- 13 -
Wilder đưa Morrow về đường London trong im lặng và cô mừng vì điều đó. Cô giữ cuốn sổ trên đầu gối, thỉnh thoảng lại liếc xuống, giả vờ đang cố tìm hiểu chi tiết và khung thời gian của vụ án. Thực ra cô chỉ có thể nghĩ về Kay Murray hồi còn trẻ hơn bây giờ, đứng nơi góc phố bên ngoài cửa hàng AJ Supplies ở Shawlands với lớp son đậm. JJ vừa mới ra đời và Morrow ghen tị với Danny, bực bội trước kiểu âu yếm anh ta khi nói về thằng bé, cả vẻ dịu dàng trong đôi mắt anh ta, niềm kiêu hãnh của anh ta, bởi cô tưởng rằng giờ đây anh ta đã có một gia đình của riêng mình, tức là anh ta có thể thoát khỏi cái chốn hỗn loạn mà hai người đã đầu thai vào.
Cô cảm thấy có tiếng điện thoại rung trước khi nó đổ chuông và lúng túng lục trong túi áo, lôi nó ra vừa kịp tiếng chuông đầu tiên. Màn hình hiện chữ “Văn phòng” chứ không phải “Bannerman”, và cô nhẹ nhõm trả lời.
“Sếp, Harris đây.”
“Sao?”
“Cuộc điện thoại cuối cùng của chiếc iPhone là gọi 999.”
“Cô ấy có gọi được không?”
“Cô ấy không trả lời người trực tổng đài.”
“Chết tiệt. Bây giờ tôi đã tưởng tượng ra cảnh báo chí xoáy vào vụ đó rồi. Cứ tìm hiểu kỹ cái điện thoại nhé. Được không?”
“Vâng, sếp, tôi sẽ làm từng ly từng tí.”
“Còn có gì trong đó nữa?”
Anh ta che ống nói và hỏi ai đó rồi trở lại trên điện thoại:
“Chúng tôi vẫn đang xem các email và ảnh”.
“Có nhắc tới những người chăm sóc bà Erroll không?”
“Đã lên một danh sách tên và địa chỉ.”
“Mười lăm phút nữa tôi về đến nơi.” Cô tắt máy.
Đáng lẽ họ đã có thể cứu cô ấy. Họ có thể đứng ngay ngoài cửa và tóm được lũ khốn kiếp trên đường chúng bỏ chạy. Hoặc họ có thể đến vừa đúng lúc để ngăn toàn bộ chuyện đó lại. Biết bao nhiêu là “có thể.” Cô lôi ý nghĩ của mình tới những thứ vui vẻ hơn.
Kay Murray đã có con, bốn đứa, lại còn là thiếu niên. Nghe gai cả người. Morrow khó mà nghĩ khác về Kay ngoài hình ảnh cô bé tuổi teen ngày nào, cho dù mặt cô ấy đã già dặn hơn và mái tóc đã ngả bạc. Kể cả như vậy, cô cũng chỉ có thể tưởng tượng ra Kay đang đứng ở cột đèn trong chiều hè muộn, đã quá tuổi để ăn mặc mát mẻ như trước đây. Hồi ấy, Kay vẫn còn đủ trẻ để chịu đựng được những đôi giày cao gót mua ở cửa hàng từ thiện bởi cô ý thức được cặp chân mập lùn của mình.
Morrow nhìn vào cuốn sổ của mình. Suốt mấy cây số, cô đã không lật sang trang khác.
“Anh đi hỏi thăm từng nhà thế nào?”
Wilder cũng đang mải miết trong thế giới riêng và giật mình khi nghe giọng cô.
“Sao cơ?”
“Đi hỏi thăm từng nhà ấy, có gì không?”
“Ồ”, anh ta ra hiệu rẽ, “chẳng có gì mấy. Erroll sống cách biệt. Mặc dù vậy cô ta đang rao bán nhà”.
“Thật à?”
“Chuyện lớn đấy”, anh ta gật đầu, đồng tình với mình. “Đây là chuyện lớn vì họ đã sống ở đây suốt một trăm năm mươi năm rồi. Hàng xóm đều nghĩ đây là chuyện lớn.”
“Thời điểm bán cũng không tốt.”
“Và ngôi nhà thì chẳng ra sao.”
“Ừ, cô ấy sẽ không tìm được giá hời cho nó đâu.” Morrow di ngón tay theo đường viền cuốn sổ. “Người phụ nữ mà chúng ta gặp trên đại lộ...”
“Kay Murray hả?”. Anh ta mỉm cười. “Chị biết chị ta à?”
“Bạn học. Anh gặp cô ấy ở đâu?”
Nụ cười của anh ta biến thành cái nhếch mép.
“Dưới chân đồi, trong dãy chuồng ngựa cũ mà giờ biến thành nhà ở ấy, nhà bà Thalaine. Bạn của chị làm việc quét dọn cho bà ấy. Cá tính lắm.”
Anh ta nói câu đó theo nghĩa xúc phạm. Morrow gầm gừ, anh ta có thể trông thấy cô đang mỉm cười qua đuôi mắt mình.
“Lấy địa chỉ của cô ấy chưa?”
Anh ta nhún vai:
“Trong sổ ấy”.
Phải mất một ngày nữa anh ta mới có thời gian viết báo cáo tạm thời. Đột nhiên cô cảm thấy mình quá lộ liễu và phải đổi đề tài.
“Cô Erroll có bạn trai không?”
“Không ai thấy cả.”
Ca trực của Wilder sẽ kết thúc trong hai mươi phút nữa và cô có thể nhận ra anh ta đang lảng tránh.
“Vậy là cô ấy không thân thiện với láng giềng?”
Nhưng tâm trí anh ta đã bỏ đi mất, bận bịu nghĩ đến những việc sẽ làm khi về nhà và chuyện về nhà bằng cách nào.
“Không biết. Có thể Kay biết.”
Cô ấm cả người nhờ tin tức ấy.
“Làm sao cô ấy lại biết?”
“Rõ ràng Sarah Erroll trả mười bảng một giờ và người giúp việc của mọi nhà quanh đây đều tới làm việc ở đó khi mẹ cô ta bị ốm. Kay cũng làm việc này cho đến khi bà Erroll mất. Rồi chị ta quay lại. Bà Thalaine nói chị ta có rất nhiều vấn đề.”
“Kiểu gì?”
“Sống ở Castlemilk.”
“Tại sao đó lại là vấn đề?”
“Có vẻ như bà Thalaine nghĩ thế.”
Morrow khịt mũi:
“Bà ta đến Castlemilk bao giờ chưa?”.
“Bà ấy bảo đã từng lái xe qua.”
“Mụ bò cái ngu ngốc.”
Họ đi men ở rìa công viên Glasgow Green hùng vĩ uy nghiêm và quận Bridgeton rồi theo đường London trở về đồn cảnh sát.
Trông bên ngoài nơi đó giống một công sở bình thường, nhà gạch ba tầng màu nâu đất, nhưng những đường nét kiến trúc của nó lại thuộc về một pháo đài: Cửa sổ khoét sâu vào mặt tiền và cột chống toàn bộ phía trước. Hai chiếc thùng bê tông khổng lồ trồng bụi cây dại được đặt ở trước mặt cửa ra vào chính, thực ra chúng là công cụ để ngăn chặn những kẻ điên rồ thích gây hấn hơn là bọn khủng bố. Bao quanh mặt sau nhà là một bức tường cao gắn mảnh thủy tinh vỡ ở trên để tạo thành một khoảnh sân cho xe tuần tra và xe chở tội phạm tới phòng tạm giam và các xà lim.
Con phố bên ngoài chen chúc xe ô tô đổi ca trực. Họ đỗ dọc theo đường phố và trên vỉa hè, nhưng trong đám hỗn loạn vẫn còn trật tự. Không ai chạm đến vạch đôi màu vàng hay chắn trước một cánh cửa.
Vì đang đi trong xe tuần tra nên họ phải đỗ ở sân. Wilder chậm rãi lái vào, cẩn thận đi vòng qua các xe tải và những bức tường, vòng qua các xà lim ở giữa với cửa sổ gài chấn song rất cao.
Anh ta kéo phanh và Morrow mở cửa, nói thêm như một cách tạm biệt:
“Cho chúng tôi thông tin liên lạc của Kay Murray trước khi anh nghỉ nhé”.
Cô đóng sầm cửa xe, không cho anh ta có cơ hội phản đối rằng mình còn phải làm việc khác. Trong lúc đi bộ lên đoạn đường dốc, cô lo lắng khi nghĩ đến việc sẽ đơn độc đến gặp Kay Murray. Không một cảnh sát nào được đi gặp nhân chứng một mình, không chỉ vì họ sẽ dễ bị tố cáo sai sự thật, Kay sẽ không làm thế, nhưng vì đó là quy tắc làm chứng: Họ sẽ không thể dùng lời khai nào của nhân chứng tại tòa chừng nào chưa có một đồng nghiệp đi cùng để chứng thực điều đó. Lời khai của một cảnh sát đơn độc còn tệ hơn cả tin đồn - nó thể hiện sự thiếu chuyên nghiệp.
Cô leo hết con dốc đến cửa ra vào, nhập mã an ninh vào bàn phím và lùi lại để cho người nào ở phía trên nhìn thấy cô trên màn hình theo dõi. Cửa bật mở.
Quầy tiếp nhận không có ai ngồi nhưng cô nghe được tiếng hét trong các xà lim, những giọng nói bị cánh cửa ngăn lại. Đó là một tiếng hét ai oán, giọng đàn ông đã bị yếu đi vì một ngày vất vả và vì hét quá nhiều. John ló đầu ra từ phòng trong.
“Mỗi cô thôi à?”. Anh ta hỏi vì biết cô sẽ không bao giờ tự lái xe trừ khi bắt buộc.
“Wilder ở ngoài kia. Ai đấy?”. Cô gật đầu về phía mấy xà lim.
“Giang hồ đánh nhau. Phê thuốc. Cocain.”
Cô cau mày, hầu hết đám dân lang thang bị bắt vì hành vi điên rồ, vì ngủ trên đường phố hay trộm cắp bất thành.
“Hôm nay đám dùng cocain tăng lên. Vì vụ nhiễm khuẩn.”
Một đợt heroin đã bị nhiễm bẩn và dân nghiện phải đi tìm thứ khác để xoa dịu cơn thèm.
“Họ có gây thiệt hại lớn không?”
John nhún vai:
“Sẽ đáng lo ngại hơn nếu bất kỳ ai trong số họ nặng hơn bốn mươi lăm cân”. Anh ta liếc nhìn đồng hồ. “Cô có cuộc họp giao ban cơ mà?”
“Ồ phải.” Cô đã bị Kay làm phân tâm đến mức quên béng mất.
Morrow cởi áo trong lúc vội đi qua sảnh để tới cửa dẫn vào phòng Điều tra Hình sự. Cô tới nơi đúng lúc Harris đang đi ra.
“Mười phút thôi”, cô cảnh báo, chỉ tay vào phòng họp.
“Sếp ơi, tay luật sư bị kẹt trong phòng khách tên Donald Scott ấy, vẫn đang ở trên tầng kìa.”
“Tôi biết rồi, biết rồi, tôi sẽ gặp ông ta. Tôi sẽ gặp ông ta sau khi họp giao ban. Bảo ông ấy đợi thêm hai mươi phút.”
“Ông ta đang bấn loạn lắm đấy.”
“À, chả sao”, cô nói và để cho cánh cửa tự động đóng lại giữa họ.
Ở phòng sự vụ, những người trực ca đêm và những người làm hành chính đang tụ tập, sẵn sàng về nhà và quên hết mọi chuyện, để mặc cô lo lắng vụ Sarah Erroll. Cô vào trong văn phòng một phút, không buồn bật đèn mà thả túi xách cùng áo khoác xuống, đứng trong bóng tối và lấy điện thoại riêng ra.
Brian trả lời ngay lập tức.
“Chào em.”
“Anh ổn không?”
“Ổn, còn em?”
“Cũng ổn.”
Cô từ từ mở ngăn kéo bàn và lấy ra một cuốn sổ cùng cây bút, mở nắp bút.
“Lễ tang thế nào?”, Brian hỏi sau một khoảng dừng ngắn.
“À, chắc chắn là ông già chết rồi.” Cô vẽ một đường xoắn ốc. “Có món nào cho bữa tối chưa?”
“Súp trong tủ lạnh đấy.”
“Ờ phải.” Bực mình vì hình xoắn ốc bị chặn, cô vẽ một đường khác hướng ra ngoài bên cạnh hình cũ. “Có lẽ em về hơi muộn.”
“Ừ, anh sẽ ở đây.” Anh đang mỉm cười, cô có thể nghe thấy điều đó trong giọng anh. “Ba mẹ con đều ổn hết chứ?”
Cô chạm vào bụng mình.
“Vâng, ổn cả.”
Trong bóng tối, cách xa đám hỗn loạn đằng sau mình trong hành lang, họ mỉm cười với nhau bên hai đầu dây điện thoại, hai con người đang cùng chờ đợi đến điểm khởi đầu của chính mình.
Cô thở dài một tiếng miễn cưỡng:
“Tạm biệt”.
Brian đáp lại và gác máy.
Morrow cười với điện thoại. Lúc nào anh cũng làm thế, không bao giờ “hẹn gặp lại” hay nói lăng nhăng. Cô kiểm tra hộp tin nhắn thoại trên bàn. Một tin. Cô ấn nút nghe. Nhà tâm lý học đã gọi và để lại số. “Xin hãy gọi lại.”
Morrow đã nói không rồi. Khổ sở vì sự dai dẳng của người phụ nữ này, cô liếc nhìn đồng hồ đeo tay và thấy mình chỉ còn hai phút. Cô thu thập giấy tờ, chỉnh trang quần áo rồi quay ra hành lang, ra khỏi văn phòng tối tăm yên tĩnh, chớp mắt trước dòng lũ âm thanh và ánh sáng ở phòng sự vụ.
Người ta đã kéo hết ghế đến kê đối mặt với bức tường màu đen, cảnh sát ngồi nói chuyện với nhau, giọng họ khẽ hạ xuống khi cô bước vào và đi qua họ. Cô thấy có vài ánh mắt đang liếc xuống vùng bụng mình, luôn luôn giống nhau, người thì tỏ ra ghê tởm, người thì thấy bâng khuâng, bản thân họ cũng đã là những ông bố hạnh phúc.
Cô thả mạnh giấy tờ xuống bàn, cho họ ba mươi giây báo trước để tất cả ngồi xuống và im lặng. Họ làm thế trước khi cô quay lại đối mặt với họ. Bảy người đàn ông, tất cả đều là cảnh sát, bốn người đến nhận ca còn bốn người rời ca. Vậy là thiếu một.
Cô chào một người, nhìn ra cửa chỗ người vừa mới đến tên Routher, nhướng một bên lông mày để anh ta biết rằng anh ta đã bị chú ý. Vì ca trực mới, cô nói qua về tình hình vụ Sarah Erroll, ngôi nhà cùng số tiền. Cô kể cho họ rằng họ phải tìm hai người đi những đôi giày thể thao da lộn màu đen nhưng không nhắc gì đến những chi tiết tàn khốc về vết thương, cho phép nó biến thành đề tài đồn thổi. Đằng nào họ cũng sẽ sớm nhìn thấy những tấm ảnh. Ngày qua ngày, hình ảnh ấy sẽ mất dần sức công phá, nhưng cô hy vọng rằng cú sốc do nó mang lại sẽ giúp họ có tinh thần trách nhiệm hơn một chút.
Ngày mai sẽ cho họ thêm ít nhiều hiểu biết về con người thật của Sarah Erroll.
Nhìn quanh phòng trong lúc nói chuyện, cô nhận ra rằng một cô gái giàu có, vừa nghỉ cuối tuần ở New York về, chết trong một ngôi nhà đầy tiền sẽ chẳng khơi gợi nổi chút lòng cảm thông nào. Khi nói với họ rằng không có người thân nào của Sarah nhận tin báo tử, cô thấy ca trực sắp hết giờ đang liếc mắt về phía chiếc đồng hồ đằng sau lưng mình. Những người mới đến thì đang lắng nghe cô, nhìn vào cô chứ không phải nhìn xuyên qua cô và tưởng tượng cô gái đã chết cảm thấy như thế nào. Họ chẳng buồn quan tâm quái gì đến Sarah.
Cô kết thúc, để Harris phụ trách phân công kíp trực đêm và nhìn quanh phòng: Mấy người đàn ông trực ca ban ngày có vẻ chán nản, mệt mỏi. Họ đang mong được về nhà và tiếp tục với cuộc sống thật sự của mình.
Cả phòng giải tán và Harris tiến lại, cô linh cảm rằng anh ta đang hy vọng cô cũng bảo anh ta về nhà và chúc ngủ ngon.
“Tôi đã dò hỏi về dấu giày. Cảnh sát Leonard”, anh ta chỉ vào Tamsin, “cô ấy quen một người ở Caledonian, người này đang phát triển một phần mềm cho một vụ như thế này. Cô ấy là nghiên cứu sinh Tiến sỹ ngành Khoa học pháp y”.
Cả hai đều nhếch mép cười. Các khóa học môn Khoa học pháp y đang hút sinh viên, mỗi chỗ trống lại có đến hai mươi đơn xin học. Tác động của bộ phim C.S.I[1], họ thường gọi như vậy.
“Cô ấy vẽ bản đồ pháp y của các hiện trường vụ án. Nói rằng cô ấy có thể cho thấy ai đã ở đâu và làm gì nếu có rất nhiều máu ở hiện trường.”
“Chà, đúng là thứ không hề thiếu. Chương trình đó đã được thử nghiệm trước tòa chưa?”
“Chưa, nó vẫn còn mới.”
“Ồ.” Cô đã bắt đầu nghĩ đến những hạn chế khác. “Nếu anh cho cô ấy xem bất kỳ một bức ảnh nào, hãy đảm bảo là cô ấy sẽ giữ bí mật. Không được đưa ảnh chụp mặt. Những bức ảnh như thế lên mạng Internet suốt.”
“Làm gì có cái mặt nào.”
Cô không thích anh ta đùa như thế.
“Anh hiểu ý tôi là gì mà.”
Anh ta bỏ qua câu phản đối.
“Hơn nữa, chúng ta còn có băng ghi âm cuộc gọi 999. Họ đang lọc bỏ tạp âm.”
“Tốt.”
“Có vẻ như file ấy lớn lắm.” Nghe giọng anh ta hơi lo lắng.
“Cô ấy đâu có gọi được, phải không?”
“Không biết.”
Họ nhăn mặt với nhau.
“Lên lầu với Scott đi, tôi sẽ có mặt trong một phút nữa”, cô nói.
Harris không phản đối câu nào nhưng miệng anh ta chun lại bằng hình đồng xu.