Chương 20
Uống rượu, tức là ngã xuống một cái giếng rất sâu, xa khỏi mặt đất. Ở đáy giếng, tận cùng đáy giếng, là cỏ êm trải thảm, nhưng ngủ trên thảm cỏ này lại có vị ngọt khé, đến nôn nao. Hakim đưa tôi về nhà anh, về căn hộ gần quảng trường Disney. Lần đầu tiên về đó, anh cởi đồ cho tôi, và nhìn tôi ngủ sấp bụng trên giường anh, miệng dán chặt xuống nệm. Anh không chạm vào tôi. Anh kể là tôi ngáy rất nhiều, và nói thêm: “Em ngáy dễ thương lắm, giống như con mèo đang mơ, có lẽ vậy.” Tôi thấy điều đó thật lãng mạn. Nếu anh lợi dụng lúc tôi ngủ để cố làm tình thì tôi đã chẳng bao giờ gặp lại anh nữa. Khi tôi tỉnh dậy, anh đang chơi ghi ta với miếng giảm âm, không nối vào ampli. Các nốt được giảm âm tuôn ra nhẹ nhàng, giống như âm thanh đàn ba la phông. Phòng anh ở giữa tầng trệt và hầm, chỉ có cửa thông gió ngang mặt đường - một giàn song sắt đặc nghẹt bụi. Phòng đầy mùi mồ hôi và ẩm mốc, tôi không thể ở lại quá lâu. Một lần khác, chúng tôi đã làm tình với nhau, hoặc gần như là vậy, bởi tôi vẫn còn trinh và anh không thành công lắm.
Thời gian trôi đi. Sau mùa hè nóng như thiêu, đường phố vắng tanh, rèm cửa được cuốn lên. Tôi nhốt mình trong một nơi như hang động, vả lại phần lớn thời gian tôi ở thủy cung Trocadéro. Tôi những muốn được làm việc ở đó, nhưng họ không nhận những người không có giấy tờ. “Cô sinh ở đâu? - À, ở đây.” Đa số không muốn tin tôi. “Cô có thẻ căn cước hay sổ hộ khẩu không?” Tôi chỉ có sổ tiêm chủng, chứng nhận của trường dòng, và qua những mùa mưa mớ giấy tờ ấy đã bắt đầu bị mục rách. Nếu bị kiểm tra, chuyện gì sẽ xảy ra với tôi? Họ sẽ đưa tôi đi đâu? Về Phi châu, tôi sẽ thích thế. Có lần, tôi đã nghĩ đến việc giả danh Bibi. Tôi vẫn giữ cái thẻ căn cước cũ mèm của con bé làm lúc mười sáu tuổi. Nhưng thậm chí cả ở đó, trên bức ảnh đã nhòe, chúng tôi cũng không hề giống nhau, em tóc xoăn hoe vàng mắt sáng hơi cụp xuống, còn tôi ngăm đen, tóc xù và mắt hình quả hạnh. “Cô có vẻ giống người Việt Nam,” Hakim nói vậy hồi mới quen tôi. “Tại vì tôi là con nuôi,” tôi giải thích. Tôi nói thêm: “Tôi không biết cha mẹ mình là ai. Có thể họ là người Việt Nam.”
Thủy cung thường yên ắng. Ở dưới lòng đất rất mát mẻ, chỉ có thứ ánh sáng lờ nhờ màu lục nhạt hắt ra từ bể nước nơi lũ cá lịch biển đang bơi. Tôi ngồi trên một băng ghế, tôi ngắm những tia sáng phản chiếu, những mảng tối dập dềnh. Nó giống với thế giới mà tôi thường mơ thấy.
Tôi đi du lịch tại chỗ. Mang theo của cải trong ba lô. Ban ngày tôi đi bộ sớm qua các con phố, như khách du lịch, tôi dừng chân ở các vườn hoa công cộng. Vô số người giống tôi, những người trẻ, người nước ngoài. Đôi lúc là những người ăn mày chuyên nghiệp, những kẻ móc túi, tôi nhận ra họ từ xa qua dáng vẻ láo liên của họ, và tôi chuồn. Đối với những người còn lại, tôi gần như vô hình. Đó là điều tôi muốn, tôi muốn đi xuyên tường. Quãng ba giờ chiều, nắng ngột ngạt. Đường phố dường như dài ra bất tận, không khí như rung lên trên lớp nhựa đường. Nếu đang ở quá xa thủy cung thì tôi kiếm bóng râm trong một vườn hoa công cộng, để ngủ một chút. Tôi biết ban ngày thì chẳng có gì nguy hiểm. Chỉ thỉnh thoảng bị mấy gã trai lơ sán đến cưa cẩm cầu may. “You spik frenchie?” “Vats yur nem?”* Chỉ cần không trả lời hoặc nếu gã cứ gặng hỏi thì bỏ vào một cửa tiệm nào đó. Nói chung loại ấy cũng dễ bỏ cuộc thôi.
Tiếng Anh bồi: “Em nói được tiếng Pháp chứ?” - “Tên em là gì?”
Những khi không đóng đô ở nhà Hakim, tôi kiếm một phòng nhỏ tạm trú ban đêm, ở chỗ các xơ, hoặc một khách sạn rẻ tiền nào đó gần ga. Tuy nhiên, số tiền tôi kiếm được ở trường Ba Lan đang bốc hơi nhanh chóng. Tôi tính mình sẽ cầm cự được khoảng ba tháng. Sáu, nếu tiết kiệm.
Tôi không mua thuốc lá nữa. Khi thấy ai đó trong phòng dành cho khách hút thuốc, tôi lân la đến hỏi: “Ông làm ơn cho tôi xin một mẩu thuốc được không?” Trò này cũng hiệu nghiệm với mấy cụ già ngồi trên ghế công viên, rồi tôi biến nhanh với mẩu thuốc đó trước khi họ kịp lên lớp tôi về đạo đức. Nguy hiểm nhất là mấy tay cớm mặc thường phục. Nhận ra họ cũng dễ thôi vì họ thường đi hai người, thành cặp, nhưng thấy ngay họ không phải là tình nhân. Vì lý do đó mà tôi luôn phải mua vé tàu điện ngầm. Dù vậy, có một lần tôi đã bị một cặp chặn lại. Họ tra hỏi tôi vài điều rồi gã đàn ông định để tôi đi nhưng người phụ nữ thì không tin, và họ cho tôi lên xe đưa về đồn. Ở đó, một viên thanh tra kiểm tra giấy tờ của tôi, và xem ra đống chứng chỉ học đường với chứng nhận mất giấy tờ cũ mèm của tôi không thuyết phục được họ. “Cô ở đâu?” Tôi cho địa chỉ ông Lartéguy, họ liền gọi điện. Cuộc nói chuyện hơi kéo dài, rồi họ thả tôi về: “May cho cô, tội lang thang không còn được tính từ mấy năm nay.” Dù vậy họ vẫn lấy dấu vân tay và ghi chú họ tên tôi vào sổ. Tôi thấy thật khôi hài, vì đó là lần đầu tiên, từ lâu lắm rồi, tôi mới có một sự tồn tại chính thức.
#
Tôi là một bóng ma. Tôi nói vậy vì tôi không còn cách nào khác để diễn tả cuộc đời mình trong thành phố này nơi tôi cứ bước đi, bước đi hoài, lướt dọc theo những bức tường, rồi chạm trán những người mà tôi sẽ không bao giờ gặp lại nữa. Không quá khứ lẫn tương lai, không tên tuổi, không mục đích lẫn kỷ niệm. Tôi là một thân thể, một khuôn mặt. Hai con mắt, cùng với đôi tai. Thực tế chở tôi trên những con sóng trôi theo dòng, đây hay đó. Một cổng xe, một siêu thị, một sân chung cư, một con ngõ, một nhà thờ. Khi ta là một bóng ma, ta thoát ra khỏi mọi thời - thời gian và thời tiết. Mưa, nắng, những đám mây vội vã, những cơn gió nóng rồi gió lạnh. Rồi lại mưa. Trong những tia nắng đong đưa những hạt bụi, đôi khi là cả những chú ruồi. Những tiếng động vang lên, còi xe inh ỏi, tiếng ì ầm, tiếng lũ trẻ la hét trong công viên vắng. Tiếng lanh tanh chói tai, nhẹ nhàng rồi đinh tai nhức óc của xe điện lao nhanh hết tốc lực trên mặt cỏ giả, tiếng phành phạch của trực thăng bay qua bầu trời. Lúc đó có phải tôi đang nói như thể tôi đang đeo tai nghe không? Tôi đã mất cái máy nghe nhạc, nhưng để tìm lại tôi chỉ cần đưa ngón tay út vào lỗ tai là nghe thấy giọng Aretha Franklin, Bessie Smith, Fatoumata, Becca. Tôi nghe Fela đang dằn từng từ một, I am not a gentleman *.
Tiếng Anh: Tôi không phải một bậc hào hoa phong nhã.
Đó là những từ duy nhất còn có nghĩa gì đó. Những từ khác đã chết cả. Những từ ngữ thành ra cái gì khi chúng chết? Chúng có về trời cùng những đám mây không? Hay về một thiên hà xa xôi nào đó, ở phía thiên hà Tiên Nữ, đậu lại trên một tinh cầu không tên mà người ta sẽ không bao giờ thấy? Là bóng ma không có nghĩa là không còn mắt nhìn. Ngược lại, tôi thấy tất cả, đến từng chi tiết nhỏ nhất. Từng nếp nhăn, từng kẽ nứt, từng vết bẩn trên bề mặt vỉa hè. Đây, một vệt màu đỏ trên tường. Kia, những mẩu còn sót lại của những tấm áp phích, những chữ đứt rời, những âm trôi nổi
BLE
ond
PI
những con số
3077
n×0t125Ibtac1212
những mốc ngày tháng
từ nay thành rác thải vô ích của thời gian.
Và tất cả những con phố
Paterne
Pasteur
Fontame-du-But
Ruhmkorff
Valette
Ernestine
Antoine-Carême
Ecouffes
Gribeauval
Belzunce
Valmy
vạch ra những lộ trình điên rồ, như thể tôi đã đi hết mọi nơi, theo những con ngõ này, những hành lang này, những đại lộ này, dù chỉ một lần duy nhất trong đời.
Tôi đi bộ tay cầm một tấm bản đồ, một cuốn cẩm nang du lịch mà tôi mua bên bờ sông, lúc đầu là để ra vẻ du khách, lừa phỉnh mọi người là tôi đi thăm thú các bảo tàng, đền đài và những quán cà phê nổi tiếng. Rồi tôi nhanh chóng quên mất lý do, tôi liệt kê những con phố mình sẽ không đến và đọc to chúng lên.
Ngồi trên một băng ghế dưới kim tự tháp*, vì trời khá mát mẻ, và chúng tôi có đến hàng nghìn người, đàn ông, đàn bà, trẻ con, hàng nghìn người đang băng qua khoảng không, mắt vô hồn, chân rã rời. Tôi vạch ra những lộ trình phức tạp: từ Brochant, băng qua phố Moines, đi qua trước nhà thờ Sainte- Marie, rồi phố Legendre cho tới tận phố Dulong, băng qua đại lộ, phố Beme, Constantinople, phố Rome tới tận ga Saint-Lazare. Tới đó, đứng lại một chút, rồi nhìn, rồi nghe, rồi xác định mọi thứ.
Đây có lẽ chỉ Kim tự tháp bằng kính và kim khí ngay lối vào của Bảo tàng Louvre ở Paris, được khánh thành năm 1989.
Có gì đó cháy rát trên cơ thể tôi. Tất nhiên là nắng (nhưng không phải như thể ở châu Phi không có nắng). Ban đêm, sau một ngày đi bộ qua những con phố và công viên bụi bặm, băng ngang những khoảng sân lớn, trèo qua hàng loạt cầu thang, ngồi trên những chiếc ghế đá, tôi cảm nhận những vết bỏng rát trên mặt, trên cánh tay, trên chân mình. Một kiểu sốt từ bên ngoài tới và chui vào tôi qua lớp da. Khi rửa mặt ở toa lét quán cà phê, tôi thấy mặt mình trong gương sạm đi, mắt đỏ ngầu. Dần dà tôi trở thành quái vật. Phụ nữ xa lánh tôi. Những người khác lén liếc nhìn tôi. Có một lần, tôi bắt gặp ánh mắt một phụ nữ trong gương. Ngay lập tức tôi nổi cơn điên. Tôi tóm lấy đôi vai cô ta và la lớn: “Mày muốn gì? Nói ngay, mày nhìn cái gì hả?” Cô ta vùng thoát ra rồi chạy mất, tôi nghe giọng cô ta tru tréo chửi rủa. Đầu tôi quay cuồng, tôi lại như nghe thấy giọng Chenaz: “Nó điên đó, con nhỏ đó điên đó!” Trong phòng, tay bồi bàn trả lại ba lô cho tôi. “Chỗ chúng tôi không phục vụ cô đây.” Tôi thậm chí còn không phải trả tiền ly cà phê. Đó là lần đầu tiên chuyện như vậy xảy ra, và về sau nó gần như trở thành một thói quen. Cà phê, cãi lộn, bị đuổi cổ. Những vụ như vậy lại làm tôi thêm tự tin: khi thiên hạ sợ tức là họ bắt đầu nhìn thấy ta. Ta tồn tại.
Dần dà, tôi đã nhích đến gần phố Friant, phòng nha của bác sĩ Lartéguy. Tôi thường lưu lại rất lâu ở Vườn Bách Thảo, trong nhà kính. Khi ấy là cuối hè, trời mưa suốt. Nước ròng ròng trên mặt kính, tôi thấy lại mùi đất Phi châu, tôi lắng nghe tiếng những giọt mưa lộp độp. Tôi hít hà mùi ẩm ướt. Tất cả đến như một thoáng rùng mình, như cơn sốt ngày xưa, một cảm giác vừa dịu vừa đau. Tôi hồ như muốn khóc. Tôi thì thầm: “Bibi, em ở đâu? Tại sao em bỏ chị?”
Con bé từng suýt chết vì sốt. Trên con đường dọc biển, khi từ Grand-Bassam về. Trời cũng mưa nặng hạt như thế này, cái nóng làm tóc ẩm ướt. Chiếc xe lắc lư trên những vết lún xe, bầu trời đen kịt. Ở biên giới, chúng tôi phải chờ hai giờ, giấy tờ xe không hợp lệ, tôi thì vẫn không có hộ chiếu, bố tôi điều đình, rồi nộp phạt hàng cuộn tiền cedi. Khi chúng tôi về đến nhà, Bibi nói không ra tiếng, đứng không vững. Tôi ở bên con bé cả đêm. Tôi muốn cầu nguyện nhưng không thốt ra được điều gì khác ngoài việc lặp đi lặp lại cho đến đờ dại: “Chúa ơi, đừng để con bé chết.” Hôm sau, bác sĩ đến chích vài mũi chloroquine nhưng cơn sốt còn kéo dài thêm vài ngày. Ông ấy nói Bibi có thể lên cơn co giật và vẫn ở trạng thái chưa bình thường. Tôi canh chừng từng giây, từng cơn run rẩy, tôi đến tủ lấy khăn ướp lạnh, tôi ép em uống nước, tôi giúp em ngồi lên bồn cầu để đi vệ sinh. Sau này tôi nghĩ đó là lúc tôi bắt đầu rời xa Bibi. Có thể là tôi không muốn đau khổ, đơn giản thế thôi, và rồi tôi biết rằng Bibi không phải em ruột mình, rằng sớm muộn con bé cũng sẽ bỏ rơi tôi, rằng em sẽ về phe ông bà Badou. Rằng em sẽ sống cả đời bên nhà đó. Và điều đó đã xảy ra.
Hakim đón tôi về ở nhà anh. Anh yêu tôi, anh muốn tôi thành bạn gái của anh. Hay đúng hơn, anh muốn thành người tình của tôi, đó là từ anh đã dùng. Anh muốn chúng tôi bắt đầu cuộc sống chung, cuộc sống của người trưởng thành. Anh đã trốn khỏi gia đình, cha anh là người hung dữ, anh đã trải qua thời thơ ấu giữa mẹ và những trung tâm cơ nhỡ, anh đã nếm mùi những điều tồi tệ nhất, những cuộc trốn chạy, những cuộc chiếm ngự, những băng du côn ngoại thị sống buôn gian bán lận và trộm cướp. Anh chỉ hơn tôi năm tuổi nhưng nói năng như anh lớn của tôi. “Đừng làm cái này, đừng làm cái kia, em còn tốt hơn cả lũ ranh này cộng lại.” Tôi nghe lời anh, tôi theo học khóa kịch, tôi đến những buổi gặp gỡ. Anh đã chọn tôi cho vở đêm thứ Hai trăm lẻ hai , anh nói tôi sinh ra để đóng kịch.
Anh có rất nhiều bạn, tất cả đều tin chúng tôi thực sự là một cặp uyên ương. Nhưng sau vài tuần, tôi lại cảm thấy trống rỗng và giận dữ, rồi tôi lại ra đi, đeo ba lô và mũ chụp xuống tận mang tai. Tôi cần yên lặng, nghĩa là cần tiếng động phố phường, cần chen vai thích cánh giữa đám đông. Tôi quanh quẩn ở Bicêtre, hoặc những con phố gần Jussieu và Vườn Bách Thảo, hoặc gần ga Austerlitz, Saint-Médard, Ortolan, Pestalozzi, Patriarches, và cả khu Denfert- Rochereau, Tombe-Issoire, Alésia, Broussais, Cabanis, rồi cả quanh bệnh viện Sainte-Anne, Pascal, Cordelières, Broca, Croulebarbe, Reculettes, Boussingault, và dù ngày này hay ngày khác, hoặc đúng hơn, dù sáng hay chiều, bao giờ cũng trở về phía Friant, qua đại lộ Marne, Châtillon, Chantin, Cam, Carton, Coulmiers, tại sao luôn luôn là những tên phố bắt đầu bằng chữ c ? Rồi cái sân trong ở khu Friant, bao quanh là những mảng tường gạch xấu xí, nơi có cái tháp chuông quen thuộc, những thanh niên lang thang, những mụ già say khướt, thỉnh thoảng bị đám bảo vệ của siêu thị kế bên và những người gác cổng cấm cảu đuổi đi, nhưng họ vẫn luôn quay trở lại như thể bỏ quên cái gì đó, vẫn ở chỗ ấy, trong những ngõ hẹp bẩn thỉu, giữa những chùm hoa bọ cạp vàng và hoa trúc đào, với ánh nắng dịu nhẹ phản chiếu lên những mặt tiền bằng kính, và trong số những ô cửa sổ kia có cửa sổ nhà nha sĩ Lartéguy cùng mụ trợ lý da rám nắng, còn gọi là Chenaz Badou.
Tôi thuộc hội những kẻ lang thang: vô gia cư, ăn mày, trẻ nghèo đói, phường móc túi, gái làng chơi, những ông già tứ cố vô thân, những bà già chân bị loét phù tĩnh mạch, những người trẻ trầm cảm, những nông nô, những kẻ bị phát vãng, người Phi lưu vong, những tâm hồn nhạy cảm, những môn đồ mới đang tìm đạo sĩ, thầy bói về vườn, những kẻ rắp tâm tự sát, những kẻ giết người nhút nhát, những bà mẹ mất con, những người vợ bị ruồng bỏ, những thiếu nữ trốn nhà, những kẻ phô dâm đáng xấu hổ, và còn nhiều loại khác nữa. Còn tôi, kẻ không tên, không tuổi, không nơi sinh, tôi đến nền đất này như một chiếc vỏ bị sóng đánh dạt vào bờ.
Một ông lão người Mauritanie mặc áo choàng dài ngay giữa tiết trời mùa hè đang đọc sách, rồi xướng lên lời giáo huấn của nhà tiên tri Muhammad, thoạt tiên bằng tiếng Ả Rập, sau đó bằng tiếng Pháp, chậm rãi, không vấp váp:
“Con người ta, mỗi ngày mặt trời mọc, đều phải làm từ thiện trên từng khớp cơ thể mình. Công bằng giữa hai người là một điều từ thiện, giúp ai đó cưỡi lên lưng ngựa hay giúp người đó chất hàng là một điều từ thiện, một lời nói dịu dàng là một điều từ thiện, mỗi bước đi đến chỗ cầu nguyện là một điều từ thiện, dẹp mọi chướng ngại vật trên đường cũng là một điều từ thiện.”
Tôi không hiểu rõ lắm ý nghĩa những lời này, nhưng chúng khiến tôi cảm thấy thật thanh thản.
Một hôm, ông lão nhìn tôi và bảo: “Hãy yêu Thượng đế như thể con thấy Ngài, bởi dù con không thấy Ngài thì Ngài vẫn thấy con.”
Nhưng tôi đâu có kiếm tìm Thượng đế, tôi muốn nói với ông lão như vậy. Người mà tôi tìm kiếm là mẹ tôi. Người đã tạo ra tôi, đã nuôi dưỡng tôi bằng máu và sữa của mình, người mang tôi trong mình rồi quẳng tôi vào thế giới. Những chuyện khác liệu có quan trọng với tôi? Nào chiến tranh, đói nghèo, nào tội ác, cách mạng, liệu đó có phải việc của tôi không? Đúng hơn đó là việc của Thượng đế nhà ông, người nhìn thấy tất cả.
Hakim King nói liên tục hết chuyện này sang chuyện kia, mọi thứ trên đời, anh nghe đài, anh xem ti vi rồi anh phẫn nộ. Thảm sát người vô tội ở Beyrouth, Djenin, khủng bố cảm tử và đánh bom ở Iraq, Gaza, Phi châu. Thoải mái trong căn hộ của mình, anh có thừa thì giờ để nói về các chuyện đó, giữa đám bạn hữu và mấy trợ lý, với đồng lương nhân viên xã hội ở trung tâm Malraux, uy quyền của anh. Cái nhà hát chết tiệt của anh. Anh thì lúc nào chẳng ở bên hợp lẽ. Anh thì vẫn luôn có mẹ. Một hôm, anh giới thiệu tôi với mẹ anh, ở khu ngoại ô gần Melun, anh gõ cửa căn hộ của bà và bà ra mở cửa, một bà già nhỏ bé, nhăn nheo và còng, mặc áo caftan thêu, đôi tay và trán xăm màu xanh lơ. Bà nói tiếng Pháp không sõi, câu cú lúc lại xen lẫn những từ Ả Rập, bà mời chúng tôi trà ngọt và chà là khô, khi chúng tôi rời đi, Hakim hôn lên trán bà.
Tôi bấm chuông nhà bác sĩ Lartéguy. Tôi cứ ngỡ sẽ gặp Chenaz, nhưng người mở cửa lại là một cô gái. Cô bắt tôi điền một tờ khai. Tôi không khai gian, răng tôi hầu như cái nào cũng đau. Đúng vậy, đây là lần đầu tiên tôi đi khám bác sĩ. Tôi bịa ra một cái tên, Rebecca Kuti, tôi dám chắc ông bác sĩ chưa bao giờ nghe nói đến dòng nhạc afrobeat*. Phần địa chỉ, tôi định viết là Lagos, Nigeria, nhưng cô lắc đầu: “Không có địa chỉ ở Paris à?” Thế là tôi khai địa chỉ nhà Hakim King.
Dòng nhạc do Fela Anikulapo Kuti sáng lập ở Lagos vào những năm 1960.
Cuộc thăm khám diễn ra chóng vánh. Bác sĩ quan sát miệng tôi, kéo khẩu trang xuống, đẩy kính lên và bản án được tuyên: “Cô gái ạ, răng cô ở trong tình trạng mà sẽ phải mất hàng tháng mới chữa khỏi hết cho cô, cô nên tính cách khác, đỡ tốn kém hơn.” Cách nào bây giờ? “Nhổ hết răng hỏng và trồng răng giả, nếu cô không có tiền thì có thể bảo hiểm sẽ trả cho cô.” Suýt chút nữa thì tôi phá lên cười. Liệu ông ta có nói điều tương tự với cô con gái nuôi của mình, với đứa trẻ tuyệt vời đã được ông ta đăng ký cho học trường Y để đến năm hai mươi tám tuổi, cô ta sẽ không còn cái răng nào nữa mà thay vào đó là mấy cái móc kim loại gắn vào hai cái răng hàm cuối cùng? Trên một tờ giấy có in sẵn tên, địa chỉ ở đầu trang, ông bác sĩ nguệch ngoạc tên một nha sĩ nào đó ở bệnh viện. Ông từ chối lấy tiền. Ông nóng lòng muốn tôi biến nhanh cùng ba lô và mũ trùm đầu của tôi, muốn tôi trở lại khu phố tôi ở, và tôi chẳng cần áp tai vào cửa nhà ông cũng vẫn nghe thấy tiếng ông nói qua điện thoại với vợ yêu của mình rằng bà phải làm thế nào để tôi đừng bao giờ đến phòng khám khiến ông mất thời gian nữa.