Chín
Với những thằng liều, ông Đồ Điện cũng đành chịu bó tay không làm gì được. Thằng Yên đã thắng. Có lẽ nó là thằng thiếu niên duy nhất ở Hà Đông dám chửi ông Đồ Điện. Sau khi dùng thịt huých vào cảnh cửa không ăn thua gì, ông Đò về uống rượu rồi nằm lăn ra ngủ. Chắc ông không quên vụ bị chửi, nhưng ông giả vờ như quên. Tuy dở điên, dở khùng, ông Đồ cũng còn khôn lắm. Ông chỉ dở điên chửi bọn quan lại làm đầy tớ Tây, hách xằng với dân chúng. Có lẽ ông còn thán phục ngầm tên thiếu niên đã dám chửi ông nữa là khác. Vì từ đó, ông để yên cho thằng em tôi. Ông làm như không biết đến nó, như nó chưa hề chửi ông lần nào.
Yên, em họ tôi, là thằng có tâm hồn nghệ sĩ, yêu gái đẹp. Nó tán gái rất có duyên. Nhưng bọn con gái dễ mê nó, dễ bị nó quyến rũ là bọn gái quê, gái hàng xén bán kim chỉ, giải rút ở các chợ nhà quê. Nếu nó có phương tiện để học cao, đỗ đạt bác sĩ kỹ sư chắc nó sẽ thành công lắm trong đời. Song, như tôi đã nói, Yên là con nhà nghèo. Chú ruột tôi mất sớm. Nó là con trưởng. Cái Mơ, cái Mận cùng vợ Yên phải đi cày, cấy, trồng khoai trồng ngô để sống, để nuôi Yên ăn học. Yên đậu xong bằng Tiểu học – thời đó gọi là bằng Certificat d’Étude Primaire – tắt và quê mùa là Xép-phi-ca – là thôi, để về làng làm Hương Sư dậy bọn con nít làng học từ A,B,C cho đến hết lớp Ba.
Làng tổ của tôi nghèo, ít ruộng. Làng Bụi – tên chữ là Linh Qui – tổng Kim Sơn, phủ Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, gần con sông Đuống. Làng tôi nằm giữa sông Đuống và đường số 5 nên bị tàn phá, hủy hoại tang tóc nặng nề trong cuộc chiến tranh Việt – Pháp vừa qua. Con đường số 5 nối liền Hà Nội – Hải Phòng là đường sinh tử của Hà Nội. Quân đội Viễn Chinh Pháp bảo vệ đường số 5 thật kỹ. Ngày chiến tranh «bùng nổ» – nói theo danh từ thời ấy, người ta thường gọi ngày khởi đầu cuộc chiến tranh Việt Pháp ở Bắc Việt là «ngày bùng nổ» – cuộc hành quân thứ nhất mà quân đội Viễn Chinh Pháp mở ở Bắc Việt là hành quân chiếm đường số 5, cho Hà Nội và Hải Phòng liên lạc dễ dàng. Những làng mạc ven hai bên đường số 5 bị đốt phá trước nhất. Đồng bào ta ở ven đường số 5 bị bắn giết, hãm hiếp trước nhất.
Đường số 5 là con đường nổi tiếng có máu đổ nhiều nhất Bắc Việt. Những người đi kháng chiến chỉ nghe nói đến đường số 5 cũng đã đủ sợ hãi và bồi hồi.
Thầy tôi là con trưởng, ông có hai em trai và một em gái. Chú Ba tôi làm Giáo học. Chú Hai tôi ở nhà làm ruộng. Ồng sinh ra Yên, và vì ở nhà làm ruộng nên cũng chẳng có chức tước gì. Ông chỉ được gọi là ông Buồm.
Có một điều đáng kể là không hiểu đất cát làng tôi ra làm sao, nhà tôi đến thế hệ tôi, đa số là độc đinh. Nghĩa là mỗi nhà chỉ có mỗi một anh con trai. Riêng thầy tôi sanh được hai anh em chúng tôi là trai. Nhà tôi như vậy đáng được kể là «đông đinh » nhất họ.
Chú Buồm tôi sinh được một mình thằng Yên. Chú Giáo tôi sinh được thằng Lễ. Hai ông có vài đứa con gái nữa. Rồi thôi. Bọn thằng Yên, thằng Lễ đều sang Hà Đông ở nhà tôi đi học. Thầy tôi nuôi hết. Các Thím tôi thỉnh thoảng sang thăm con, chỉ phải gánh sang vài thùng gạo ngon đóng góp tượng trưng mà thôi. Trong những năm thanh bình ấy, tôi còn một thằng em nữa ở nhà quê sang ở nhờ đi học. Thằng đó là thằng Châu, con ông Chú họ tôi. Tôi với thằng Châu không gần bằng với hai thằng Yên, thằng Lễ. Tôi lại ghét thằng Châu, vì nó hèn hay nói dối, chơi ăn người.
Nó trắng trẻo theo lối công tử bột. Quần áo lúc nào cũng trắng lốp. Mẹ tôi cũng không ưa thằng Châu vì những trò ti tiện tiểu xảo của nó. Chẳng hạn như nó giặt lấy quần áo của nó. Xà-bông của bà nó lấy sát lên quần áo kịch liệt, dùng không nương tay, phí phạm ra mặt. Xà-bông của mẹ nó mua cho nó thì nó cất đi, dùng rất ít. Những người bần tiện, ăn người như nó khá làm sao được. Tôi ghét thằng Châu thậm tệ.
Có một chuyện xẩy ra làm tôi thêm ghét thằng Châu, thương thằng Yên.
Thằng Châu cũng là con một, bố nó cũng chết sớm.
Ngoài việc chỉ sinh được một thằng con trai, các ông chú tôi còn có cái đặc biệt nữa là chết non. Ông Chú họ tôi mới sinh được có một đứa con trai đã qua đời. Thằng Châu là con một, nó không có cả chị em gái, nên thím tội chiều nó lắm. Nhà nó lại giàu.
Một buổi chiều thứ bẩy, bọn thằng Yên, Châu, Lễ đánh bi với nhau trong vườn. Thầy thôi nghỉ làm, ra vườn cầm kéo xén mấy cây cảnh. Chẳng hiểu có chuyện xích mích sao đó, thằng Châu mách với thầy tôi – «Thưa Bác… anh Yên anh ấy đánh cháu…»Thằng Yên đang ngồi xổm đánh bi. Thầy tôi thuận chân đá nhẹ vào đít nó một cái – « Sao mầy cứ cậy lớn mày đánh nó…»
Vì là con nhà nghèo,Yên có mặc cảm bị khinh, bị coi rẻ không bằng thằng Châu. Nó lẳng lặng bỏ về quê. Nó đi bộ từ Hà Đông ra Hà Nội, đi bộ qua cầu Sông Cái, đi bộ trên đường số 5 về tận quê, trong túi nó không có một xu uống nước.
Ngày xưa, hai mươi nhăm năm trước, đường Hà Nội – Hà Đông chỉ cách có 11 cây số – không bằng Saigon tới Thủ Đức nhưng với tôi, con đường ấy xa vời. Hà Nội thật xa, không đến nỗi như ở tận một thế giới nào khác, nhưng xa, thật xa. Mỗi năm, anh em tôi được ra Hà Nội nhiều lắm là hai lần. Một lần gần Tết, đi may quần áo, mua giầy. Ông cụ tôi ưa đi giầy Bata, giầy da chứ không phải là giầy vải, anh em tôi mỗi thằng có một đôi giầy da cá sấu, đế da đóng gá sắt đi cộp cộp. Thời đó, trẻ con, người lớn toàn đi giầy đế kếp, tên nào đi giầy đế da là hách lắm. Cũng như trong những gia đình đông anh em trai khác, tôi là em nên chuyên phải thừa hưởng quần áo giầy của anh tôi. Cũng may, mỗi năm chúng tôi cũng nhiều lắm là ba, bốn lần diện đồ long trọng, đi giầy Tây, cho nên những bộ đồ do anh tôi mặc chật, được «hạ bệ» cho tôi vẫn gần như mới tinh.
Mỗi năm chừng một lần, cả nhà tôi ra Hà Nội ăn cao lâu. Tôi nhớ lần nào ông cụ cũng cho vào Đông Hưng Viên. Lên lầu. Cầu thang gỗ có hai tay vịn bọc đồng vàng loáng. Hầu sáng Tầu bận đồng phục trắng. Gia đình tôi lấy một phòng riêng. Trong lúc ông bô gọi thức ăn, anh em tôi đùa nghịch, chạy ra, chạy vào, chui xuống dưới gầm bàn.
Khi các món ăn được mang lên, chỉ có hai ông bà ăn. Bọn anh em chúng tôi mỗi đứa đã đớp hai cái bánh rán – bánh rán đặc biệt của Đông Hưng Viên thật vô song, da bánh mầu vàng ngà, vừa dầy, vừa ròn – chúng tôi chỉ ăn thêm được mỗi đứa một bát cơm rang. Thế là xong bữa đi ăn cao lâu. Những món chim quay vịt hầm, vi cá không được chúng tôi chiếu cố đến. Có một sự kiện lần nào đi ăn cao lâu Đông Hưng Viên cũng xẩy ra vất vả cho bà bô tôi nhất là tôi vốn là thằng bụng dạ xấu, bộ tiêu hóa của tôi phản ứng bén nhậy dễ sợ mỗi khi miệng tôi ăn của ngọt. Lần nào cũng vậy, tôi «đớp» xong bánh rán, chất mỡ ngào đường vừa vào đến dạ dầy là tôi chột bụng đòi đi tiêu. Đúng lúc ấy mẹ tôi đang ăn giữa bữa. Bà cũng phải buông đũa bát đưa tôi xuống bếp, cho tôi đi tiêu.
Những tiện nghi phục vụ cho sự tiêu hóa của con người hai mươi năm xưa không được chú ý đến mấy. Dân Tầu, dân Việt long trọng hóa việc ăn uống, nhưng rất coi thường việc bài tiết những món ăn uống đó. Nhà xí Cao lâu Đông Hưng Viên, hàng ăn lớn nhất Bắc Việt, bẩn thỉu, dơ dáy kinh khủng. Nó nằm sau bếp nhà hàng. Mẹ tôi phục vụ tôi xong, đi lên đến phòng ăn, không làm sao ăn được nữa. Bà tởm vì thấy nhà bếp cao lâu quá bẩn, tởm vì những thúng nấm lớn nằm cạnh thùng rác, vì những khối thịt sống nằm ngang trên miệng cống, vì những con chim bồ câu chưa được vặt lông,nằm chết trong những thùng gỗ xâm xấp nước.
Đó là thời các tuần báo Học sinh và Cậu Ấm, Cô Chiêu đang được bán chạy ở Bắc Việt. Hai tuần áo dành riêng cho thiếu nhi này được hoan nghênh nhờ những tiểu thuyết như Đầu Xanh, Gió Bụi, phóng tác truyện Sans Famille của Hector Malot, và những trang truyện bằng tranh với những nhân vật nổi tiếng ngang với Lý Toét, Xã Xệ. Bang Bạnh của nhóm Ngày Nay. Những nhân vật vẽ trên Học Sinh và Cậu Ấm, Cô Chiêu là Típ, Tốp, anh Sáu Sụn, Cụ Tư Hùng, Thằng Khỏe v.v…
Những lần đi ăn cao lâu ở Đông Hưng Viên, anh em chúng tôi thường nhắc đến một mẩu chuyện khôi hài trên báo Học Sinh liên can đến kiếm hiệp và cao lâu.
«Típ và Tốp được cụ Tư Hùng cho đi ăn cao lâu. Típ, Tốp nói với nhau về chuyện kiếm hiệp:
– Trong Sơn Đông Hiệp Khách, Cao Hoành Nhân phi hành ghê quá mày nhỉ??…
Chú hầu sáng đứng sau Típ, Tốp nói xen:
– Thưa cậu, chẳng biết họ phi hành thế nào chớ ở tiệm cháu đây phi hành thơm lắm ạ!…»
Những năm thanh bình, xã hội trật tự, trên Vua, dưới Quan, những ông Tây thực dân chơi riêng, không ra mặt hà hiếp giới quan lại A-Nam, miễn là đừng có làm hội kín, con nhà giầu, nhà có của cho cả họ nhờ, mỗi năm về quê chơi đôi lần, được cả họ chiều chuộng, thật thú.
Mỗi năm thầy tôi về thăm quê nhiều lắm là hai lần. Một lần về giỗ ông nội tôi, một lần về vào Mùng 2 hoặc Mùng 3 Tết.
Gần nhà tôi, ở phố Bóp Kèn, có ông Tài Hót. Ông này là tài xế về sau trở thành chủ nhân xe hàng chạy đường Hà Đông – Vân Đình. Ông Tài Hót có một chiếc xe đít vịt, chắc là xe Citroen mui trần. Trong kỷ niệm của tôi, chiếc xe đó sơn đỏ. Tuy không còn mới lắm, nhưng mỗi lần chiếc xe đó về đậu ở cổng làng Bụi, cả làng phải dắt nhau ra xem.
Thầy tôi mướn một ngày xe. Sáng sớm, có lần đích thân ông Tài Hót cầm lái, chiếc xe đít vịt sơn đỏ đến đậu trước nhà tôi. Xe chạy ra Hà Nội, lên cầu Sông Cái gió thổi lồng lộng, nước đỏ Hồng Hà cuộn sóng mênh mang, xe xuống Gia Lâm, dốc cầu vòng vèo, nhà rượu Gia Lâm ở dưới chân cầu, ống khói xi-măng đồ sộ, phi trường Gia Lâm phi cơ Nhật bay lên như lá tre vào những năm đầu 1940, đường số 5, xe hơi chạy đua với tầu hỏa «Xe mình chạy nhanh hơn tầu hỏa…» Đến đoạn đường vòng. « Xe mình lại thua tầu!!
Nhà ga Phú Thụy kia rồi. Xe tới đường số 5 đi vào con đường đất đỏ – « sắp về đến quê mình rồi… ». « Đây là đâu hở Thầy? » – « Đây là chợ Phú Thụy! Làng này là làng ông Cao Bá Quát »..
Có năm tôi theo bố về quê bằng tầu hỏa. Đi xe điện từ Hà Đông ra Hà Nội – Xuống cửa Nam, đi xe tay đến Nhà Ga Hàng Cỏ. Người ta ra vào rối tinh, rối mù. Mua giấy, ra sân ga.
Ông bấm vé đội mũ cát-két trông như đội xếp. Những ông Tây Xếp Tanh mặt đỏ, tay chân lông lá, bận quần soọc, đi bí-tất cao đến đầu gối, xì xồ nghiêm trọng, toa này hạng nhất? toa này hang ba nhiều người hì hục khuân những bao tải lên toa. Lên tàu, hai anh em ngồi yên bên bố. Ông bố ghét chạy ra chạy vào. Ngồi nhìn qua cửa kính ra đồng quê mùa xuân, những cột dây thép dập dình lên xuống.
Đồng quê ven đường số 5 mùa Xuân lất phất mưa Xuân trông thật đẹp. Đẹp như cảnh mùa Xuân tả trong tiểu thuyết Nửa Chừng Xuân, khi Mai gặp Lộc trên chuyến xe hỏa duyên số ấy.
Đó là những lần về quê thời thanh bình. Tức là những năm trước 1943. Từ năm 1943 trở về sau chiến tranh liên miên đói kém và thiếu thốn, thiếu gạo, thiếu vải, thiếu thuốc, thiếu ét-xăng. Xe hơi không còn xăng để chạy, phải mang lò than to tổ bố đằng sau, những chuyến về quê của bố con tôi trở thành vất vả.
Vất vả thôi, nhưng vẫn nên thơ. Không còn hách như về bằng xe hơi đít vịt của ông Tài Hót song vẫn còn hách. Bố con ra Hà Nội bằng tầu điện xuống Bờ Hồ, hỏi mướn một chiếc xích lô đạp đi suốt ngày, về quê bằng xích lô đạp cũng phơi phới ra gì. Đi xích lô đạp chậm chậm, nhìn phong cảnh còn thú hơn là đi tầu hỏa. Nhưng không được hách bằng đi xe hơi, nhất là ở điểm khi qua cầu Sông Cái, đến chỗ cầu mở rộng lại phải lái vào đó, ngừng ở đó, cho xe hơi đi sau mình đi qua trước.
Ôi những con đường thơ ấu cũ, những cảnh vật muôn năm không tàn trong trí nhớ. Ở đời này tất cả đều đổi thay. Cả tình yêu cũng đổi thay. 12 năm trước, em yêu anh nồng nàn, say đắm, 12 năm sau em vẫn còn yêu anh, nhưng tình yêu đó dìu dịu, tình yêu ấy như một dòng sông có chiều sâu nhưng không cuộn sóng. Vẫn là sông, vẫn là nước, nhưng hai dòng sông ấy khác nhau. Vẫn là tình yêu, nhưng tình yêu năm nay em yêu anh không giống như tình em yêu anh 12 năm trước. Tất cả đều qua đi, những mầu xanh phai tàn, những sắc hồng trở thành trắng xám. Người già chết đi. Con trẻ lớn lên. Duy có kỷ niệm là không thay đổi. Duy có những hình ảnh của kỷ niệm là còn nguyên mãi mãi.
Đường xe hỏa Hà Nội – Hải Phòng chạy ven theo đường số 5, nhưng cũng còn nhiều đoạn hai đường chạy xa nhau. Thuở nhỏ, tôi không thể nào hiểu được tại sao những đường dây thép lại cứ trũng xuống, sa xuống ở giữa hai cột sắt.
Đường dây điện giăng bên đường số 5 có nhiều dây điện hơn, trông giầu có, văn minh hơn đường dây diện Hà Nội – Hà Đông chỉ lèo tèo có vài dây. Tôi nhớ những trò chơi hồi nhỏ ven đường xe điện: đặt một lô nút chai bia hay li-mô-nát lên đường sắt tàu điện chạy qua, những nút chai dẹp lép, tròn xoe phẳng lì, trở thành những đồng xèng thật đẹp, đẹp hơn lấy búa đập nhiều. Hoặc đứng áp tai vào cột sắt dây điện, nghe tiếng điện rung o o, vo vo. Chúng tôi phân biệt được cả tiếng điện với tiếng con tầu sắp chạy tới.
Đường về quê đất đỏ. Vùng này nguyên là bãi Sông Đuống. Có thời đê vỡ bị lụt tám chín năm liền, cả làng đói dài, đói dẹp người. Dân làng phải đào củ chuối, nấu rễ cây mà ăn. Bố tôi nói chuyện cụ nội tôi phải ăn cháo thay cơm. Cháo nóng mà lại lỏng, vì ít gạo, chỉ có nước, ông cụ thổi cho nguội để húp, còn nói đùa – «Cháo bà mày nấu tài quá, cháo có thủy ba…» Thủy ba tức là sóng. Cháo mà có sóng thì phải biết là cháo lỏng đến chừng nào.