← Quay lại trang sách

- 1 - (2)

Để tỏ sự ngưỡng mộ về tầm kiến thức bao la của ông tướng nầy, tôi chọn một câu khen tán của chính các ông đặt ra.

– “Độc vạn quyển thư, bất như hành vạn lý lộ, đồng quân nhất dạ thoại, thắng đọc thập niên thư” (đọc vạn quyển sách không bằng đi vạn dặm lý, cùng ngài nói chuyện một đêm còn hơn mười năm đọc sách).

Chúng tôi lại cười vang, không hề chú ý đến đám người hỗn tạp chung quanh đang ngược xuôi, lên xuống.

– Đa tạ, xin trả lại lời bà khen, đã gọi là tri kỷ rồi, tưởng không cần phải nói chi những lời khách sáo.

– Còn Việt Nam chúng tôi, tướng công thấy sao?

– Thấy sao ư? Nếu căn cứ theo sự phân chia đất đai của người xưa thì có thể bảo rằng quý quốc thuộc Thiên Thị Viên, tại sao gọi là Viên, bà biết chứ? Viên là bức tường thấp rào chung quanh, ở đây nó có nghĩa như thế.

Tôi gật đầu, nhận thấy ông tướng nầy quả có mang dòng máu làm Sư thiên hạ, giảng giải kỹ càng, lúc nào cũng sợ học trò quá kém, hiểu không tới. Nhưng người đã thích giảng dạy thì cho giảng dạy, có vậy ngài mới hào hứng để nói chuyện chăng.

– Xin tướng công cứ giảng hết đi, xem như tôi là kẻ phàm trần tối tăm, cần đi tìm thầy để được học hỏi.

Tướng Mông Điềm có vẻ hài lòng, đàn ông vốn ghét đàn bà cứng đầu bướng bỉnh, càng búp bê lại càng được hoan nghênh. Ông tướng tiếp tục nói thêm về Thiên Văn, càng hay tôi đỡ phải đi tìm mua sách.

– Từ thời nhà Hạ, vua Vũ đã biết vạch ra 9 đơn vị, gọi đó là Cửu Châu. Nhưng trước hết phải nói qua rằng, người xưa cho ngành Thiên Văn Học là thiên cơ, mà thiên cơ thì bất khả lậu. Nếu mọi người đều biết về Thiên Văn, tức sẽ là một đại họa cho quốc gia, vì thế mà có lệnh cấm. Một vị vua còn tàn nhẫn hơn, ông cho người viết ra một quyển Ngụy Thư về hai môn Thiên Văn và Địa Lý, cho mọi người bị hỏa mù không còn biết đâu là chân đâu là giả, đó là một tội ác vô cùng. Cũng ác như người đi buôn thuốc phiện vậy. Bà có nghe nói đến Trương Lương chứ.

– Có, ông còn một tài nữa là thổi sáo. Mà vị vua ác ôn sợ dân biết về hai môn Thiên Văn, Địa Lý nầy có phải là Đường Huyền Tông không? và tác phẩm đó là Đông Hàm Kinh để “dĩ loạn kỳ chân” phải không.

Tướng Mông Điềm mỉm cười, chắc ông đang nghĩ rằng tôi chỉ chú trọng có mỗi một thứ trong đời là âm nhạc, tuy cũng chịu khó đọc ít sách vở ông nói tiếp, giọng nói sang sảng cao hứng, có lẽ vì gặp được đối thoại không đến nỗi quá đần.

– Trương Lương rất giỏi về khoa Thiên Văn, sau khi giúp xong nhà Hán, ông đi ẩn lên trên núi chẳng còn ai biết đâu mà tìm.

– Tiếc nhỉ, giá ông ta chịu ngồi xuống mà viết lên thành những quyển sách cho chúng ta được học hỏi. Nhưng xin tướng công nói nốt.

– Khi người xưa gọi châu quận triền thứ, tức là sự đối chiếu trên trời sao nào thì dưới đất thuộc vùng nào.

– Tại sao bây giờ ít người chịu nghiên cứu môn nầy quá.

– Đã bảo là thiên cơ, không nên tiết lộ nhiều, không nên để cho nhiều người biết, chỉ có hại, bà cũng không nên quá tò mò, chẳng ai cần đến sự cố gắng, sự tò mò tìm kiếm của mình đâu. Có kẻ còn nghĩ rằng người sưu tầm chỉ cần mở một quyển sách ra ghi lại, nhưng họ quên đặt câu hỏi rằng sách nào? trước khi đọc sách, mà đọc cho tới cũng phải bỏ ra bao nhiêu năm học hỏi, vả lại đâu phải chỉ trong một quyển sách mà đủ, nếu chỉ tìm trong một quyển sách, thì ai gọi đó là sưu tầm.

– Kệ chứ, ai nói gì thì nói, tôi học cho tôi, tướng công nói nốt đi. Xứ Việt chúng tôi thuộc Thiên Thị Viên, chứ không thuộc Tử Vi Viên, hoặc Thái Vi Viên, rồi sao nữa?

Tướng Mông Điềm như không thèm nghe câu thúc dục của tôi, cứ tiếp tục nói cho hết ý mình.

– Ừ, cái nhà ông vua Vũ đời nhà Hạ, đúng là bậc thánh nhân. Ngài tinh thông về môn Thiên Văn, các triều đại về sau cứ vậy mà noi theo để học hỏi. Phàm quan lên tới nhị phẩm là đều phải mang tổ tiên quê quán ra để tra cứu, hạch hỏi, do một vị Tinh Quan chuyên lo việc ấy.

– Tinh quan là người chỉ có lo quan sát về tinh tượng mà thôi phải không?

– Đúng, nhưng không dễ đâu, phải là một người có đầy đủ kiến thức học rộng, đạo đức cao. Thượng thông Thiên Văn, Hạ đạt Địa Lý, Trung…

Tôi dành nói tiếp.

– Trung tri nhân sự, có phải đó là vị Thái Bảo trong Tam Công chăng?

– Gọi rằng Tam Công nhưng đó là ba chức dồn trong một người, và người nầy còn phải là một nhân vật được mồ mã nữa chứ không phải ai muốn học hành thi đỗ ra là có thể làm. Còn phải mấy đời ông cha ăn ở đức độ mới sinh ra được một người con cháu làm đến Tam Công.

– Thái Bảo, Thái Truyền và Thái Sư phải không, công việc của Tam Công là gì, tôi chỉ nghe nói, mà tướng công có biết là tôi đã dám phong cho ba cây trúc ở trước nhà tuy chưa hiểu rõ, xin tướng công giảng cho được nghe thêm.

Ông tướng mỉm cười khi nghe nói tôi phong cho ba cây trúc ở nhà, biết ngay rằng tôi bắt chước người xưa.

-Thái Bảo chuyên lo về long huyệt cho Hoàng Gia, Thái Truyền để tuyên truyền uy danh của nhà vua và Thái Sư để dạy vua học, nguyên tắc là như vậy, nhưng rồi sau đó có một vài vị quá giỏi đã làm thay đổi, kiêm nhiệm được tất cả.

– Xin được nghe một tên, như ai chẳng hạn.

– Lã Mông Chính.

– Là cái người con trai được mồ mả, mà đã bị bố đuổi ra đó phải không?

– Ừ đúng đấy, số mệnh cả, có hai nhà phong thủy đã tìm ra lý do, vì cái nhà ở, dương trạch có những điểm xấu, nên mới xui ra ông nầy không thể ở, và những người con khác mẹ ở trong nhà đều rất tầm thường, người nào cũng bị mũi hếch lên. Thế mà sau Lã Mông Chính làm đến chức Tam Công, thế có lạ không?

– Làm sao ông ấy đi học, vì nghèo đến độ gần như phải làm hành khất.

Có mấy giải pháp tuy sử sách ít nói ra, mà người ta mò như bà cũng không nhiều, nên chẳng ai thắc mắc. Theo tôi thì sử có chép một độ ông ta phải vào ở chùa. Nơi nầy cũng có thể học hỏi, hai là có những người được thiên phú … từ kiếp trước, hay là …

– Còn Tinh quan thì sao.

Tôi hỏi để trở lại với vấn đề, nếu không thì chẳng bao giờ xong một câu chuyện gì, cả tướng Mông Điềm lẫn tôi đều hay bỏ đi ra ngoài vấn đề khá xa.

– Vị quan nầy lo chung cho cả nước, nhưng sao chúng ta cứ đi vượt ra ngoài vấn đề mà thì giờ của bà thì có hạn. Hãy để yên cho tôi nói nốt. Khi vị Tinh quan nhận thấy một vị quan nhị phẩm nào đó mà có sao ở Tam Viên Đế Tòa. Biết rằng rồi đây ông nầy có thể chiếm ngôi báu, thì phải trình tâu lên, xin cách chức ngay, nếu không tìm một tội gì để đưa ra ngoài biên ải, những nơi ma thiêng nước độc, hy vọng nhờ các thứ bệnh hoạn muỗi mòng kết thúc hộ, khỏi phải lên án xử tử.

Ông tướng ngừng giọng, tôi chợt nhớ đến một lũ bạn người ngoại quốc ngày ấy chúng tôi hay nghịch, cứ thấy một vị quan ngoại giao nào tuổi hơi già, lại không được nhanh nhẹn, thông minh là chúng có ác ý nghĩ ngay rằng, hẳn nước của ông ấy có ý muốn nhờ chiến tranh Việt Nam giải quyết hộ chăng.

Thấy tôi hơi mỉm cười, tướng Mông Điêm đọc ngay những ý nghĩ của tôi, ông ta cũng mỉm cười, nói tiếp câu chuyện, nhưng cũng chen vào một câu chứng tỏ sự đọc được ý nghĩ của người cõi trần.

– Chiến tranh Việt Nam nhà bà đâu có gì đáng sợ, có phải ra xông pha ngoài mặt trận mới đáng ngại chứ. Một vở tuồng đã được viết sẵn hết rồi, chỉ có đến nằm trong lòng đô thị thì cũng như một cuộc du lịch đổi không khí xứ nhà vậy thôi, nhưng bà quả là hay phân trí, nghe tôi nói nốt có được không.

– Xin tướng công tha lỗi, tại nhớ đến cái thời đi làm báo, mà lũ ký giả ngoại quốc nó nghịch như quỷ, tướng công nói nốt đi.

– Nếu người nào mà sổ sách không rõ, chẳng biết con cái nhà ai, quê quán tại đâu thì bị ghi là “Thân gia bất thanh” tức là loại người khả nghi, chính phủ tuyệt đối không dùng, và như tôi đã nói ban nãy là không được thi cử, vì không biết gốc gác thì làm sao mà đề phòng.

Tôi lại ngắt lời vì vừa chợt nhớ ra nhân câu chuyện đi đày một vị quan mà tướng Mông Điềm vừa nói ban nãy.

– Xin phép cho tôi lại nhảy ra ngoài đề, ban nãy tướng công nói đến vùng ma thiêng nước độc, hình như tôi có đọc ở đâu bảo là Thi sĩ Tô Đông Pha cũng bị…

– Ừ, vì thế mới có cái biệt hiệu là Đông Pha cư sĩ, vì cái chỗ ông bị đày tới là Hoàng Châu, cực khổ vô cùng, không chịu nổi phong thổ. lại thêm tiền lương hao hụt mà còn phải nuôi gia đình khá đông. Đến nỗi mỗi tháng khi lãnh lương về là phải chia từng gói nhỏ mang bỏ trong một cái giỏ treo trên nóc nhà, mỗi ngày có người cầm sào móc xuống một gói để chi dùng trong ngày hôm đó. Xong rồi phải mang cây sào dấu đi, nếu còn dư chút ít tiền trong ngày hôm ấy thì lại gọi là tiền để dành đãi khách.

– Tại sao ông ta bị đày, một con người tài hoa như thế.

Ông bị cái nhóm người Lý Định, Thư Đản, Hà Chính Thần, là những người vì ganh ghét nên mang ra tố rằng thơ văn của Tô Thức đầy ý ngạo mạn, phỉ báng triều đình. Sau một thời gian bị đày, nếu gặp kẻ thường tình thì đã chán nản bỏ cuộc, nhưng Tô Thức không phải ở vào hạng ấy nên ông đã vươn lên, nhờ các bạn giúp mua được một khu đất hoang phía đông hướng về Phủ Chính lại có những gò đất chập chùng nên mới đặt tên là Đông Pha, và từ đó mình cũng lấy bút hiệu là Đông Pha cư sĩ. Điều đáng tiếc nhất là do sự đày đó, mà vợ con ông đã mang một số thi văn của ông đốt đi, bảo rằng vì thi văn mà đói khổ.

– Thảo nào mà người ta hay bảo phụ nhân nan hóa, nhưng thôi xin tướng công nói nốt đi, chính tướng công cũng hay nhảy ra ngoài đề chứ không riêng mình tôi.

– Ban nãy chúng ta nói đến Việt Nam nhà bà ở Thiên Thị Viên, nơi nầy gồm 22 chòm sao, có những chòm hội đến 9 vì sao như chòm Quán Tác, và người xưa đã phân phối 22 chòm sao ấy ra 22 khu đại biểu. Chỉ tiếc rằng sự phân chia ấy không còn phù hợp với thời đại của người đời nay, vạn vật biến đổi trong cuộc đời, trên quả đất. Bao nhiêu nghìn năm qua, các vì sao cũng phải đổi dời vị trí, một số sao quá già, đã tắt đi. Do đó nên những học thuyết về tinh tòa giữa Á với Âu có nhiều điểm bất đồng. Tuy vậy theo chúng tôi khảo sát lại, đối chiếu giữa xưa và nay, thì Thiên Thị Viên thuộc khu vực của 4 sao Tâm, Phòng, Đẩu và Cơ. Bốn chòm sao nầy cũng đã gồm có một số sao khá nhiều. Dùng Bộ Thiên Ca là quyển sách trắc lượng về Thiên Thể mà phán đoán.

– Tác giả là ai?

– Chỉ cần biết cái tên sách đi lùng mua là đủ, nhân bà sẽ có dip sang Hồng Kông, chứ ở đây không có đâu. Sách gồm 7 quyển, theo tôi thì Việt Nam quý quốc có rất nhiều liên hệ với bản quốc. Ngày nào bản quốc chấm dứt được những sự đấu tố, tù đày, hết các quan áo đỏ, thì quý quốc cũng phải đổi tuồng chứ ở đó mà múa rối cho ai xem nữa.

– Lâu quá tôi chỉ sợ cái chính thể quá hà khắc, quá nghèo đói đã làm chai sạn hết tất cả mọi tấm lòng, làm sao mà cứu vãn lại. Nhưng theo sự nhận định của tướng công thì tại sao Việt Nam chúng tôi lại phải chịu đựng sự khốn khổ quá như vậy. Nào nạn hải tặc, nào sự bị đuổi thuyền ra khỏi bến ở những quốc gia tự do, nào tù đày trong nước… Trong khi các nước láng giềng đều được nâng cao mức sinh hoạt. Tội lỗi những người nầy thật là “Khánh Nam Sơn chi trúc, bất dĩ thư kỳ ác”

– Oán khí ngùn ngụt chất chứa lên tận chín tầng mây, mỗi một triều đại qua, chẳng thấy có ai làm gì đức độ, mà chỉ thấy chất chứa thêm nhiều hận thù.

– Nhà Phật dùng chữ cộng nghiệp đó, tướng công nghĩ sao?

– Cộng nghiệp chung của cả nước, biệt nghiệp của mỗi cá nhân, mỗi vị trưởng giả, mỗi vị thương gia, mỗi cấp chỉ huy hơi cao một chút đều có đóng góp vào đấy. Oán thán rền rĩ, mà có ai nghe, với đôi tai phàm tục thì làm sao nghe nổi. Nếu mang xác chết mà sắp dài thì có thể trải khắp hình chữ S của quý quốc đấy, e chừng lại phải chất lên đến mấy từng cao, chứ một hai tầng chưa chắc gì đã đủ.

Nghe tướng Mông Điềm nói sao tôi cảm thấy buồn, chắc phải đổi vấn đề, tìm câu chuyện gì vui hơn, chờ ông vừa im tiếng, tôi quay sang hỏi chuyện khác ngay.

– Tướng công có đọc mấy câu thơ của thi sĩ Đỗ Phủ trong bài Bát Trận Đồ đấy chứ.

Công cái tam phân quốc

Danh thành Bát Trận Đồ

Giang lưu, thạch bất chuyển

Di hận thất thôn Ngô.

– Con người nầy lại muốn thay đổi vấn đề phải không? Thì thay đổi cho đầu óc bớt căng thẳng, ngày mai, ngày kia, lúc nào cảm thấy hứng thú chúng ta lại bàn tiếp về cái Việt Nam đầy oán khí của nhà bà.

– Cảm ơn tướng công. Bây giờ xin nói về bài thơ.

– Bài nầy là một loại Hoài Cổ Thi, nhà thơ Đỗ Phủ rất phục Gia Cát Lượng, có bao nhiêu nhân vật khác như Tào Tháo, Tôn Quyền, Lưu Bị… mà chỉ có Gia Cát Khổng Minh là bậc tài khí quá nhân, chứng cớ là cái Bát Trận Đồ còn đó…

Không đợi ông tướng ngừng, tôi đưa tay ra hiệu xin được ngắt lời, ngắt ý, tôi muốn hiểu về cái Bát Trận Đồ nầy trước khi nói đến bài thơ.

– Xin được nghe về cái Bát Trận Đồ. Tôi muốn tìm hiểu nhưng bản xứ, về sau nầy chỉ chuộng Âu nên chẳng ai còn chú ý đến những gì vừa cổ, vừa không thông dụng. Nếu ngày trở về tôi có đưa câu chuyện của chúng ta hôm nay ra kể lại, chắc sẽ có nhiều người hỏi han kỹ hơn, được nghe từ một vị tướng giảng giải cho, chắc phải rõ ràng dễ hiểu hơn nhiều.

Tướng Mông Điềm mỉm cười dấu chút ngạo nghễ, hẳn ông đang chê tôi khéo nói, nhưng rồi ông vui vẻ đổi sang giảng về Bát Trận Đồ. “Nghề của chàng” mà, không thích nói lên sao được.

– Nếu mà nói thật kỹ thì phải mất hằng mấy buổi, đây tôi chỉ nói sơ qua, sau nầy lúc về kể lại, mà có ai còn thắc mắc thì bảo họ sang đây gặp tôi giảng thêm. Mà chắc cũng chẳng còn ai thèm thắc mắc ngoại trừ một vài kẻ có máu gàn như…

– Như ai?

– Ai thì tự biết lấy.

Cả hai chúng tôi cùng cười, không cần phải nói ra, tướng Mông Điềm lại giảng tiếp.

– Bát Trận tức là tượng theo hình Bát Quái mà định vị. Lấy Tinh địa mà chế hình, ở đây chữ tỉnh có nghĩa là cái giếng nước, viết với bộ nhị. Thiên hữu xung, Địa hữu trục.

– Trục thì biết, nhưng Xung là gì?

– Xung là lưỡng thiên thể, xích hoàng tương cự có thể dùng tiếng Pháp để giảng thêm đó là “point stratégique” cho mọi người dễ hiểu. Nhưng tôi nghĩ rằng, trước hết chúng ta phải nói rõ về cái gọi là Bát Trận Đồ nầy. Ngày nay có nhiều nơi cũng xưng là địa điểm Bát Trận Đồ của Vũ Hầu Gia Cát Khổng Minh. Tại Thiểm Tây, rồi tại Tứ Xuyên huyện Tân Đô, nhưng chính thực là tại Tứ Xuyên mà ở huyện Phụng Tiết. Đây cũng chính là nơi mà Đỗ Phủ đã đi qua và đã làm bài thơ than cho người tài bị thất thời.

Bà vừa hỏi Xung là gì? Có thể giảng thêm, xung là xung đạo, tức là lối ngõ ngách trọng yếu. Địa hữu trục, chữ trục có nghĩa là cái nòng cốt bánh xe. Tiền, hậu, tả, hữu, hữu hành, chữ hành đây có nghĩa là cây cân, và đó là định vị của Bát Trận.

Khích nguyệt hoàn, vệ ư hậu, tức là ở phía đằng sau, ở những chỗ hẻo lánh, hang hốc có một vòng bảo vệ như Vũ Dực, ở phương nam được gọi là Thiên Phúc, và ở phương bắc là Địa Tải, lúc biến hóa phải như mây phủ ở phương đông (vân thùy biến ư đông). Phương tây cũng như gió biến hóa, đông nam như rồng bay, tây bắc như hổ vồ. Những khối đá được xếp đặt theo hình tượng ấy ở trên bờ Trường Giang mà ngày nay còn dấu tích.

Định vị rõ ràng, quân lính cứ theo đó mà luyện tập. Kỳ, Chính tương sinh… nhưng nói ra thì người đời nay chắc chẳng mấy ai hiểu và ưa thích. Riêng bài thơ của Đỗ Phủ, câu thứ nhất: Công cái tam phân quốc. Tức là muốn nói đến 3 nước Ngụy, Thục, và Ngô.

Tác dụng của Bát Trận Đồ thời ấy, quá hơn thiên binh vạn mã, thế mà chỉ vì, khi Gia Cát Lượng đề nghị với Lưu Bị, nên liên kết với Ngô để diệt Ngụy. Lưu Bị không nghe, ông còn có mối thù riêng với Ngô, vì Ngô đã giết đại tướng Quan Vũ là người anh em kết nghĩa của mình, nên Lưu Bị không thể tha thứ. Ông đã quá căm hận mà không chấp nhận, nghe lời bàn có tính cách mưu lược ấy, cứ mang quân đi đánh Ngô.

Kết quả là đại bại, phải kéo tàn quân về, từ đó Lưu Bị buồn mà phát bệnh để rồi chết. Vì thế nên mới có câu thơ thứ ba: Giang lưu thạch bất chuyển (nước vẫn chảy, nhưng đá vẫn còn trơ trơ ) cũng như những khối đá của Bát Trận Đồ còn đó, mà để làm gì. Và câu cuối: Di hận thất thôn Ngô. Là mối hận lớn để lại, hận là tại sao lại để mất đi cái cơ hội lập thế, cùng đi với Ngô để kháng Ngụy.

Đỗ Phủ được gọi là thi thánh, ông là một người trung trực đối với quốc gia, với bạn bè, với người thân lúc nào cũng thắm thiết, nên những lời thơ viết tự tấm lòng ấy, bao giờ cũng làm cho mọi người dễ cảm xúc. Ông đã gây nhiều ảnh hưởng trong các thi nhân của thời đại. Ông là một thi sĩ đã làm cho nước nhà được kiêu hãnh, đó mới là một tài hoa chân chính.

Tôi lắc đầu, tỏ vẻ không tán thành, nói thế thì bao nhiêu thi sĩ khác để đâu, tôi đã cố ý sửa lại, cũng có chút muốn trêu tức cái nhà ông tướng nầy chơi.

– Tướng công nói vậy chưa đúng, phải nói rằng ông là một trong những nhà thơ đã làm cho nước nhà kiêu hãnh, nếu không thì… còn bao nhiêu thi sĩ khác bỏ đâu.

– Biết rồi tại tôi chưa kip nhắc đến ông Vương Duy, ông Lý Bạch, ông Bạch Cư Dị của bà chứ gì…

– Nào phải của tôi, giá mà của tôi thì lúc nầy tôi đâu ngồi đây, thưa chuyện với Tướng công.

Tướng Mông Điềm vuốt râu vui vẻ hẹn.

– Cho ngoan ngoãn rồi lần sau tôi mời các ông ấy cho mà đàm luận.

Nghe vậy thì biết vậy chứ tôi chắc không thể nào đủ giờ, vì còn rất nhiều chuyện để bàn cãi, thảo luận với ông tướng nầy, vả lại tôi vẫn ngại các ông văn thi sĩ, hay nhõng nhẽo, nói chuyện gì mà thoát ra ngoài cái sở trường của họ là họ không vui. Ông thì hút thuốc, ông thì uống rượu, ông thì cả tam tứ đổ tường mà tôi thì cái gì cũng không thích, sợ e khó làm hài lòng các ngài tuy nhiên, nếu có thì giờ để được gặp quý vị thì cũng không phải là điều không phải là không thú vị. Chỉ sợ thì giờ quá eo hẹp.

– Cảm ơn tướng công, xin để cho một dịp khác, nhân đề cập đến các thi nhân xưa, sao các ngài hay nói đến Dương Quan nhỉ. Nhiều bài thơ của nhiều tác giả thường nhắc tới.

– Dương Quan ở phía Nam Ngọc Môn Quan, mà Ngọc Môn Quan lại ở về phía Tây tỉnh Cam Túc, huyện Đôn Hoàng. Phía ngoài Ngọc Môn Quan là tỉnh Tân Cương ngày nay. Thời Xuân Thu cũng có một Dương Quan ở nước Lỗ, ngày nay gọi là huyện Ninh Dương, tỉnh Sơn Đông, tại Hà Nam cũng lại có một Dương Quan nữa.

– Thế Dương Quan khúc? Ngày nào Tướng công sang viếng xứ Hoa Kỳ, xin mời đến tệ xá có sẵn mấy cây đàn, xin được nghe khúc Dương Quan ấy.

Tướng Mông Điềm trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi mỉm cười nhìn ra phương xa, ông đưa tay chỉ vừa nói.

– Nơi xa kia là Long Thành, thời ấy, hằng năm Hung Nô vẫn tổ chức đại hội.

– Tướng công có đến dự và có đánh đàn chăng?

– Không, tôi chỉ đánh đàn vào lúc đêm khuya hoặc buổi sáng sớm, chỉ đánh cho một mình mình nghe.

– Tôi muốn tướng công nói về khúc Dương Quan mà sao tướng công lại ra ngoài đề.

Ông tướng lắc đầu, chắc trong đời ngài ít khi bị ai làm trái ý, quen được tuân lệnh. Kệ chứ, nhập giang phải tùy khúc, thế kỷ gần sang đến thứ 21 rồi, cổ hủ quá sao được.

– Dương Quan Khúc là Vị Thành Khúc, bài thơ của Vương Duy, bà biết mà:

Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu.

Tây xuất Dương Quan vô cố nhân

Bài nầy đã được phổ nhạc và đã được người thời ấy rất hâm mộ. Nó thuộc loại Tống Biệt nên ai tiễn đưa ai cũng cũng ca cũng tấu khúc Dương Quan nầy. Người đời còn gọi hai câu ấy là Dương Quan đệ tứ thanh.

– Lý do vì sao?

– Vì cái nhà ông Bạch Cư Dị lúc làm bài Đối Tửu Thi có hai câu:

Tương phùng thả mạc thôi từ túy.

Thính xướng Dương Quan đệ tứ thanh

Khúc Dương Quan nầy lại còn được chia ra Bắc khúc và Nam khúc. Bà cứ về sẵn sàng chuẩn bị lên dây đàn trước đi. Bao giờ có dịp, nói theo tiếng nhà Phật, bao giờ có duyên, tướng Mông Điềm nầy sẽ đàn cho mà nghe. Nam khúc hơi buồn, nhưng lúc tiễn đưa nhau có mấy khi vui.

Tôi sợ phải nói đến những lời những chữ tiễn đưa, biệt ly bèn nhẹ nhàng đổi câu chuyện.

– Ngày còn bé tôi lên 6 tuổi, có lần được nghe bố tôi đọc bài diễn văn giã từ, khi ông phải lìa tỉnh Kontum để đi nhậm chức Tuần Phủ tỉnh Quảng Bình. Bài diễn từ đọc trong buổi tiệc tiễn đưa. Tôi nhớ mãi nên đã thuộc lòng hai câu ấy. Mặc dầu không hiểu tí nào về cái chiều hướng thâm sâu của tác giả, khi bảo khuyến quân, nhưng sự thật chính là tự khuyên mình. Hồi ấy tôi cũng không hiểu cả bố tôi, vì có bao giờ gần gũi để tâm sự, nhưng tôi thích hai câu ấy, nghe âm điệu thật gợi hứng.

– Một phần vì bà là con gái, mà có ai đi nói chuyện văn chương với đứa bé lên 6 tuổi bao giờ.

– Cũng đúng, tôi là con gái mà lại tiếp liền thứ bốn, vừa u mê, vừa bệnh hoạn, ngồi đâu thì hóa đá ở đó, đuổi ruồi không bay. Ai hỏi đến là chạy trốn.

Tướng Mông Điềm gật gù nhìn tôi cảm thông, thoáng có chút thương hại, nhưng tôi đã ngạo nghễ mím môi nhìn lại ông, tỏ thái độ bất cần. Người ta là con cháu bà Trưng bà Triệu chứ. Ông tướng chịu thua không đám thương hại nữa. Thấy quãng thời gian gần 30 giây trôi qua hơi phí thì giờ, tôi vội lên tiếng trước. Hỏi cái gì đây, một trăm nghìn vấn đề, đủ mọi mặt.

Chợt nghĩ đến độc giả, hẳn cũng có nhiều người nôn nóng khi thấy tôi không biết hỏi cái gì. Thế nào cũng có người sẽ bực tức, sao có thể u mê, nghìn năm một thuở mới gặp được một nhân vật văn võ toàn tài nầy mà không đưa những vấn đề thời sự ra chất vấn giùm cho người ta nhờ.

– Là một vị tướng từ cõi âm lại là một người trung quân ái quốc, tướng công nhận thấy cái tương lai của đảng cộng sản sẽ như thế nào, liệu có sự chuyển hướng nào không?

Ông tướng nhìn tôi rồi đưa mắt nhìn về phía Bắc Kinh, thủ đô, nơi đang có cái xác của Mao ông nằm phơi mình tại đấy. Giọng ông hơi đổi, trầm buồn, không hăng say như ban nãy.

– Bà cũng đã biết rằng ở cõi đời cái gì cực thịnh thì rồi cũng có ngày suy, nếu không nói đến sự cực suy. Bao nhiêu trăm nghìn thế kỷ, thế hệ, từ Đông sang Tây Âu sang Á đã chứng minh. Rốt cuộc rồi anh nào cũng chỉ là một thứ ma lang thang, càng ác ôn thì càng phải trả cái giá ác ôn ấy. Lúc sống có hét ra đến thứ lửa nào thì lúc chết cũng chỉ là một nắm xương. Cất dấu ướp ép đến thế nào rồi cũng có ngày trở thành tro bụi. Đảng Cộng Sản Nga nắm quyền từ 1917 tính lại đã trên 70 năm mà thằng dân ở Nga quốc vẫn khốn khổ, đến cuộn giấy vệ sinh cũng còn thiếu. Khác gì những anh dân sống trong hang cùng ngõ tận. Miệng thì chửi tư bản cứ ầm cả lên, mà trong lòng anh nào cũng thèm từ điếu thuốc lá, đến tấm áo lót đưa từ xứ tư bản sang.

Nghe tướng Mông Điềm nói đến đây, tôi chợt nhớ đến một kỷ niệm, đưa ra kể cho ông tướng nghe. Năm 1971 tôi sang dự hội nghị nhà văn tại Nam Tư, sau khi hoàn tất buổi lễ chào mừng quan khách, có một nhân vật trong ban tiếp tân, mời tôi ra hành lang, nói chuyện thêm mặc dầu biết tôi là dân miền Nam, không cộng sản. Ông ta than rằng hôm nay là ngày sinh nhật của ông ta, nhưng mà vì biết nói tiếng Pháp nên bị cử vào ban tiếp tân ngày khai mạc đón chào văn nghệ sĩ, thế là đành phải để cho vợ con chèo queo ngồi chờ ở nhà. Thấy ông ta nói có vẻ tội nghiệp, tôi mở ví rút cây bút Cross làm quà tặng. Ông ta mừng quá, giật lấy bỏ vào túi rồi quay lưng đi thật nhanh, hình như sợ tôi đổi ý mà đòi lại chăng. Biết thế thì khoan hẵn đưa ra, kinh nghiệm cả. Tướng Mông Điềm nghe kể, cười lên ha hả, nói tiếp:

– Đấy, một chế độ mà chỉ biến được con người ra thành một thứ máy thèm. Cái gì cũng thèm, cái gì cũng thiếu, rồi từ sự thiếu thốn và thèm khát ấy khiến cho con người trở thành tham lam, gian xảo. Cái nhà ông Đặng Tiểu Bình thế mà lại khá, mươi năm nay đã mang lại chút sinh khí, cầu mong cho ông ta đừng có nghe ai xúi bậy trở thành u mê mà bế môn tỏa cảng lại thì chỉ khốn khổ cho lũ dân đen…

– Tướng công có tin rằng rồi đây sẽ có sự….

– Ai điên mới nhắm mắt mà tin mấy ông ấy, chẳng bao giờ nên tin những lời hứa hẹn của họ, nhưng ở đời, toàn thịnh dục tuyệt. Cứ lên đến đỉnh đi, rồi thế nào cũng ngã, không ngã bằng cách nầy cũng bị xô xuống bằng cách khác.

– Như thế tức là cộng sản rồi sẽ bị tiêu diệt, tướng công muốn nói vậy chăng. Có người ví cộng sản với Tần Thủy Hoàng, tướng công có đồng ý?

– Thì cũng vào lối đó, nhưng Tần Thủy Hoàng chỉ có một mình với lũ nịnh thần, còn cộng sản là cả một đảng có liên kết có tổ chức quốc tế cứ nhân danh đảng, nhân danh dân tộc rồi đi giết người ta. Họ Hồ nhà bà đấy, và tình trạng nước Việt Nam nhà bà đấy, chứng minh rõ ràng sự đưa nước nhà lên, sắp hàng đứng hạng nhất trên thế giới.

– Hạng nhất gì vậy?

Ông tướng cười, nhìn thẳng vào mặt tôi, nghe bảo hạng nhất tưởng bở, ông nói ngay.

– Hạng nhất của sự kham khổ, túng đói.

Tôi nghe nói mà lòng buồn vời vợi, ngày còn là một nhóc con mới lên mười lăm, mười bảy tôi cũng đã từng viết những bài thơ ca ngợi bác, đóng góp vào công cuộc tuyên truyền…

Bác Hồ ơi hỡi bác Hồ,

Xin vào khu bốn bắt bồ với em,

Bác buồn em múa bác xem

Đói bụng thì có cà rem ăn liền…

– “Thương nữ bất tri vong quốc hận”

Nghe ông tướng ngâm một câu thơ của thi sĩ Đỗ Mục xong rồi ông ta nhìn tôi như để dò xem tôi có biết. Tôi trề môi, cười đọc tiếp bốn câu sau cho ông ta hết dám khinh đàn bà Việt Nam là phụ nhân nan hóa, như từ trước đến nay các chú chệt vẫn hay có thành kiến.

– Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa

Dạ bạc Tần Hoài, cận tửu gia

Thương nữ bất tri vong quốc hận

Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa

Tướng Mông Điềm nghe tôi đọc đã mở tròn mắt ngạc nhiên, hai âm hơi lệch nhau đôi chút nhưng có gì vẫn từa tựa nhau. Người Trung Hoa đọc là Wong kuố hấn thì chúng ta đọc là vong quốc hận.

– Lạ nhỉ thế thì chúng ta học ngôn ngữ của nhau rất dễ.

Tôi lặng yên, nhưng riêng trong lòng vẫn tin rằng âm thanh của chúng ta nghe thanh tao hơn, nhiều nhạc điệu hơn, có thể là tôi hơi chủ quan, nhưng không sao, lúc nầy cần phải thanh minh cho tuổi trẻ trước đã, sau nầy sẽ còn thì giờ, sẽ tranh giành xem ai đọc hay hơn ai.

– Độ ấy chúng tôi còn trẻ, nhiệt huyết bừng bừng, ai chẳng mơ nước nhà độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp. Sự thành công ngày nay của hầu hết khối cộng sản là do sự biết lợi dụng tuổi trẻ, và lòng yêu đất nước của người dân.

Ông tướng gật đầu ra vẻ ta đây hiểu cả.

Biết rồi, bà khỏi phân trần.

– Tuy vậy tôi vẫn hận những quốc gia tự do, biết rằng chế độ cộng sản hà khắc như thế mà vẫn tiếp tay, mở cửa mời họ vào.

Tướng Mông Điềm cau mặt lắc đầu chưa hiểu tôi muốn nói gì, hỏi ngay.

– Bà muốn nói gì đây?

– Tôi muốn nói đến sự tham nhũng, ích kỷ của những người nắm chính quyền ở các quốc gia ấy. Họ hầu như không thèm đếm xỉa đến cuộc sống của người dân. Ông nào lên cũng chỉ lo mang tiền ra cất dấu ở ngân hàng ngoại quốc cho yên chí, để ngày mất nước khỏi thắc mắc về vấn đề sinh sống của cá nhân và gia đình mình. Sống chết mặc thằng dân.

– Bà muốn nói ai, xin đừng vơ đũa cả nắm nhé, đổ thùng nước tắm xin đừng hắt luôn cả đứa bé đang nằm trong thùng nước.

Tôi bật cười, cái nhà ông tướng nầy cũng biết dùng cả câu ngạn ngữ Anh quốc. Có phải vì là người cõi âm, ai cũng thông giỏi như vậy chăng. Tiện đây tôi phải hỏi xem hồn với phách khác gì nhau.

– Nhân đây muốn tướng công nói về hồn với phách cho bỉ nhân nghe chơi, được chứ.

– Sao lại không, nhưng ngày giờ thì ít mà tôi thấy bà…

– Các hạ, – tôi cố ý sửa lại.

– Ai gọi đàn bà là các hạ bao giờ?

– Tướng công lầm rồi. Cái hình hài bé nhỏ nầy chỉ là một sự hóa thân. Tướng công không thấy các bậc sĩ phu đời Đường đã khen nét chữ của bà Vũ Tắc Thiên có trượng phu khí đó sao? Trong khi rất nhiều đấng nam nhi lại có lối viết như gà mái phải mưa.

Tướng Mông Điềm cũng muốn chơi chữ, sửa lưng tôi cũng để chứng minh sự hiểu biết rộng rãi của mình.

– Bà có biết gà mái phải mưa là để nói đến mấy thằng đàn ông sợ vợ, mà là tiếng của người Pháp đấy nhé, bà ảnh hưởng hơi nhiều. Điều thứ hai, may là bà dùng chữ hóa thân, tưởng bà dám đùng chữ hóa độ…

– Bỉ nhân đâu dám vô lễ, bỉ nhân là con nhà Phật mà, biết chữ gì phải dùng, nói bậy mắc tội chết.

– Cha chả, bây giờ mới được nghe các hạ nói một lời khiêm tốn, từ hôm qua đến hôm nay toàn cái giọng hách địch, lúc nào cũng khoe ta đây con cháu bà Trưng, bà Triệu.

Tôi mỉm cười hài lòng vì bắt được ông tướng gọi mình bằng các hạ là chữ người ta dùng khi đối thoại với bậc tôn quý mà kém tuổi. Chắc hẳn ông ta có hơi dễ tính và đã nghĩ rằng sá gì một tiếng xưng hô, cứ gọi đi cho nó mát ruột, cũng chẳng tốn kém gì. Đây cũng là một bài học cho cá nhân tôi, trước hết là sự chẳng mất mát gì, một lời, một chữ.

– Tướng công chưa trả lời câu hỏi của tôi.

– Theo tôi nghĩ thì: “Hồn cư hậu não, phách cư tâm phòng” tức là hồn ở tiểu não, ban ngày ngủ mà ban đêm lại thức, lúc có gì phải suy nghĩ thì hồn ở ấn đường, chỗ sống mũi, gặp lúc sợ hãi lại chạy trở về tiểu não, lúc nào quá sợ thì do huyệt Bách Hội, tức là huyệt ở ngay giữa đỉnh đầu mà bay ra, đợi bình yên thì mới trở về. Phách ở trong tim, nam tả nữ hữu, tức là đàn ông thì phách ở phía tim bên trái, đàn bà phía tim bên phải. Lúc có gì sợ hãi, phách ở đấy không yên, vì tim đập mạnh, phách phải chạy trốn vào túi mật. Nếu sợ hơn nữa thì lại phá túi mật để từ miệng bay ra. Nếu trong một ngày không trở về thì người sẽ bị bệnh, mười ngày không trở về là chết.

Tôi nghe ông tướng giảng mà thích thú, để đấy lúc trở về sẽ rao lên cho bạn bè độc giả nghe mà suy nghiệm thêm, nhưng phải lợi dụng để còn biết được thêm những điều khác, tôi lại đặt câu hỏi.

– Người ta bảo ở Trường Thành nầy có quỷ, tướng công biết chứ?

– Đầy đường đầy sá, bà nhìn không thấy đấy chứ, à quên các hạ là người cõi trần, cõi dương nên không thể nhìn ra, chứ những người chết mà là loại người tầm thường, không làm ma quỷ thì làm gì. Nhưng các hạ nên nhớ rằng, ma quỷ không đáng sợ, rắn rết, cọp beo không đáng sợ mà chỉ có loài người là đáng sợ. Lũ thú vật không động gì đến chúng thì chúng cũng chẳng làm hại gì đến các hạ, nhưng loài người thì phải coi chừng, dẫu các hạ có ở xa nghìn dặm, chúng vẫn ganh ghét và tìm cách hãm hại, nếu cần. Hôm qua, các hạ hỏi tôi về Triệu Cao là đó, chỉ vì y biết rằng nếu để Phù Tô lên ngôi thì y có thể mất hết, nếu bên cạnh Phù Tô còn có thêm tướng Mông Điềm nữa thì y sẽ không bao giờ hy vọng nhìn thấy ánh mặt trời.

Tôi chợt nhớ thêm một điều, nói cho đúng là bố mẹ sinh ra tôi dưới một vì sao hiếu kỳ, nôm na thì gọi là tò mò, cái gì cũng thích tìm tòi học hỏi, say mê đủ thứ. Hôm nay nhân gặp một quý nhân đặc biệt nầy tôi phải lợi dụng hỏi cho thật nhiều chẳng cần phải đi đâu nữa, chuyện đâu còn có đó. Tôi sẽ hỏi tất cả những gì mình vẫn thắc mắc từ trước đến nay, lắm khi trong cuộc sống chẳng biết tìm ai để hỏi, sách vở thì không đủ, mà có thể nếu gặp được một người, thì sự hiểu biết của họ cũng chỉ hướng đến một vài ngành. Hỏi tò mò quá ra ngoài giới hạn thì họ sẽ nhìn mình như nhìn con quái vật của thời thái cổ. Đưa những ý nghĩ nầy ra nói với ông tướng, được ông chấp thuận rất vui vẻ.

– Xin các hạ cứ tự nhiên, cái gì mà hôm nay tôi không tiện trả lời thì sẽ hẹn đến ngày mai, hoặc chờ tôi nghiên cứu kỹ lại. Hoặc là mời các hạ tái đáo Trường Thành, làm hảo hán một phen nữa, hoặc là tôi sẽ du hồn sang Ngõ Trúc của các hạ để cùng nhau uống trà mà đàm đạo bên khóm trúc, nghe các hạ có một vài cây quý.

– Được lời như cởi tấm lòng.

Tôi đọc lên câu Kiều để tỏ sự hoan hỉ, không ngờ ông tướng cõi âm nầy cũng biết, ông ta đọc tiếp chắc để trả đũa mấy câu thơ Dạ Bạc Tần Hoài ban nãy chăng.

– Giở kim thoa với khăn hồng trao tay.

Rằng trăm năm cũng từ đây,

Của tin gọi một chút nầy làm ghi..

Tôi ngạc nhiên, không ngờ ông tướng nầy lại biết cả Nguyễn Du của chúng ta.

– Ủa sao tướng công cũng biết Đoạn Trường Tân Thanh của chúng tôi?

– Tôi còn biết đó là câu thứ 353, tôi đọc thêm 3 câu nữa là 356. Các hạ thử tìm xem có được mấy người trong đám bạn bè của các hạ, mà có thể thuộc Kiều đến như thế. Người ta hay đọc tùy hoàn cảnh như các hạ vừa đọc, mà bây giờ hỏi lại xem câu ấy ở vào đoạn nào, lúc nào, câu số mấy, chắc ít người dám tự hào rằng mình biết. Thí dụ như bây giờ tôi hỏi các hạ một câu.

“Bốn phương mây trắng một mầu

Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.”

Đố các hạ nó ở vào hoàn cảnh nào trong Kiều?

Tôi đang cau mặt suy nghĩ, trong lòng đang phục thầm cái nhà ông tướng cõi âm nầy sao mà có thì giờ để đọc, để biết như thế.

– Các hạ chịu thua chưa?

– Chắc phải chịu thua, tướng công nói đi.

Tướng Mông Điềm đưa tay lên vuốt hàm râu, sung sướng, tự thấy ta là kẻ chiến thắng, dầu cuộc chiến rất bé nhỏ.

– Đó là câu thứ 1787 và 1788, lúc nàng Kiều bị Hoạn Thư bắt vào làm con hầu, trong lúc chờ Thúc Sinh về để đày đọa cho hả cơn ghen.

Lần nầy đến lượt tôi mở tròn con mắt ngạc nhiên, à ra thế, bây giờ mới thấy rõ sự khác biệt giữa hai cõi âm dương.

– Nhân đây, tại hạ muốn hỏi tướng công một vấn đề chắc tướng công phải đủ thẩm quyền để giải thích.

– Xin các hạ cứ tự nhiên đã là bạn bè, dầu không có bạch mã, hắc ngưu, đào viên kết nghĩa, như ba vị Lưu, Quan, Trương thời tam quốc, nhưng các hạ đã tốn bao nhiêu công của đến đây, chỉ có một mục đích là để thăm tướng Mông Điềm nầy, thì đó cũng là một điều đáng ghi vào…

– Sử xanh.

Tôi láu táu tiếp cắt lời nhưng ông tướng lắc đầu, chắc vì nhận thấy chữ sử xanh hơi quá đáng, sự gặp gỡ giữa hai người bạn thì có gì mà phải đến ghi vào sử xanh.

– Xin các hạ đặt vấn đề, đặt câu hỏi, mặt trời gần đứng bóng mà thời gian không biết đợi chờ.

– Thời gian và con nước…

Tôi cố ý nói để trêu, vì ông tướng lại đang dùng một câu ngạn ngữ Anh, chắc từ khi có cuộc Nha Phiến Chiến Tranh nên ông tướng bắt buộc phải đọc sách của người Anh nhiều.Tí nữa tôi sẽ thử xem ông ta còn biết văn chương xứ nào khác nữa, nhưng hôm nay để phải đi vào đề, những gì tôi vẫn thắc mắc sẽ hỏi trước.

– Tôi muốn hỏi tướng công về sự ướp xác sau khi chết có phải là điều tốt không, sự kiện có liên quan đến thuật Phong Thuỷ, xin được nghe những lời chỉ giáo, vì tại hạ là đứa phàm trần u mê ám chướng.

Ông tướng tủm tỉm cười, lại đưa tay lên vuốt hàm râu, chắc là để tìm lời đáp lại cho đúng.

– Xin các hạ đừng nói lên những lời khách khí, đây tôi xin trả lời để chiều cái ý của con người tò mò muốn tìm hiểu tất cả, những ai phải sống chung với các hạ chắc là khổ sở lắm, các hạ không nên đày đọa người ta, tôi đây là người cõi âm nên có đủ sức chịu đựng, người đời mà hành hạ họ quá thì họ sẽ bỏ đi vì hết chịu nổi.

– Điều ấy cũng đã xảy ra…

– Để mở đầu xin nói đến thời tiền sử, ở các vùng sa mạc, người ta hay chôn xác trong những cái hố, đào nông dưới cát. Nhờ khí hậu nóng và khô làm cho thi thể giữ được nguyên vẹn. Hẳn cũng do từ đó mà đã tạo lên niềm tin trong khối người dân sa mạc rằng, sự linh thiêng của người chết là khởi từ sự nguyên vẹn của thân xác. Rồi cũng từ đó người ta tin thêm rằng, nếu xác giữ xác cho được nguyên vẹn thì sự linh ứng càng tăng, và kỹ thuật ướp xác bắt đầu để giữ cho uy lực linh ứng được dài lâu. Cố nhiên là phương pháp ướp xác rất tốn kém. Chỉ các bậc quyền quý, vua chúa mới đủ sức trả cái giá ấy.

– Phải làm những gì, tướng công có biết chứ?

– Sao lại không.

– Xin được nghe.

– Bắt đầu bằng công việc lấy bộ não ra, phải rút từ lỗ mũi bên phía trái, tiếp theo là phải tiêm ngay vào một chất khác để làm tan những gì còn lại. Sau đó là mổ bụng ra lấy hết lòng tim gan tỳ phế, mang ngâm vào rượu cây kè để dành.

– Sao lại phải là rượu cây kè, một chất rượu khác có được không?

– Các hạ chịu khó nghe, tí nữa hẳn đặt câu hỏi, sao mà nóng nảy thế.

Tướng Mông Điềm tỏ ra không thích sự bị ngắt lời, thì thôi vậy, ông tiếp lời.

– Sau đó còn phải làm cho xác được khô, tức là phải bỏ xác vào trong hòm gỗ, phủ lên với chất thiên nhiên diêm (natron). Chất nầy vừa làm khô, lại vừa làm sạch. Sau 70 ngày cho tử thi nằm trong cái hòm gỗ ấy, hoàn toàn khô khan rồi mới được lấy ra quấn vải, thứ vải đã được tẩm trong chất sáp và long não. Tất cả đều chung một mục đích là giữ cho xác được tồn tại dài lâu…

Ông tướng vừa dứt lời, tôi định nói thì bị ông ta đưa tay ra hiệu ngăn chặn, để ông ta tiếp tục.

– Biết các hạ muốn hỏi câu gì rồi, nhưng phải từ từ, nghe cái gì cũng phải nghe cho trọn đầu trọn đuôi. Các hạ muốn hỏi thăm mấy cái xác ướp ngày nay đấy chứ gì?

– Tướng công thật là…

– Ngày nay y học thường dùng một thứ tửu tinh, cam du và giáp thuyên thủy (aldehyde) ba chất nầy được pha trộn thành một thứ dung dịch. Tửu tinh, tục gọi là hỏa tửu, phân tử thức của nó là C2H50H, nó có sức sát trùng rất mạnh. Người ta dùng nó để bảo tồn thi thể. Nhưng chất nầy lại là chất bốc hơi, một thời gian sau mặt mày sẽ bị nhăn nhúm, vì chất tửu tinh ấy đã làm co rút lại. Chất Cam Du tiếng ngoại quốc là glycerine, cũng có sức bảo tồn thi thể, làm cho con khuẩn không có dưỡng khí để thở mà sống, tuy vậy, trong một thời gian sau, chất nầy lại có sức du hóa làm cho biến thể. Thứ ba là Hỏa Ma Lâm, ngoại ngữ là formalin, công thức là HCHO. Nhưng nói cho hết vậy thôi chứ mấy cái xác ấy, chẳng trước thì sau, cũng sẽ có ngày chui vào thùng rác của xã hội.

– Là sao?

– Thì còn sao nữa, chính các hạ đã thường nói lên cái định luật: “Vạn vật đều sẽ chui vào thùng rác”, bây giờ còn hỏi.

Tôi bật cười, không ngờ câu nói đùa hằng ngày của tôi mà cũng đến tai ông tướng. Tôi chợt nghĩ đến các con cháu ở nhà chúng còn đặt cho tôi cái tên là Võ thị Liệng, vì cái gì cũng đòi liệng thùng rác.

– Còn muốn nghe chuyện xác ướp nữa không?

– Muốn chứ, xin tướng công nói nữa đi.

– Chưa ai bằng cô gái ở Hồ Nam, mà hẳn các hạ có từng nghe nói đến Mã Vương Thôi, ngôi mộ chôn từ 2000 năm mà đào lên da thịt vẫn y nguyên, hồng hào như mới chôn.

– Tướng công muốn nói đến ngôi mộ vừa được khai quật chứ gì?

– Cũng đã mấy chục năm rồi từ khi tìm ra được vết tích cho đến khi quyết định khai quật.

Tôi hơi cau mặt, sự thực tôi cũng không có ý nghiên cứu về vấn đề ướp xác, những của nầy chỉ cần ra hiệu sách, mua lấy một quyển là có ngay tất cả mọi công thức, thấy mất nhiều thì giờ nên tôi hỏi ngang.

– Tại hạ muốn hỏi tướng công nghĩ gì về…

– À, hiểu rồi, thì ra các hạ nóng ruột muốn hỏi bỉ nhân về mấy cái xác khô tốn công tốn của, vô bổ, hại dân, hại nước… Các hạ muốn biết về mấy cái xác đó chứ gì?

Cái nhà ông tướng cõi âm nầy thật dễ nói chuyện, chẳng cần nêu lên đã biết hết, đọc được cả từ trong tim trong phổi của người ta.

– Vâng xin tướng công cho biết, quả thật tướng công quá sức linh ứng.

Ông tướng nhếch mép cười như không thèm đếm xỉa đến những lời khen vô bổ của người đời, đã mấy lần tôi chú ý điều nầy.

– Người Ai Cập xưa mới tin cái sự ướp xác như thế, ngày nay chắc cũng chẳng còn ai tin. Vả lại sự ướp xác, giữ lại cái xác rỗng đầu rỗng ruột ấy để làm gì, chẳng khác gì những con thú được độn rơm bên trong. Chết rồi mà cũng không được yên. Các hạ có am hiểu chút ít về thuật Phong Thủy chắc cũng rõ chứ, chết mà được nằm trong lòng đất, nếu gặp được sinh vượng địa, khí mạch điều hòa, mà khí mạch bao giờ cũng có sự liên hệ đến các tinh tòa, thiên nhiên tuy xa mà gần. Các hạ có thấy con cháu của những cái xác ướp ấy có tên nào làm nên nghề ngỗng gì chưa, nói nghe coi. Có những địa huyệt được gọi là dưỡng thi, các hạ có bao giờ nghe nói đến tên dưỡng thi huyệt chưa? Chôn nhằm đất ấy thì cái xác sẽ không bị hủ hoại. Lệ thường chỉ độ vài ba năm, lâu lắm là tám chín năm thì xác nào cũng phải hủ hoại, gặp phải dưỡng thi huyệt thì chỉ cái áo quan bị hủ hoại mà cái xác thì vẫn tiếp tục mọc râu, tóc, răng nanh và móng tay cứ theo thời gian mà dài ra, nếu đào lên, ngoài cái hình thù quỷ quái đáng sợ ấy lại có mùi hôi thối gọi là chiên khí. Gặp huyệt ấy là phải cải táng ngay, nếu không thì con cháu hoặc chết yểu, đọa thai, tật nguyền, nếu là xác đàn bà thì bên con cháu gái bị ảnh tưởng nếu là xác đàn ông thì bên phía con cháu trai bị ảnh hưởng.

– Làm sao để biết?

– Thì mấy cái nhà chuyên môn về khoa phong thủy phải biết, cứ nhìn gia đình ai hay xảy ra những sự ấy thì phải đặt vấn đề ra mà đi tìm thầy để thỉnh thầy về xem lại mồ mả, ngày xưa là như thế. Người ta mong tìm ra đất có long mạch tốt, khí vận tốt để mà chôn cho yên xác yên hồn, nếu không thì đốt theo lối trà tỳ của Phật Giáo chứ ai lại mang cái xác ra mà hành hạ moi óc moi tim, để rồi cho nằm phơi thây ra đấy bắt thiên hạ ngắm. Chưa kể rồi đến ngày hết thuốc cũng đành phải kéo cái xác ra mà đi vùi nơi khác. Mấy chú Cộng đã tự mâu thuẩn, miệng thì leo lẻo vạn vật biến đổi, mà lại mang xác đi ướp cho vĩnh viễn. Giá mấy ông xác ấy mà lúc còn sống đã thông minh hơn thì phải làm di chúc xin các chú tha cho cái thân già, cho thân già được về với đất đai.

Ông tướng nói một hơi không ngừng, giọng có vẻ mỉa mai bực bội, tôi vội đặt câu hỏi vì mục đích chuyến Trung Quốc du nầy là để tìm mua sách. Ở Hoa Kỳ thỉnh thoảng tôi hay rủ Liên Hương, cô bạn trẻ đi Chợ Lớn mua sách. Chợ Lớn của chúng tôi là phố Tàu ở Los Angeles. Sang đây tuy chưa mua được sách nhưng gặp được ông tướng cõi âm nầy, cũng phải xem như gặp được một tủ sách vô cùng quý giá, tôi triệt để khai thác học hỏi cho đến tận cùng những điều thắc mắc mới đáng.

– Thỉnh vấn tướng công…

– Sao các hạ bỗng trở nên khách khí vậy?

– Tại hạ còn quá nhiều điều thắc mắc, nhiều vấn đề cần học hỏi, chẳng biết thời gian có cho phép, cứ ý nghĩ nào trào ra trước thì xin được hỏi trước, mong tướng công miễn chấp. Tại hạ vẫn thắc mắc, con người chết rồi đi về đâu? Những khối óc thông minh những kiến thức hiểu biết, cảm xúc… chết là hết sao?

– Các hạ sao mà chẳng phụ nhân tí nào, đàn bà thì nên chú tâm đến gia đình, nhà cửa, chồng con, cúng kiến chứ cứ lo chạy theo tìm những gì đâu đâu, nhưng các hạ đã hỏi thì cũng xin trả lời để rồi các hạ lại trách móc. Những kiến thức, học hỏi, rung cảm đều còn đó, cả những sự ngu xuẩn, u mê, độc ác cũng còn đó, dẫu con người đã chết. Các hạ vẫn xưng mình là con nhà Phật, am hiểu một phần nào về luật nhân quả với kiếp luân hồi, mà sao còn thắc mắc. Tôi đồng ý với chú em của các hạ, hằng tuần phải đi học những điều gì mới mẻ nhất của y học, nhưng về nhà mỗi sáng vẫn khoác tấm áo tràng ngồi tụng kinh, cầu nguyện cho bố mẹ được siêu thoát, khỏi trở lại làm người, hụp lặn trong cái biển nghiệp. Đó mới đúng là một lời cầu nguyện vì loài người chỉ cầu xin cho được giàu sang phú quý danh vọng, được người yêu…

Tôi ngạc nhiên cau mặt suy nghĩ nhưng rồi cũng chẳng ngạc nhiên nữa vì đã bảo người cõi âm là khỏi cần nói lên cũng hiểu tất cả rồi.

– Tại hạ với chú ấy cãi nhau hằng ngày…

– Về vấn đề gì, đó là lời cầu xin đứng đắn nhất, không như các hạ chỉ lo cầu cho những ai tôi thương và thương tôi, đúng là lời cầu xin của phụ nhân.

– Tướng công nói thế cũng chưa đúng, có thể là tôi không được thông giỏi bằng chú ấy, nhưng nếu bảo rằng tôi thương tất cả mọi người thì sao.

– Đừng có cãi bướng, đúng là phụ nhân.

Tướng Mông Điềm nói xong, khoanh tay chờ đợi xem sự phản ứng của phụ nhân ra sao

Tôi biết vậy nên không thèm tức giận, chờ dịp khác sẽ trả đũa, đâu còn có đó, còn gặp nhau còn nói chuyện là thế nào cũng có cơ hội.

– Tương lai của Trung Quốc đi về đâu? Từ ngày Đặng tiên sinh mở cửa, nới dây thắt họng, coi bộ phấn khởi quá, tướng công đồng ý chứ.

– Pouvou que ca doure (chỉ mong nó được mãi).

Tôi trợn mắt há miệng, mấy chữ Pháp đọc sai nầy người ta hay nhắc để ngạo ông tướng Napoleon. Đây hình như là lời bà mẹ ông ta hay nói, khi biết con làm Hoàng Đế. Đáng lẽ phải nói pourvu que ca dure, vì bà mẹ người Corse, rất bình dị nên nói có chút thổ âm. Sao ông tướng nầy biết cả đến những chi tiết ấy mà lại đặt đúng chỗ.

– Tướng công có thích ông tướng Corse đó không?

– Có nhiều cái hay, mà cũng có nhiều cái chưa hay, làm tướng mà đa tình quá cũng mất thì giờ. Nhưng tôi vẫn xót xa khi ông ta bị đày ở đảo Sainte Hélène. Chí lớn bị thâu tóm lại trong một mảnh hoang đảo, để rồi có hôm ngồi buồn viết lên mấy chữ làm xót xa người đời sau.

– Mấy chữ gì vậy thưa tướng công.

– “Sainte Hélène, petite île” ( Sainte Hélène, cái đảo nhỏ). Hẳn các hạ có nghe câu: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”, với ông nầy cũng khá đúng.

– Thế công thành của tướng công thì sao? Có mấy chục vạn cái cốt khô?

Tướng Mông Điềm nhìn về phía Hung Nô rồi mỉm cười lắc đầu, như không muốn nhắc đến những chiến công xưa của mình.

– Đâu có bằng ngày nay, thời đại chúng tôi, chiến tranh thắng hay bại là do tài, đức của tướng, còn thời đại bây giờ là do mấy cái ngón tay bấm nút. Chỉ cần một ngón tay điên nào bấm xuống một cái là có thể nổ tung một phần tư, phần năm thế giới, nếu không muốn nói là phân nửa. Các hạ có thấy rằng ngày nay chơi trò chiến tranh không vui nữa.

– Chiến tranh có bao giờ vui.

Tôi trả lời miễn cưỡng, nghĩ đến đất nước thân yêu, bao nhiêu năm bị chiến tranh tàn phá chẳng biết đến ngày tháng nào người dân mới được sống cảnh thực sự thanh bình.

– Các hạ không nên ưu tư nhiều, mỗi quốc gia cũng như mỗi cá nhân đều có cái vận của nó, nói rõ hơn là có một thời điểm. Nếu các hạ đã đọc qua Bible, trong thiên Truyền Đạo Thư (Ecclesiaste), chẳng biết các hạ có để ý đến một đoạn…

– Nhiều người cho là hay nhất trong cả quyển Bible đó tướng công ạ.

Bây giờ đến lượt tướng Mông Điềm ngạc nhiên, sao tôi dám cướp ý, nhưng ông vẫn còn chút ngờ vực chưa dám tin, cố hỏi vặn lại một lần nữa, xem tôi có thật đoán đúng ý ngài.

– Đoạn nào đâu, các hạ nói thử nghe coi.

– Đọc bằng tiếng Hoa Kỳ được không? Con người sao phải học nhiều thứ tiếng, mất nhiều thì giờ quá. Chắc thần tiên thì khỏi cần, phải không thưa tướng công.

– Thì cứ đọc đi xem có đúng không.

– Đúng là cái chắc, chương ba, từ câu 1 đến câu 8, thưa tướng công như vậy đã đủ chưa: “To everything there is a reason, and a time to every purpose under the Heaven…”

– Và câu thứ tám?

– “A time to keep silence and a time to speak, a time to love and a time to hate, a time of war and a time of peace”

Nghe tôi đọc xong, ông tướng gật gù có vẻ hài lòng như vị thầy lớp nhi đồng, hài lòng thấy đứa trẻ thuộc bài, nếu ông ta biết tôi chỉ thuộc có mấy câu, muốn nữa là phải đi vào tủ sách.

– Đấy, các hạ thấy không, cái gì cũng phải có một thời điểm, nhưng con người phải luôn luôn sẵn sàng chuẩn bị để khi cái thời điểm ấy đến, mà đón nó, làm sao đừng vấp váp lúng túng. Bất cứ việc gì từ đại sự của một quốc gia, đến tiểu sự như một cuộc du ngoạn, dã xan, người Âu gọi là picnic cũng phải có tổ chức phân công, người lo mua thứ nầy kẻ lo mua thứ khác, nếu không thì lúc đến nơi chẳng biết ai mang cái gì, ai mua cái gì.

– Tướng công nói vậy thì cái thời loạn, thời chiến của Việt Nam chúng tôi, sao mà nó kéo dài dữ vậy. Mấy chục năm rồi, có những người từ lúc sinh ra đến khi khôn lớn, đến lúc chết, không hề được trông thấy một năm, một tháng thanh bình, nhất là có người suốt đời không biết đến hai chữ tự do, không được thở làn không khí tự do.

– Nếu các hạ về tìm “Trung Âm Kinh” mà nghiên cứu. Sinh ra con người là đã bị định tội rồi, mà sinh làm con người Việt Nam thì sự định tội lại càng rõ rệt. Có một chút thông minh trí tuệ chỉ để mà thấm thía sự khổ nhục hơn những giống người khác mà thôi.

Giọng ông tướng âm trầm như có ý muốn chia sẻ nỗi khổ đau với dân tộc chúng ta. Thấy tôi ngồi yên lặng, không láu lỉnh như ban nãy, ông tướng cũng giữ yên lặng, kính trọng nỗi quằn quại của người dân khi nhận thấy sự bất lực yếu đuối của chính mình và của bao nhiêu người khác.

– Có người bảo rằng người làm sao thì nằm chiêm bao làm vậy, dân làm sao thì có ông lãnh tụ làm vậy, tướng công có đồng ý ấy không?

– Các hạ có đồng ý không?

Tôi bĩu môi, lắc đầu, không muốn cho câu ấy là đúng, khi nghĩ đến Việt Nam thân yêu hiện đang quằn quại trong những u uất triền miên. Tôi ngẩn nhìn ra phía chân trời, xa xa một vài áng mây mầu hồng thấp thoáng, liế