khoác áo vest và đội mũ, ông kéo tay tôi để băng gấp qua cánh đồng về làng. Ông dắt tôi tới trước cửa nhà rồi bỏ đi, và tôi giận dữ vì tin chắc ông sẽ không quay lại khách sạn mà đi gặp cô ả dược sĩ. Đã thế, khi tôi vào nhà, Brown, gã bồ của mẹ, còn hỏi: “Mày chui rúc ở đâu?” như thể gã có quyền tra vấn tôi. Gã muốn ra vẻ quan trọng vì mẹ đang tới, mẹ vừa bước ra khỏi phòng ngủ, có vẻ giận dữ, mẹ lớn tiếng, tôi cũng hét lên nói rằng sẽ làm theo ý mình, mẹ đã tát tôi, đó là lần đầu tiên. Tôi xấu hổ tột cùng khi mẹ tát tôi trước mặt gã khốn ấy, tôi đi vào phòng nằm, tôi cuộn tròn trong chăn. Má tôi bỏng rát nhưng tôi đã quyết sẽ không bao giờ khóc nữa. Tôi ghét mẹ, tôi hận gã bồ hay tỏ vẻ quan trọng của mẹ, khi mẹ đi vắng gã nhìn ngực tôi không biết ngượng.

Rồi tôi trèo cửa sổ ra ngoài và bước đi trong đêm tối. Lúc qua trước phòng ngủ, tôi nghe thấy tiếng mẹ nói và giọng của gã khốn kia, rồi tiếng khóc nức nở, toàn diễn trò. Gã hẳn đang ra sức an ủi mẹ, vuốt tóc, rồi sau đó tôi biết mọi chuyện kết thúc như thế nào, đúng ra tôi những mong mình đừng biết thì hơn, những tiếng thở dài rồi tiếng “à hà hà” rồi “hừm” - chính gã tạo ra thứ âm thanh đó bằng mũi, như thể gã dùng tay bịt để hỉ mũi. Từ lúc gã tới ở nhà chúng tôi, tôi có thói quen đi dạo vào ban đêm mà mẹ không hay biết. Tôi đi theo lối mòn nhỏ qua ruộng khoai, không bao giờ ra đường lớn vì ở đó có thể gặp những gã say, hay viên cảnh sát đi tuần. Tôi ra tới biển. Đêm đó không trăng, bầu trời lúc ẩn lúc hiện sau những đám mây. Tôi ngồi ngắm sao trong một hốc đá, gần nơi những người đàn bà của biển thay đồ. Tôi còn tìm được một bãi sỏi cát đen, và đào một hố nhỏ để tránh gió. Tôi ngắm trời, nghe biển. Sau vụ to tiếng với mẹ, tim tôi đập thình thịch. Tôi đợi bầu trời làm mình tĩnh tâm như mọi lần. Nhưng việc này tốn nhiều thời gian. Tôi dõi mắt theo những vì sao, chúng trượt ra đằng sau, mặt đất sa xuống. Tôi thấy chóng mặt. Tôi nghĩ rằng cả mình nữa, đêm nay mình có thể chết, thủy triều sẽ nuốt gọn xác mình, mọi người sẽ không tìm thấy gì của mình, thậm chí một chiếc giày cũng không!

Tôi nghĩ đến người đàn bà mà Ngài Kyo nói tới, người mà ông tới đây tìm kiếm. Hình như chính cô ấy đang gọi tôi, sâu thẳm trong giấc mơ. Cô muốn tôi đến gặp cô dưới biển. Tôi nghĩ tới đôi mắt mở trừng trừng của cô gái to béo trắng toát, tới ánh mắt của cô. Tôi cảm thấy rùng mình, thấy một hơi thở lạnh lẽo, thấy thần Chết lướt qua. Tôi chưa từng cảm thấy điều này trước đây. Tôi không cử động nổi nữa, tôi bị hàng ngàn sợi dây, sợi tảo, sợi thừng tết bằng tóc cột chặt xuống bãi cát giống như Gulliver. Tôi nghe thấy tim mình đập, thấy người sởn gai ốc từ chân tới đầu. “Ngài, ngài ơi, sao ngài không ở đây?... Sao không trả lời cháu? Cháu xin ngài...” Tôi rên rỉ, tôi mong ông sẽ nghe thấy, ông sẽ xuất hiện giữa những mỏm đá, mặc bộ trang phục đen bất di bất dịch.

Bầu trời bị che phủ, mưa khẽ rơi, tôi cảm thấy những giọt nước lạnh băng chảy trên tóc rồi thấm đẫm gáy tôi. Từ biển dâng lên một màn sương mù dày đặc mà những ánh đèn trên tàu câu mực chỉ lờ mờ rọi qua. Tôi nghe thấy giọng nói của những ngư dân trên mặt nước, một chiếc đài lạo xạo tiếng nhạc. Có thứ gì đó đang ngấm vào người tôi qua cát, qua nước mưa, qua biển, thứ gì đó tối tăm và buồn bã xâm lấn trái tim và chiếm lĩnh mọi ngóc ngách tâm trí tôi, tôi không rõ đó là gì, thứ gì đó thuộc về một người khác, một người đàn bà khác, một cái bóng, một hơi thở, một màn sương. “Cháu cầu xin ngài... cháu cầu xin ngài.” Tôi rên rỉ, tôi xoay trở trên cát để thoát khỏi cái bóng ấy. Giờ đây tôi nhớ lại, có lúc mình đã kêu lên. Trong đêm tối, tiếng kêu của loài vật, tiếng kêu của bò! “Ọooooo, ọoooooo!” Nó giống y chang chuyện tôi kể về người hóa bò lang thang đêm đêm trên trảng đất. Lũ chó rè rè giọng sủa đáp lời tôi, cả chúng cũng sợ. Tôi kêu lên, rồi lịm đi. Sớm hôm sau, chính bà lão Kando tìm thấy tôi. Hình như tôi lạnh toát và trắng nhợt nên bà đinh ninh tôi chết trôi dạt vào bờ. Bà cho tôi uống rượu khoai của bà, chà xát hai gan bàn tay và má tôi cho tới lúc tôi mở được mắt. Bà nói chuyện với tôi, nhưng tôi không hiểu được thổ ngữ, nhất là bà còn khuyết răng cửa nữa. Những người đàn bà khác của biển lần lượt tới, mang theo xe đẩy và đồ bơi. Tôi nghĩ họ đang tính cho tôi ngồi vào một chiếc xe đẩy về làng, nhưng tôi đã tỉnh lại và bảo rằng mình ổn, rồi loạng choạng đi về. Trên đường đi, mẹ đã được tin, mẹ ôm choàng lấy tôi, nhưng tôi cao lớn hơn nên hai mẹ con âu yếm ôm chặt lấy nhau cùng đi về nhà. Gã khốn đã bỏ đi, gã nên làm thế thì hơn. Tôi ngủ cả sáng, buổi chiều Ngài Kyo tới. Đây là lần đầu ông tới nhà. Ông mặc bộ com lê đen, còn mẹ tôi cung kính tiếp ông, như thể ông là một thầy giáo hay thanh tra. Ông còn để lại danh thiếp, mẹ đặt trên bàn, sau đó tôi đọc được, thật lạ, nó dường như là tên của một người khác:

PHILIP KYO

Nhà văn - nhà báo

Tôi thầm nghĩ sau này có thể dùng nó để trêu ông, hoặc để chơi trò dịch chuyển, đến lượt ngài đến lượt cháu.

Mẹ trang trọng mang trà và bánh quy ra, ông nhấp môi uống trà nhưng không đụng tới bánh. Ông trầm mặc và lịch sự như thường lệ. Ông hỏi mẹ về việc lặn bắt bào ngư, liệu ông có thực sự quan tâm tới việc này hay chỉ làm ra vẻ thế? Tôi thích thú khi người lớn bối rối, khi họ không biết nói gì. Bởi tôi biết rõ mẹ muốn hỏi ông điều gì. Ý định của ông thế nào, ông muốn làm gì với tôi, liệu ông có chăm lo cho tương lai của tôi không? v.v., mọi thứ mà người mẹ thường đòi hỏi cho đứa con gái, còn ông không muốn trả lời, dù sao chắc ông cũng không biết nói gì, bởi ông vẫn chưa biết chúng tôi sẽ ở bên nhau cả đời, và dĩ nhiên ông không là cha tôi, nhưng lại quá già để làm chồng tôi.

Dù gì, mẹ vẫn hỏi xem ông ở đảo tới khi nào, ông lạnh lùng trả lời: “Không lâu nữa. Tôi cảm thấy mình sẽ không ở đây lâu được.” Ông dửng dưng nói những lời đó, và tựa như hàng ngàn nhát dao đâm vào tim tôi, tôi nghĩ mình đã tái mặt đi, tôi đứng dậy rồi chạy vào phòng lẩn trốn, tôi xấu hổ vì sự yếu đuối, hèn nhát của bản thân. Cùng lúc đó còn là sự phản bội, bởi vì mới đây thôi Ngài Kyo còn nói với tôi là muốn được chết ở đây, nhưng tất cả đã bị quên lãng, hoặc đó chỉ là lời nói suông. Nhưng tôi không muốn ông thấy tôi xúc động, tôi vốn ghét thể hiện cảm xúc của bản thân, nhất là những cảm xúc yếu đuối và hèn nhát. Mẹ ngồi nói chuyện với Ngài Kyo một hồi, tôi tưởng tượng mẹ xin ông thứ lỗi cho tôi, nói rằng tôi rất mệt, và mong ông đừng phật ý. Rồi mẹ mở cửa phòng tôi và bảo: “Thầy giáo sắp về, con không chào thầy à?” Với mẹ, cứ người già và thanh lịch thì đều là giáo viên. Tôi không đáp lời, nhưng trước khi về, Ngài Kyo có nói: “Không việc gì đâu, chị đừng làm phiền cháu.” Như thể mọi sự chỉ là chuyện xã giao. Mẹ tiễn ông ra cổng, tôi nghe giọng mẹ vui vẻ nhưng lạc điệu: “Xin cảm ơn thầy, cảm ơn, chào thầy ạ.” Còn tôi nghĩ ông đã cho mẹ tiền nên mẹ mới cảm ơn bằng cái giọng khúm núm kỳ cục như thế, lảnh lót hơn bình thường, không hề giống giọng mẹ lúc mẹ tát tôi.

Ngay lúc ấy, tôi không nói gì, nhưng sau một hồi tôi nhìn thẳng vào mắt mẹ. “Ông ấy cho mẹ tiền phải không?” Thay vì trả lời, mẹ làm bộ hiền từ: “Chúng ta thật là may, Chúa đã nghe thấy lời cầu nguyện của mẹ con mình và phái thầy giáo tới giúp con.”

Tôi hiểu mẹ ám chỉ bài giảng đạo của mục sư David. Chủ nhật vừa rồi ông có kể câu chuyện về chiến tranh, khi không còn gì để ăn, nhưng người ta phải tổ chức một ngày lễ hay một đám cưới gì đó, tôi không rõ nữa, người dân cầu nguyện, rồi đột ngột có người gõ cửa nhà thờ, đó là nhà hàng gà quay gửi tới năm mươi suất ăn hộp, có thịt gà và khoai tây chiên, thậm chí cả tương ớt và Coca, mọi người được ăn uống thỏa thích, và người ta còn cho cả ăn mày những phần thừa nữa.

Tôi hỏi mẹ: “Ông ấy cho mẹ bao nhiêu?” Mẹ vẫn không trả lời, nhưng bảo tôi phải nghe lời khuyên của ông và phải đến trường rồi sau đó học đại học để có địa vị cao. “Nhưng nếu con muốn làm người lặn bắt bào ngư thì sao?” Tôi chực gào lên, nhưng mẹ không chịu tranh cãi. Tôi giận tới mức nghĩ rằng sẽ không bao giờ gặp lại cái Ngài ấy nữa.

Bóng đêm tràn ngập đảo. Tối tối, hết vũng này tới vũng khác, hết vết nứt này tới vết nứt khác. Bóng đêm từ biển ra, lạnh và âm u, hòa trộn vào sự sống ấm áp. Với tôi dường như mọi sự đã đổi thay, mọi sự đều chất chứa bóng tối và hao mòn. Hằng ngày tôi ra bờ biển sau giờ học. Tôi không biết mình đang tìm kiếm điều gì. Dường như tôi không còn học được gì ở người lớn nữa. Tôi biết điều họ sắp nói ngay cả khi họ chưa mở miệng, tôi đọc được trong mắt họ. Lợi ích, chỉ có lợi ích mà thôi. Chuyện tiền nong, của cải, tình dục, những thứ người ta sở hữu.

Có một bí mật trong lòng biển, một bí mật mà có lẽ tôi không nên khám phá, nhưng mỗi ngày tôi lại tìm kiếm ráo riết hơn. Tôi thấy dấu vết, trong những hốc đá đen, trên cát, tôi nghe thấy những giọng nói lẩm bẩm. Tôi bịt tai lại để không nghe thấy nữa, nhưng tiếng thì thầm nhập vào tôi, choán đầy trí óc. Những giọng nói ấy bảo: hãy tới đây, hãy trở lại đây với chúng ta, lại đây với thế giới của ngươi, từ giờ trở đi nó thuộc về ngươi. Những giọng nói ấy lên tiếng, lặp lại không biết mệt, hết đợt này tới đợt khác: ngươi còn đợi gì nữa? Chúng còn trò chuyện với gió. Ban đêm tôi không tài nào ngủ được. Tôi trèo qua cửa sổ, tôi dạo bước trên trảng đất. Mới đây thôi, chắc tôi sẽ sợ chết khiếp. Chỉ một cái bóng, chỉ một bụi cây nhỏ cũng có thể khiến tôi rùng mình. Nhưng giờ đây tôi chẳng còn sợ nữa. Một người khác đã nhập vào tôi. Một người khác đã được sinh ra trong thân xác tôi. Tôi không biết đó là ai, không biết sự thể diễn ra thế nào. Từng chút, từng chút một mà tôi không hay biết. Những người khác không biết. Ở trường, Jo vẫn lăng nhục tôi, nhưng khi tôi nhìn nó thì nó lảng mắt đi chỗ khác. Qua gương tôi phát hiện ra một tia sáng màu xanh lục ở tròng đen mắt mình, một tia lạnh lẽo. Những điểm đen của đồng tử mắt tôi ngập trong một thứ nước lạnh băng. Màu nước biển mùa đông. Vì thế thằng Jo sợ ánh mắt tôi. Khi tôi soi gương, tim tôi bắt đầu đập nhanh và mạnh hơn, vì đó không phải đôi mắt của tôi .

Tôi cảm thấy mình già, cảm thấy mình nặng nề và xấu xí, tôi không chạy được như trước, không còn nhảy qua bờ ruộng được nữa. Thêm vào đó, tới kỳ kinh nguyệt, tôi có cảm giác chướng bụng. Tôi ngồi trong sân trường, trên ghế băng, dưới ánh nắng, và xem bọn con gái con trai chạy tán loạn, xô nhau nô đùa, tán tỉnh nhau trong góc sân. Giọng chúng lanh lảnh. Giọng ấy phát ra những tiếng kêu của loài vật. Còn tôi, giọng trở nên trầm, nó làm tôi rát cổ họng. “Trò bị sao vậy? Trò ốm à?” Đó là thầy Andy, giám thị tôi rất quý, thầy cao và gầy, giống loài chim hay đậu lưng bò. Thầy đứng trước mặt tôi, thân hình mảnh khảnh chắn ánh mặt trời, cứ như một thân cây nhỏ. Tôi không biết nói gì. Tôi đáp với giọng khó chịu: “Thầy đừng che mất nắng của em.”

Khi về nhà, sau giờ học, tôi không trò chuyện với ai. Mẹ nhìn tôi bằng ánh mắt lạ lùng, tôi không biết mẹ giận dữ hay lo lắng. Có thể mẹ sợ tôi thay đổi giới tính! Hình như Ngài Kyo đã tới nhà tôi hai lần. Ông có nói đến tương lai của tôi không? Tôi suýt đã hỏi: “Tháng này ông ấy cho mẹ bao nhiêu tiền?”

Những người duy nhất tôi còn tới thăm là những người đàn bà của biển. Đặc biệt là bà lão Kando. Tôi đi bộ ra tận chỗ túp lều, ngồi xuống nền xi măng ẩm ướt và tôi đợi họ nhô lên từ biển. Rốt cuộc, tôi cho rằng họ đã chấp nhận tôi, dù tôi là người ngoại quốc. Thỉnh thoảng họ cho tôi lặn cùng. Tôi chui vào bộ đồ lặn cao su, hơi rộng bụng và mông, nhưng vẫn ổn, tôi đeo đai lưng giắt chì, đeo mặt nạ che mắt và miệng, rồi trườn xuống nước lạnh. Ngay lập tức tôi có cảm giác bị dòng nước túm lấy, tôi trườn xuống đáy biển cùng các bà. Tôi dùng tay không gỡ sò ốc, sao biển, tôi bỏ chúng vào một túi lưới nhỏ. Thinh lặng ép chặt tai tôi, một sự thinh lặng êm mượt như nhung, đầy tiếng thì thầm. Tôi ngắm những dải tảo đen dập dờn, những tia sáng lấp lánh ánh bạc của những đàn cá. Tôi nghĩ tới Ngài Kyo ngồi hàng tiếng đồng hồ và chẳng câu được gì, thật buồn cười. Lẽ ra ông nên thử xem, tôi tưởng tượng ông đang lặn biển trong bộ com lê đen, với mũ lưỡi trai và đôi giày đánh xi! Tôi để sóng cuốn mình đi, tay dang ra, mắt mở to, bất động, nín thở. Tôi đã học được cách ở dưới nước quá một phút mà không phải ngoi lên, và khi nhô đầu khỏi nước, tôi ngửa cổ và bật ra tiếng kêu, đó là tiếng kêu của tôi, không người nào khác kêu tiếng kêu của tôi, eeeaarh- yaaarh! Mấy bà già trêu tôi, họ bảo tôi rống như bò!

Tôi thôi học. Học để làm gì chứ? Tất cả việc ta làm ở trường là ngồi hàng giờ liền, giả vờ lắng nghe và ngủ mở mắt. Trẻ con, toàn là trẻ con thôi. Ngay cả Jo cùng mớ trò hề của nó, vẻ độc ác, mấy câu lăng nhục nhỏ mọn thảm hại của nó. Một hôm, nó ném đá vào người tôi lúc tan học. Tôi quay lại nhìn và nó hét lên: “Mày, con điếm, đi gặp lão người Mỹ của mày đi!” Tôi tiến về phía nó và nó sợ hãi, nó vốn cao hơn tôi hẳn một cái đầu, vốn khoái giật tóc và dúi đầu tôi xuống sát đất, nó sợ một đứa con gái cao chưa tới vai mình và nặng chỉ bằng một nửa. Nó lùi lại. Bộ mặt chó đáng ghét của nó tỏ vẻ sợ sệt. Lúc đó tôi hiểu ra rằng tôi không còn là tôi khi trước nữa. Giờ đây tôi mang khuôn mặt của Ngài Kyo, khuôn mặt lúc ông giận dữ, bất động, xám ngoét, lạnh băng, với đôi mắt như hai khe nước màu xanh lục, đôi mắt giống như thủy tinh được biển mài nhẵn. Tôi tiến về phía thằng kia, và rốt cuộc nó bỏ chạy, chuồn mất ở chỗ đường rẽ ngoặt, chính hôm đó tôi quyết định sẽ không trở lại trường nữa, và sẽ trở thành một người đàn bà của biển.

Tôi hãnh diện về quyết định này, nhất là việc có một diện mạo mới, thế nên tôi đi một mạch về nhà, nhưng mẹ không ở đó. Chỉ có gã bồ của mẹ, tôi nhìn gã bằng đôi mắt nước thủy tinh, nhưng gã ngà ngà say như mọi khi. Gã hỏi: “Mày về làm gì vào giữa trưa thế này? Lại trốn học hả?” Tôi đi qua trước mặt gã, thậm chí đẩy gã mà không thèm nói gì. Tôi thấy mình mạnh mẽ hơn gã, có thể tống gã trở lại chỗ của gã, trở lại công việc thảm hại của gã, trở lại quán rượu nơi gã chơi bài với lũ bạn say cùng hạng. Tôi đã vứt đồ dùng học tập lên giường, tôi đã thay y phục, tôi mặc quần áo mới, quần jean và áo phông đen, búi tóc rồi đi ra biển. Giờ đây tuổi thơ đã ở phía sau, tôi có thể lựa chọn đồ mình muốn mặc, đó là một bộ quần áo kiểu thành phố, trang trọng, có thể gọi là một bộ tang phục. Mọi người không nhận ra khi bắt gặp tôi, hẳn họ nghĩ tôi là một du khách muộn mằn của đợt nghỉ giữa mùa, một cô gái thủ đô, bị đuổi khỏi nhà giống như mẹ khi sinh tôi ra.

Tôi không nói gì với Ngài Kyo. Tôi gặp lại ông ở chỗ quen thuộc, trên bờ kè. Ông không mang đồ câu. Ông mặc trang phục mà tôi không thấy quen, áo gió vàng, quần vải cũ, nhưng vẫn giữ đôi giày đánh xi. Tôi cho rằng ông không đi bộ được bằng dép tông. Ông đang ngắm mọi người cập bến phà, hàng đoàn ô tô, xe máy. Nhìn thấy tôi, ông nhoẻn miệng cười, lần đầu tiên, một nụ cười rạng rỡ bừng sáng gương mặt.

“Ta không chắc là cháu sẽ đến, ông nói. Ta nghĩ cháu giận... Cháu không giận chứ?”

Tôi không đáp lời. Nhìn thấy ông, đột nhiên oán hận lại trào lên, tôi lợm giọng suýt nôn. Chúng tôi đi bộ một hồi dọc theo bờ biển, đến tận bãi cát tôi từng ở qua đêm.

“Sao ngài nói dối cháu?” cuối cùng tôi cũng cất lời. Nhưng tôi không biết ông đã nói dối ở chỗ nào. Tôi cảm thấy sự phản bội ở ông, tim tôi nhói đau.

Ngài Kyo đáp: “Ta không nói dối cháu. Nếu ta bảo rằng cháu xinh đẹp thì đó là sự thật.”

Ông không lắng nghe. Ông giễu tôi. Tôi có đòi ông dỗ ngọt đâu?

“Ngài nói dối, nói dối, cháu biết. Cháu từng mong ngài là bạn cháu, nhưng ngài đã lừa dối cháu.”

Đột nhiên, thay vì nói với tôi, ông bắt đầu chạy dọc bãi biển trên bờ cát rắn đanh vì nước triều đã rút. Ông chạy, quay lại, rồi chạy nữa, thành những vòng tròn nhỏ như một chú cún con. Thật lố bịch, không chấp nhận được. “Ngài dừng lại, dừng lại đi!” Tôi vừa kêu vừa dang tay chặn ông lại, nhưng ông né tránh rồi vừa chạy vừa cười. Tôi mệt quá nên ngồi luôn xuống bãi biển, hay đúng ra là buông mình, quỳ trên cát, tay buông thõng. Thế là ông dừng bước, quỳ xuống đằng sau tôi và vòng tay ôm lấy tôi. “Sao cháu khóc, June?” Miệng ông áp sát tai tôi, tôi cảm nhận được hơi thở ấm nóng của ông phả qua tóc tôi. Không xa lắm, có mấy người đi bộ trên bờ cát, trông giống những chú chim. Một cặp vợ chồng lớn tuổi, lũ trẻ con. Giọng họ vọng tới chỗ tôi đã nhỏ đi, mơ hồ. Chắc họ nghĩ tôi là một cô con gái lớn đang để cha dỗ dành.

“Cháu không khóc,” tôi nói rành rọt. Tôi nhấn từng tiếng. “Cháu không khóc nữa, chỉ có trẻ con mới khóc.”

Ông nhìn tôi không hiểu. Hay có thể ông hiểu điều tôi muốn nói và hài lòng với thay đổi ấy. Ông ngồi xuống bên tôi trên bãi cát rồi bắt đầu chơi trò dịch chuyển, như buổi đầu gặp gỡ. Ông dịch một cành tảo khô, một viên cuội đen, một mẩu nút bần, rồi nhường tôi thắng như mọi bận, tôi đã đặt một mẩu xương chim trắng muốt và nhẵn bóng, chắc chắn ông đã dành cho tôi mẩu xương kia để tôi thắng. Trong giây lát, tôi cảm thấy được trở lại là một bé gái, một đứa trẻ, đôi chút bối rối, mau cười mau khóc.

Chúng tôi chạy cật lực trong gió dọc theo một mặt biển âm u màu xanh pha sắc trắng đục, trời đã trở lạnh, đông sẽ sớm về. Chúng tôi dừng lại trong một vụng cát, chính ông lại xoa bóp cho tôi, nhưng ông không rành việc này, tay ông khỏe và cứng quá, có lẽ vì trong nghề lính khi xưa, phải siết thật chặt khẩu súng để súng khỏi tuột mất khi họ bắn. “Sao giờ cháu lại mặc đồ đen?” Ngài Kyo hỏi. Tôi trả lời không do dự: “Vì trời sắp sang đông rồi, vì ngài sắp đi và vì trời sẽ âm u lạnh giá trong lòng những đứa trẻ buồn bã.” Ông không biết đối đáp ra sao. Ông nằm nghiêng người trên cát, hơi tách ra. Ông bỏ mũ và tôi thấy ông cắt tóc rất ngắn, kiểu nhà binh.

Điều này khá kỳ lạ, bởi Ngài Kyo đang nhìn tôi và tôi cảm thấy một ai đó khác. Như thể lúc này đây có hai con người trong ông, một người điềm tĩnh và mạnh mẽ, tôi vốn biết rõ người này còn người kia thì khác biệt, khiến tôi sợ, chăm chăm nhìn tôi như đang nhìn qua lỗ của mặt nạ. Tôi rùng mình, lùi lại, còn ông nhích gần, đôi mắt xanh lục ánh lên tia sáng xa lạ.

“Sao ngài lại nhìn cháu?”

Ông không trả lời, tôi có cảm giác mình đang bơi giật lùi, trôi nổi, như thể sắp ngất đi. Tim tôi đập thình thịch, tôi cảm thấy mồ hôi túa ra trên lưng, trên ngực.

“Tới lượt ta, ta sẽ kể cho cháu một câu chuyện, ông đáp. - Câu chuyện có thật không?” tôi hỏi. Ông ngẫm nghĩ: “Một câu chuyện trong mơ, nên nó có những điều chân thật hơn cả thực tế.”

Tôi chờ đợi. Trong chốc lát, tôi vẫn là một đứa bé không muốn lớn, nép vào một vầng ngực đàn ông to rộng để được bảo vệ khỏi trần thế và phong ba.

Đêm tối đại dương lảng vảng quanh chúng tôi, nhưng giọng Ngài Kyo nhẹ nhàng, giữ được bóng đêm quây thành vòng tròn, giống như màn sương mù bị gió ngăn chặn.

“Trong mơ, ta gặp một người đàn bà đẹp hết mức tưởng tượng. Không những đẹp, nàng còn có giọng hát thiên thần. Nàng đến từ trời cao hoặc biển sâu, nàng xuống hạ giới để hiểu về con người. Nàng đi khắp các xứ sở, ca hát nơi nơi, trên phố, giữa quảng trường, trong vườn, và mọi người đều dừng chân để lắng nghe nàng. Hát trở thành nghề của nàng.

“Một hôm, nàng quen một người đàn ông. Người đó yêu nàng, nhưng không đủ để cưới nàng làm vợ và anh ta bỏ rơi nàng. Nàng buồn bã khôn nguôi, và quyết định sẽ không lưu lại thế gian lâu nữa.

“Rồi nàng gặp một người đàn ông khác, nhưng nàng không còn yêu được như lần đầu tiên. Để thử thách, nàng bảo anh ta thổ lộ tâm tình.

“Anh ta không muốn, anh sợ thổ lộ tâm tình rồi nàng sẽ phát hiện ra điều xấu xa ghê rợn trong đó.

“Nhưng một ngày, anh ta đã làm việc ấy. Anh say, hoặc giả anh đã quên mất mình là ai.

“Và khi anh ta thổ lộ tâm tình, người đàn bà thấy ghê sợ. Tâm hồn đó đen ngòm, bị sâu bọ đục khoét, nó đã chết.

“Thế là người đàn bà của biển không muốn hát nữa. Nàng im lặng ngồi ngắm biển, rồi một hôm, bão tới, gió rít còn sóng tung bọt lên tới vách đá.

“Người đàn ông đưa bạn tình về nhà trú bão, họ thao thức tới khuya, nhưng cuối cùng người đàn ông ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau, khi thức giấc, anh thấy chỉ có mình anh ở nhà.

“Ngoài trời bão đã tan, anh gọi, gọi mãi nhưng không có tiếng trả lời.

“Bên bờ biển, anh thấy quần áo người tình được gấp cẩn thận. Anh chờ đợi cả ngày, cả đêm và ngày hôm sau nữa. Nhưng người đàn bà ấy đã không bao giờ trở lại.

“Nàng đã quay trở về biển khơi vô tận.

Một câu chuyện buồn, tôi nói. Đó có phải chuyện của ngài không?” Ngài Kyo không trả lời. “Đó chỉ là một giấc mơ thôi, cuối cùng ông cũng nói. Giấc mơ nào cũng buồn.

Ngài có tin là biển ăn thịt người không?” Tôi thậm chí không chắc câu mình hỏi có nghĩa hay không. Ngài Kyo ngập ngừng rồi bảo: “Trước đây ta tin như thế. Bởi vậy ta mới tới đây để xác minh điều đó.

Thế bây giờ ngài đã biết chưa?

Chưa, Ngài Kyo đáp. Ta chẳng biết được gì. Nhưng ta cho rằng quên đi thì hơn. Ta cho rằng hồi ức không nên ngăn chúng ta sống.”

Tôi dường như không thể chịu nổi điều ông nói. Cổ họng tôi nghẹn lại, tôi thấy mồ hôi túa ra trên lưng, trên tóc. Tôi nghẹn ngào.

“Thế có nghĩa là...”

Tôi không nói nốt thành tiếng được

“Thế có nghĩa là ngài sẽ ra đi mãi mãi?”

Ngài Kyo khẽ mỉm cười mãn nguyện. “Ta không biết... Ta đã thấy thích sống ở đây.”

Ông cho là tôi hỏi xã giao, nhưng tôi căm ghét xã giao.

“Nếu ra đi, ta sẽ nhớ nhiều điều lắm. Sẽ nhớ cháu, June à. Không phải ngày nào một người đàn ông cũng gặp được người như cháu.” Ông nói thêm, khiến tôi càng tê tái: “Ai khác sẽ dạy ta câu cá đây?”

Ông đứng dậy, cất bước đi về phía làng. Ông không hề cứng nhắc và trịnh trọng nữa. Ông đút tay vào túi áo gió vàng. Có thể ông còn đang huýt sáo nữa. Ông hơi xoay người lại. “Sao, cháu có đi không?”

Tôi ngồi trên cát ẩm. Trời bắt đầu mưa. Tôi cảm thấy những giọt nước lạnh lác đác rơi xuống mặt. Một mùi hắc, nồng, bốc lên từ biển. Tôi nghẹn ngào trả lời: “Không, cháu nán lại chút nữa.” Ông không trả lời. Hoặc ông đã nhún vai, điệu bộ của người thực sự bất cần. Hoặc ông đã chào tạm biệt nhưng câu nói bị gió cuốn mất.