Chương 16
Mọi chuyện đã diễn ra chỉ trong vài tích tắc. Đối với tôi, thời gian đã dừng lại vào ngày hôm đó, vào đúng lúc đó. Tôi vẫn luôn nghĩ khi chết chắc cũng sẽ như thế thôi. Đôi khi người ta nói rằng chết là khoảnh khắc duy nhất mà ta không thể nghiệm sinh. Tôi không biết có đúng thế không, nhưng cái khoảnh khắc ấy, tôi đã nghiệm sinh nó và còn tiếp tục nghiệm sinh nó lại lần nữa, cho dù đó không hẳn là cái chết. Tôi tường tận nó đến từng chi tiết.
Nhà chúng tôi có hai tầng, tầng trệt là bếp, kho, ga ra thường dùng để trữ những hộp các tông đựng hàng, và một nhà chái dùng làm phòng cho chị giúp việc Salma. Tầng trên, là các phòng ngủ, phòng của ông bà Badou, phòng ăn, còn phía bên kia là phòng Bibi, và cái góc của tôi ở gần cầu thang. Chúng tôi có hai phòng tắm, một ở trên tầng, lát gạch vuông có bồn tắm cùng hai la va bô, và một ở tầng dưới láng xi măng có vòi hoa sen và có chỗ để máy giặt. Ông thợ làm vườn tên là Yao sống ở cuối vườn trong một túp lều, bác là người mỗi tối sẽ châm lửa đốt lá khô và rác sinh hoạt. Còn có cả một cái lồng nhốt đầy vẹt, Yao nói chuyện với chúng, bác ta còn nói chuyện với con chó của mình nữa, một con lực lưỡng lông trụi, bị xích suốt ngày, chắc hẳn bà Badou sợ nó sẽ cắn Zaza. Rồi còn có một con khỉ, nó, cũng bị xích quanh mình, quẩn quanh suốt ngày trên một cái cây. Con khỉ này, tôi nhớ rõ lắm bởi lẽ nó luôn là đề tài cợt nhả vì cái dương vật dài đỏ và nhọn như một củ cà rốt. Chúng tôi không lại gần nó, bởi nó dữ và bố tôi nói rằng nó có thể truyền bệnh dại.
Chúng tôi chờn chợn Yao, nhưng dẫu sao cũng rất quý bác. Bác ta cao lừng lững, xấu xí, với khuôn mặt rỗ ăn lỗ chỗ. Túp lều nơi cuối vườn là chốn hẹn hò của bác ta với tất tật những ả đàn bà kiếm được ở các quán bar trong phố, ít nhất thì ông Badou kể thế. Họ ở lại một đêm với bác ta, và hôm sau người ta nghe thấy các cô ả chửi rủa, nhiếc móc bác ta thậm tệ, bởi bác ta chẳng là gì ngoài một kẻ say khướt và dối trá, thế mà đêm sau lại một cô nàng khác đến trám chỗ. Với tôi và Bibi, và nói không ngoa là với tất cả mọi người, Yao đúng là một huyền thoại sống, chúng tôi có thể nói chuyện hàng giờ về những người đàn bà của bác và chuyện làm thế nào bác ta quyến rũ được họ. Cuối cùng tôi hiểu ra đó là do phép thuật, bác ta có “bùa”, thế thôi. Nhưng rủi thay, chúng tôi chưa bao giờ biết được bí mật của bác ta, thứ kể ra rất cần cho cuộc sống chúng tôi sau này.
Tôi thường ra vườn sớm, ngay khi bình minh vừa chiếu sáng những cành cây. Tôi chưa bao giờ thích nằm ườn trên giường. Còn Bibi thì có thể ngủ một mạch đến trưa. Ngay cả khi nắng đã rọi vào phòng, em vẫn cuộn tròn trong chăn, trùm kín mắt chứ không hề tỉnh giấc.
Tôi thì ngồi trong vườn, dưới bóng cây xoài, tôi vừa nhìn lũ kiến lăng xăng giữa đám rễ cây vừa mơ mộng vẩn vơ. Không thì tôi vẽ vào một tập vở, hình cây, hoa, những hạt mầm, tôi dán bên cạnh mỗi bức tranh một mẫu vật. Bố còn cho tôi formol để quết lên, bảo quản những chiếc lá, sau đó tôi bỏ chúng vào một túi nhựa nhỏ, loại dùng để đựng sandwich, mùi nó hăng hắc, bọn trẻ ở trường chế nhạo tôi, nhưng đó là thứ mùi mà tôi đã biết yêu. Đó phần nào là mùi của cái chết, là mùi của quãng thời gian này.
Họ nói chuyện. Tôi nghe thấy tiếng họ vọng ra ngoài cửa sổ phòng ngủ, cánh nào cánh nấy vẫn đóng im ỉm. Tôi có giác quan thứ sáu đối với những cuộc cãi lộn, tôi cảm thấy xung đột đang đến, tôi dỏng tai lên đoán xem chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo, để hiểu nguy hiểm đến từ đâu. Tôi nghĩ tới đống bát đĩa, an toàn rồi, và tới cái kéo trong ngăn tủ com mốt, tới con dao rọc giấy trên bàn làm việc của bố. Tôi dỏng tai, nhưng giọng nói lúc này không quá gay gắt, nghe cũng chẳng nghẹn ngào, chúng liến thoắng một hồi rồi ngắt ngang chừng, và trong khoảng lặng giữa những lời trao đổi là những tiếng động đời thường, tiếng ô tô trên phố, tiếng còi xe cảnh sát, tiếng rền của ống xả xe buýt. Khu vườn hoàn toàn yên tĩnh, bởi những giọng nói đã làm lũ chim câm lặng.
Trừ những giọng nói, cả ngôi nhà đang say ngủ. Tôi khẽ khàng leo lên cầu thang, bò bằng cả bốn chi để khỏi làm những bậc thang gỗ cót két. Tôi đến trước cửa phòng họ. Những giọng nói đang ngừng, tôi cố đoán xem điều gì xảy ra phía sau cánh cửa. Tim tôi đập dồn và dữ dội, tôi có cảm tưởng như mình đang làm điều cấm kỵ. Tôi sợ thứ yên lặng đột ngột này. Hay họ chết cả rồi, hay họ đang chuẩn bị một cuộc tấn công, một quyết chiến mà khi đó họ sẽ tìm cách giết nhau? Tôi chưa bao giờ ưa cách họ im lặng. Im lặng, đó là bóng đêm, là trống rỗng. Im lặng, đó là tận thế. Tôi nhớ, hồi tôi còn bé tí tẹo, bà tôi chết. Tôi bước vào phòng bà, không nói gì với ai. Những cánh cửa khép hờ, ánh sáng xám ngoét, những chiếc chăn quấn kín người bà, đến tận cằm, và khuôn mặt bà cũng xám, mi mắt khép lại, thành hai vệt sẫm, miệng bà không còn môi, nó đã lẩn vào trong lợi, nhưng chính sự im lặng mới làm tôi khiếp vía, tôi không động đậy, những sợi lông trên cánh tay tôi dựng đứng, và phải cố lắm tôi mới dứt ra được và rời khỏi phòng.
Giờ, những giọng nói lại tiếp tục. Chúng kể chuyện gì đến là kỳ. Tai áp vào cửa, tôi nghe thấy mọi điều những giọng ấy nói. Hết mẹ, lại đến bố, nhưng chủ yếu là mẹ nói. Tôi chợt vỡ lẽ là bà đang nói về tôi. Sao tôi lại đoán được? Tôi nghĩ mình đã trông chờ điều đó, rằng tôi luôn chờ đợi thời khắc này. Trong những giấc mơ, chuyện xảy ra như thế, người ta biết trước cả khi người ta biết. Hoặc giả, vào lúc hiểu ra, người ta tự nhủ, thế đấy, chuyện này ắt sẽ xảy ra một ngày nào đó, mình biết mà. Mình vẫn luôn biết thế từ trước mà.
Tôi nghĩ về chuyện này luôn, tôi không còn biết liệu trí nhớ của mình có chính xác không. Tôi đã tưởng tượng ra cảnh này hàng nghìn lần, tôi, bò bốn chi lên cầu thang, tai áp chặt vào cánh cửa gỗ, những lời nói cứ tuôn ra. Những lời nói sát thương. Những lời bình thường, những lời mọi ngày, mà như đâm, như cứa.
“Con bé Rachel” (...) “Không gia đình, không có mẹ” (...) “Phải nói cho nó biết chứ, phải nói, anh hiểu không?” (...) “Anh phải nói cho nó sự thật, rằng nó không phải là con tôi, anh phải nói” (...) “Rachel không phải là con gái tôi, nó sẽ không bao giờ là con gái tôi” (...) “Lẽ ra anh cứ để nó ở đâu đó, thiếu gì người cần con” (...) “Rachel không có họ, đó là điều phải nói khi nói về nó, Rachel Không-Họ” (...) “Một đứa trẻ nhặt được, một đứa trẻ đầu đường xó chợ, chẳng ai muốn” (...) “một đứa bé ‘trót lỡ’, chẳng may mà ra đời, đứa bé chẳng của ai cả, anh nghe rõ chưa, chẳng của ai hết?” (...) “Tôi sẽ không đời nào để nó chiếm chỗ của Abigaïl” (...) “Tôi không muốn nó gọi tôi là mẹ nữa” (...) “Mẹ, mẹ, nghe nó gọi thế tôi chỉ muốn nôn thôi” (...) “Phải nói cho nó biết, ngay bây giờ, ngay lúc này, phải nói cho nó rõ sự thật” (...) “Rằng ngẫu nhiên mà nó ra đời trong một cái hang” (...) “Không phải để đuổi nó ra khỏi nhà, không, chúng ta đâu phải quái vật” (...) “Khi nó nhìn tôi, tôi chỉ ước ao gì được tát nó một cái” (...) “Nó chọc tức tôi, anh biết đấy, tôi dám chắc là nó đã biết hết, người ta đã nói với nó rồi, nhưng nó cứ giả đò như chẳng biết gì” (...) “Mắt nó rành rành ra thế, nó trâng tráo nhìn tôi, như để khiêu khích tôi, để nói rằng: nói đi, cứ nói đi, rằng bà không phải mẹ tôi!” (...) “Tôi không thể chịu đựng được nó nữa, ác tâm của nó, nọc độc của nó” (...) “Đó là vì Abigaïl, tôi không muốn con bé tin, tôi không muốn nó tưởng tượng...” (...) “Nó, nó chiếm chỗ của con gái tôi, đòi phần mình, nó, đứa con gái của một con điếm” (...) “... bị hiếp trong một cái hang” (...) “Rachel bé nhỏ, thiên thần Rachel, thậm chí tên đó nó còn chẳng xứng, nó đáng lẽ phải được gọi là Judith hay Jezabel, nó làm tôi sợ, tôi nhìn nó, tôi không biết nó mưu toan gì nữa” (...) “Tôi không chịu được nữa” (...) “Nó ghét tôi, tôi nói cho anh biết, nó ghét tôi, nó ghét chúng ta, nó là một con quỷ” (...) “Phải, một con quỷ, anh không biết có những đứa con của quỷ sao?” (...) “Rachel bé bỏng đấy, Lilith* bé bỏng đấy, nó nghe lén sau cửa, nó do thám” (...) “Tôi sợ, đêm tôi mơ thấy nó mang dao vào phòng chúng ta, nó giấu dao ở giường nó, anh biết đấy” (...) “Nó bỏ thuốc chuột vào cà phê của chúng ta.”
Theo pháp truyền đạo Do Thái, Lilith là người đàn bà đầu tiên của Adam trước Eva.
Vân vân.
Tôi không còn nhớ, tôi chẳng biết mình đã làm gì cái ngày hôm đó. Tôi chạy một mạch xuống vườn, náu vào cái chỗ tôi thường đến mỗi khi muốn được một mình, dưới cây xoài, tay bịt chặt tai, để khỏi còn nghe thấy những lời lẽ cứ văng vẳng mãi không thôi: “... đứa con của quỷ... cần phải cho nó biết... một đứa trẻ nhặt được, một đứa trẻ đầu đường xó chợ... trót nhỡ thụ thai trong một cái hang...” Vậy mà dường như những giọng nói vẫn tiếp tục, những từ ngữ đã lần theo tôi đến tận chỗ ẩn nấp, tôi nghe thấy chúng rõ mồn một như thể tôi vẫn đang bò phía ngoài cánh cửa phòng họ, giọng của mẹ (bởi tôi vẫn còn gọi bà như thế, dù sau tất cả những gì bà đã nói): “Rachel không họ, một đứa không mẹ.” Tôi hẳn đã thiếp đi sát thân cây, cuộn mình lại giữa đám rễ lớn, bất chấp con mưa lất phất sáng hôm đó, hay đám nhện, hay lũ kiến lửa. Tôi hẳn đã thiếp đi được một lúc lâu khi Yao đến tìm tôi, và Bibi, em cũng đến, em có biệt tài tìm ra tôi vào những lúc tồi tệ nhất, cứ dễ như không, và cọ mình vào tôi, nhõng nhẽo kêu nũng nịu và khe khẽ thở dài, “Chị làm cái trò gì thế? Sao chị lại trốn? Sao chị nhắm mắt, chị không muốn trả lời em à? Mẹ sẽ cáu cho mà xem!” Và đó là lần đầu tiên tôi ghét ai đó, lần đầu tiên, tôi đã lớn phắt lên và không bao giờ còn là một đứa trẻ nữa.
Tôi đã quyết định không bao giờ nói ra, nhưng sẽ không quên gì hết. Thế nên tôi mới nói tôi đã đột ngột lớn phắt lên, như thể được uống nước thuốc của Alice*. Khi còn là trẻ con, người ta không nghĩ tới tương lai. Nó không thực sự tồn tại. Với Bibi thì tôi thấy rõ. Em sống như một con thú nhỏ. Em có những nhu cầu nhỏ mọn như một con thú nhỏ. Khi đói, hay khát, em lè nhè: “Mami, cho con cái kẹo, điii! Mami, con muốn uống nước quả!” Khi buồn ngủ, em lăn ra bất kỳ đâu, trên trường kỷ trong phòng khách, trước ti vi, hay trên giường bố mẹ, thậm chí là vục mặt ngay xuống đĩa xúp, và thế là ngủ tít. Đôi khi, em ngủ trên thảm, miệng há ra, em như một con chó tính khí thất thường. Mẹ rít lên: “Trông kìa! Rachel, đưa Bibi vào giường em, trời ạ, phải để ý em mày chút chứ, đừng có để em nằm ra đất!” Bổn phận của tôi là phải đỡ em dậy, dìu em đi, em loạng choạng, mắt vẫn nhắm nghiền, miệng lúng búng, tôi đặt em nằm trên giường và giắt màn cẩn thận. Tôi làm như máy, không phản ứng gì, chẳng có gì phải tranh cãi, đó là một công việc, để đổi lấy cơm nuôi và chỗ ở. Bibi bám lấy tôi, em choàng đôi cánh tay nhỏ quanh cổ tôi, rồi từ từ ngả ra sau. Tôi rất thích em khi em thuộc phạm vi định đoạt của tôi. Một ngày, bỗng nhiên tôi nghĩ mình sẽ lấy gối làm em nghẹt thở. Tôi đã đọc thấy điều đó trong một vở kịch của Shakespeare, một cuốn sách lớn lăn lóc trong thư viện trường và tôi đã mang về nhà. Tôi nhớ như in đã cho Bibi đi ngủ, đã giắt màn cho em, và đã nghĩ rằng thật dễ dàng để làm em chết. Đó không phải lỗi của tôi, ai bảo chính mẹ em đã nói thế, rằng tôi là con của quỷ.
Cô bé Alice, nhân vật chính trong tiểu thuyết nổi tiếng Alice ở xứ sở diệu kỳ của nhà văn Anh Lewis Carroll (1832-1898).
Lúc đó, tôi đâm thèm được là người dưng nước lã với họ. Tôi không nói điều đó với ai, tôi cũng không viết vào nhật ký, bởi tôi biết bà Badou đọc nhật ký của tôi, và tôi chỉ viết vào đó những thứ tầm phào, mấy cuộc hẹn hò, bài vở ở trường hay những câu trích dẫn mà tôi đã đọc, không ghi tên tác giả, cứ để bà ta tưởng chính tôi đã sáng tác và tôi có tài. Tôi nhớ một vài câu, như là: “Một mức độ cô đơn nào đó trong không gian và thời gian là không thể thiếu để tạo nên sự độc lập cần thiết cho một công việc quan trọng.” Đó là câu của Bertrand Russell, nhưng tôi không nhắc gì đến tên ông.
Kể từ giây phút đó, tôi đã quyết định sẽ không gọi họ là bố mẹ nữa. Họ sẽ là “ông ấy” và “bà ta”, hay, nếu cần cụ thể hơn sẽ là ông bà Badou. Ông ấy, Derek, bà ta, Chenaz, bởi bà ta thích những cái tên này kể từ khi nghe thấy trong một bộ phim truyền hình của Brasil. Tôi quyết thế, và tôi làm thế. Chẳng ai để ý, trừ Bibi, một lần em đã hỏi tôi: “Tại sao chị lại gọi mẹ là Chenaz? Mẹ có tên như thế đâu?” Tôi chỉ khẽ cười: “Em chưa hiểu được đâu, em hãy còn bé quá.”
Tôi tiếp tục sống như trước, như khi tôi chẳng biết gì. Khác biệt duy nhất, đó là cái nút thắt ấy tận đáy cơ thể tôi, cái góc sâu kín ấy trong tim tôi. Tôi không khóc, tôi không còn cười nữa. Đôi khi tôi giả bộ buồn hoặc vui sướng. Những dịp lễ Tết, tôi giúp bà Badou chuẩn bị đồ ăn, tôi rửa chén bát và bởi khách khứa nườm nượp nên bát đĩa bẩn cũng ngồn ngộn. Tôi rửa như cái máy, chẳng nghĩ ngợi. Ở trường, điểm số của tôi sa sút. Tôi đến lớp, tôi ngồi yên không động đậy, tôi không nghe. Tôi cũng không còn mơ mộng nữa. Tôi chỉ là một mẩu gỗ, một con rối gỗ Pinocchio. Tiếng nhí nhéo của bọn học trò, tiếng lào xào của các thầy cô. Tôi đã trở nên trong suốt, tiệp màu bàn, màu ghế, một cái ghế trống, một cái bàn không ai dùng đến nữa. Bà Badou mắng tôi: “Tại sao mày không học hành gì ở lớp? Mày tưởng chúng ta trả tiền học phí cho mày để mày đến lớp ngủ sao?” Tôi giương mắt nhìn lại bà ta không nao núng. Tôi có điệu cười khẩy làm bà ta điên tiết, làm ai cũng phải điên tiết. Bà ta muốn cho tôi cái bạt tai, nhưng tôi đã học được cách tránh. Tâm trí tôi bất động, đông cứng như nước đá bao nhiêu, thì cơ thể tôi lại hành động mau lẹ bấy nhiêu. Chẳng ai theo kịp tôi khi chạy đua. Phốc hai bước, tôi đã ở trong vườn hay tót ra ngoài đường. Tôi còn leo thoăn thoắt lên ngọn cây, tôi là một con khỉ. Tôi còn dám cắn lại như một con khỉ cái. Bà Badou phát ngán. Bà ta bỏ cuộc. Cái miệng xinh đẹp của bà ta tuôn ra hàng tràng những lời đe dọa, mạt sát: “Con ranh con! Đồ đĩ! Mày sẽ chẳng được tích sự gì đâu, rồi cũng bán trôn nuôi miệng thôi!” Tôi nghĩ, lần đầu tiên bà ta rủa tôi như thế, tôi mới lên chín. Tôi đã mau chóng hiểu được rằng, nó chẳng có nghĩa lý gì. Nói cho cùng, bà ta cần tôi hơn là tôi cần bà ta, để chăm sóc Bibi, để đi chợ và làm vô khối việc khác. Và cái ông Badou, tên cúng cơm là Derek, thì chẳng ưa gì những cảnh cãi cọ, ông chỉ nhốt mình trong căn phòng trên cao và nốc whisky, điều đó hẳn giúp ông chẳng nghe thấy gì nữa hết.