← Quay lại trang sách

20 - Đổi đời

Đại Sứ Martin cùng ban tham mưu lên trực thăng CH-46 mang tên Lady Ace 09 vào 4 giờ 58 phút ngày 30-04 bay ra chiếc tàu USS Blueridge đậu ngoài khơi. Thiếu tá Kean, người chỉ huy Marines bảo vệ sứ quán Mỹ bỏ chạy trong chuyến trực thăng cuối cùng vào 7 giờ 53 phút. Bật khóc, ông ta chửi rồi hỏi ‘’ Hoa Kỳ làm gì mà khiến chúng tôi phải tất tả bỏ chạy thế này?’’. Hai ngày trước, ngày 28, Big Minh lên nhiệm chức Tổng Thống, Nguyễn Văn Huyền làm Phó Tổng Thống và Vũ Văn Mẫu, Thủ Tướng. Họ tự nguyện nhận trách nhiệm lịch sử tránh cho Sài Gòn một trận tắm máu. Ngay hôm ấy, chiến sĩ nằm vùng Nguyễn Thành Trung cùng các phi công miền Bắc lái 5 chiếc A-37 chiếm được bắn phá phi trường Tân Sân Nhất và Biên Hòa. Huyền và Mẫu vào trại Davis, kêu gọi thương thảo theo tinh thần của điều 3 trong Hiệp Định Paris về một chính phủ liên hiệp. Đại tá Võ Đông Giang phe Cách Mạng xác nhận tình hình hiện nay không còn gì để thương thuyết, yêu cầu chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tự giải thể và giải tán quân đội. Ngày 30-04, vào 9 giờ 24 phút, Dương Văn Minh tuyên bố trên đài phát thanh: ‘‘ Tôi hoàn toàn tin tưởng những người Việt Nam có thể hòa giải với nhau. Để tránh đổ máu thêm vô ích, tôi yêu cầu tất cả binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa ngưng bắn và ở yên tại chỗ...chờ đợi chính phủ Cách Mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam đến để cùng thảo luận việc bàn giao chính quyền ’’. Nhiều đơn vị binh sĩ không nghe lệnh, tiếp tục chiến đấu. Khi đánh chiếm Tân Sơn Nhất và bộ Tổng Tham Mưu, quân đội Bắc Việt chựng lại vì sức kháng cự quyết liệt của binh chủng Dù đóng tại Ngã Tư Bẩy Hiền, mất 5 xe tăng T-54, bị thương vong nặng nề.

Mờ sáng, trung đoàn 66 thuộc sư 304 tiến theo xe tăng về Sài Gòn, đến cầu Tân Cảng thì bị chặn, giao tranh thiệt hại 4 tăng nhưng bắn cháy hai chiếc M-48. Đường mở, Đại đội 4 được lệnh vượt cầu. Xe tăng mang số 387 đi đầu, sau là 390, và cuối cùng là 847 của Đại đội trưởng Bùi Quang Thận. Đến cầu Thị Nghè, lại gặp đề kháng. Xe tăng đi đầu bị loại, hai chiếc kia tiếp tục tiến vào sau khi bắn cháy hai chiến xa M-113 của ‘’ngụy’’. Không hiểu bản đồ vẽ thế nào mà xe 390 lạc. Chỉ có xe 847 đến được dinh Độc Lập, xô vào húc cổng phụ nhưng cổng không đổ, xe lại chết máy. Dinh Độc Lập nhốn nháo, nhưng đơn vị bảo vệ không hề chống cự. Thận đợi xe 390, chỉ vào dinh khi sẵn sàng để quay phim như ‘‘trên’’ đã dặn dò, nhất định phải có hình ảnh ghi lại giây phút lịch sử có một không hai này. Lát sau, xe 390 tìm được đường, đến trước cổng chính. Quán triệt kinh nghiệm của 847, xe 390 rồ máy tăng tốc đâm vào như một con trâu điên. Cửa sập. Cách Mạng muôn năm, Thận hét tướng lên rồi giơ cao cờ Mặt Trận Giải Phóng miền Nam vẫy lên, chạy đàng sau xe 390 tiến vào. Phóng viên đưa máy quay lên vai, tiếng máy rè rè, đèn flash chớp sáng. Lúc ấy, đúng 11 giờ 21 phút. Sau, đến màn hạ cờ vàng ba sọc đỏ xuống và chăng cờ Mặt Trận lên nóc dinh Độc Lập. Rồi bắn súng chỉ thiên ăn mừng, và reo hò để thu âm. Khi đó, ban chỉ huy Lữ đoàn xe tăng cũng vừa đến phụ họa, có Chính Ủy Bùi Văn Tùng và Chỉ huy Nguyễn Tất Tài... Đi dép cao su bước trên nền cẩm thạch lót dinh Độc Lập, Tùng tự nhủ, phải bình tĩnh, phải bình tĩnh. Những thứ phồn vinh này đều giả tạo cả, chớ để nó tác động vào tinh thần tiến công cách mạng. Tùng mím môi, rồi ưỡn ngực đi vào đại sảnh. Một người cao lớn đeo kính trắng đứng lên nghiêng mình chào. Tùng tự hỏi, mình có nên nghiêng mình kiểu cách như thằng ngụy này không? Không. Thế thì làm gì? Tốt nhất là làm như không thấy nó, lơ đi như mỗi lần mình chưa tìm ra phương án ‘’tối ưu’’. Nhưng thằng ngụy sáp gần, giọng lễ độ:

- Thưa ông, chúng tôi chờ các ông vào để bàn giao...

A, thằng ngụy! Có thì mới giao chứ bây giờ nó còn cái gì để giao. Và thế thì có việc gì mà phải bàn? Hít một hơi cho không khí đầy phổi, Tùng dằn từng chữ:

- Các anh còn gì mà phải bàn với giao?

- Thưa ông, theo thông lệ khi thay đổi chính quyền thì...

Tùng sẵng giọng, nói như đinh đóng cột:

- Các anh nay chỉ có đầu hàng vô điều kiện. Rõ chưa...

Trưa hôm đó, đúng 14 giờ, Dương Văn Minh đọc vào cát-xét để phát thanh:

‘‘ Tôi, Dương Văn Minh, Tổng Thống Chính quyền Sài Gòn, kêu gọi quân lực Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải Phóng miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn...’’

Sau ngày 30 - 4, đài truyền thanh ra rả kêu gọi đồng bào bình tĩnh và loan báo lệnh giới nghiêm để bảo vệ an ninh. Chỉ hai ba hôm sau, chợ trời đã họp lại. Xe và người lại tấp nập, mặc dầu đó đây thấp thoáng những chiếc mũ cối bộ đội nhấp nhô trong những trạm gác. Ủy Ban Quân Quản tiến hành tiếp thu chính quyền. Cán bộ cục R vào Sài Gòn, chiếm hữu nhà bỏ trống của những người di tản, nơi bề thế dùng làm công sở cơ quan, mặt tiền cắm cờ Mặt Trận. Nhưng giấc mơ miền Nam có một chính quyền theo Hiệp Ðịnh Paris không kéo lâu. Cán bộ miền Bắc từng đợt vào Nam lãnh nhiệm vụ quản lý hành chính. Ngay cửa dinh Ðộc Lập, ảnh Hồ Chí Minh với khẩu hiệu « Bác Hồ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta » đập vào mắt. Trên những bức tường quanh chợ Bến Thành, hình chiến sĩ cầm súng, công nhân cầm búa, nông dân cầm liềm đứng xung quanh hàng chữ đỏ choét « Chủ nghĩa Mác - Lê bách chiến bách thắng » và « Không có gì quí hơn Ðộc Lập - Tự Do », báo hiệu một cuộc đổi đời không đảo ngược được.

Tư Quới nay mặc quân phục công an, hỏi mới biết là Thiếu Tá được cắt cử trách nhiệm an ninh cho Quận 1. Huyền tiếp tục công tác, lo tổ chức những đội dân phố, vận động những viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan của chế độ cũ ra trình diện, tối nào cũng họp, cũng phổ biến đường lối của chính quyền Cách Mạng. Tầng lớp trung lưu ở thành phố nay cũng ngồi xệp xuống đất như mọi người. Các vị bác sĩ, giáo sư, kỹ sư... bên cạnh chị Sáu cà phê, anh Ba xích lô... ban đầu có ngơ ngác, nhưng sau giơ tay phát biểu, cũng hồ hởi chẳng kém gì tầng lớp ‘’lao động’’. Anh Ba đạp xe tháng chở con ông Phùng đi học từ hai năm nay, vỗ vai ông, tỉnh bơ ‘’...bây giờ làm chủ tập thể thì tiền trả trước cho ba tháng tới tui coi như của tui, chứ xích lô tui không đạp nữa đâu! Bình đẳng mà. Hết cái chuyện người bóc lột người rồi!’’. Ông Phùng, vốn dạy toán cho một trường trung học tư thục, xuýt xoa ‘’...dĩ nhiên, anh Ba. Anh làm vậy là đúng chính sách. Huề hết!’’. Một cậu trẻ măng vừa được ‘’ giác ngộ’’ chêm vào ‘’ Huề sao lẹ vậy? Còn phải bồi hoàn những bóc lột cà!’’. Những cậu loại này thuộc hàng ngũ « ông ba mươi », hăng gấp mười lần cán bộ chính cống, động miệng là giai cấp với đấu tranh, và lúc nào cũng để cho người đối thoại lờ mờ hiểu rằng họ đã ‘’hoạt động nội thành’’ từ lâu lắm rồi. Ðể lập công, họ khai báo lung tung, rồi kèn cựa với nhau, gây ra rất nhiều phiền toái trong việc vận động quần chúng. Huyền làm công tác tư tưởng cho đội ngũ này. Dẫu khổ tâm nhưng vì chính quyền mới cần họ trong những ngày đầu, Huyền vẫn cố gắng, sau mới biết họ từng lên Công An Thành tố cáo Huyền thuộc giai cấp tư sản, có cửa tiệm, thuê công nhân viên, và từng ăn cái ‘’thặng dư’’ của lao động. Thật may, cái ‘’cửa tiệm’’ may đồ bọc đệm xe lại là cơ sở kinh tài ‘’của ta’’ che mắt ‘’ngụy’’.

Sau ngày Nhân đi trình diện, U già chân thấp chân cao về hớt hải gọi ‘’...cậu Nhân ơi! Sang xem ông Hoàng, ông ấy làm sao ấy!’’. Nhân hỏi, U già mang cơm sang cho Hoàng kể U vào nhà, lay nhưng Hoàng chỉ ngước mắt nhìn lờ đờ, tay chân không động đậy được nữa. Nhân vơ vội ống tiêm và bịch thuốc cấp cứu chạy sang. Ðến nơi, mắt chú Hoàng đã trợn lên, chỉ thấy lòng trắng. Mạch yếu, nhưng chú còn thoi thóp, thỉnh thoảng thở hắt ra từng cơn, chân tay co rúm. Nhân tiêm một ống hồi sinh. Chú Hoàng lại mở mắt. Cái nhìn của chú mới ai oán làm sao. Chú thều thào, nhưng Nhân áp tai vào, vẫn không hiểu gì. Nhìn xuống khay thuốc phiện, Nhân thấy một bát nước còn chút cạn. Nhân ngửi, mùi dấm. A, có phải là thuốc phiện hòa với dấm thanh? Nhân chấm ngón tay, quệt nhẹ vào đầu lưỡi. Thôi, thế này phải đưa chú đi rửa ruột ngay. Nhưng nhìn xuống, bọt mép chú đã sùi ra, chảy ròng ròng xuống cái gối nhớp nháp. Nhân rút ống nghe, áp vào ngực chú, rồi ngả người ra sau, thẫn thờ để xuống.

Từ một tuần nay, chú không ra đường, cứ thấp tha thấp thỏm. Khi Nhân qua thăm, chú chẳng hỏi gì khác câu hỏi ‘’...cha cháu đã vào đến nơi chưa?’’. Một buổi có cả bác Chương, nghe bác đọc Kiều «...bó thân về triều đình, hàng thần lơ láo phận mình ra sao? », chú Hoàng cười buồn, chỉ hỏi ‘’...gặp lại bạn bè đi kháng chiến ngày xưa, không hiểu đối xử thế nào cho phải nhỉ?’’. Bác Chương không đáp, lại nhìn lên bốn câu thơ viết trên bức vách, lắc đầu. Nhân hồi tưởng nét mặt chú lúc ấy. Không lộ gì bề ngoài, nhưng bên trong, sự đau đớn dày vò khiến khoé mép chú run bần bật nhếch lên gắng gượng giữ một nụ cười.

Huyền dặn U già báo về báo để chỉ sang nhà chú Hoàng khi đã liệm, nhất quyết không nhìn mặt cả lúc sống lẫn khi chết. Ðám ma chú, Nhân ra Ngã Sáu thuê một chiếc xe lôi. Ngồi cạnh áo quan, có thêm U già và bác Chương. Bác quần áo chỉnh tề, áo com-lê, cổ thắt cà-vạt, nghiêm trang nhưng ung dung không vui không buồn. Khi U già nói với Huyền ‘’ Nghĩa tử là nghĩa tận!’’ mong Huyền đổi ý thì Huyền trừng mắt không đáp, dúi vào tay Nhân một xấp tiền để lo liệu ma chay. Nhân thở dài nhìn mẹ, nửa thương, nửa giận. Tìm được một mảnh đất ở nghĩa trang Gò Vấp, Nhân đặt đào huyệt và dặn đổ xi-măng một cái bia có ghi tên chú với năm sinh và quê quán. Khi hạ huyệt, U già khóc tỉ tê. Bác Chương lẩm bẩm một điều gì, có thể là lời vĩnh biệt. Nhân nuốt nước bọt kìm xúc động. Không phải là cha đẻ, nhưng từ thuở thiếu thời, chú đối với Nhân như ruột thịt. Nhân chạnh nhớ Lương, tự nhủ, thế nào cũng cố nhớ để sau này kể lại cho Lương nghe những phút cuối cùng của chú trên cõi nhân gian này.

Sau đám ma, Nhân và bác Chương về lại căn nhà của chú ở cổng xe lửa số hai. Ðúng giờ, xe lại rú còi, chạy xình xịch. Nơi chú nằm hút thuốc chỉ còn một vết lõm trên cái đệm trống tênh. Nhân nhặt nhạnh khay, đèn, tẩu, thuốc bỏ vào một cái thùng, nói với bác Chương ‘’...xin bác giữ làm kỷ niệm!’’. Bác không nói gì, tay chỉ lên vách, nhỏ nhẹ ‘’... Nhân gỡ hộ bác giấy có viết những câu thơ...’’ Bác Chương chậm rãi xé nó ra, từng mảnh, từng mảnh rồi bật lửa châm đốt. Lửa bén vào lũ chúng ta lạc loài dăm bẩy đứa. Lửa bốc trên quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh. Lửa lan ra biển vô tận xá gì phương hướng nữa. Cứ thế, lửa bốc lên rồi tàn lụi. Cho đến câu thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh lạc loài vất vưởng trên những mảnh giấy cuối cùng thì bác lẳng lặng đứng dậy, quay lưng gò người bước đi như đạp ngược gió ra khơi.

Cứ tám giờ tối những ngày lẻ, U già thốt, đúng một câu, ‘’ lại cúp điện!’’ khi đèn nê-ông trong bếp tắt phụp. Bé Quỳnh, con Dao Ánh, đáp cũng đúng một câu người lớn quen miệng ‘’cho đỡ tốn, phải tiết kiệm!’’. Ngay dăm ngày đầu giải phóng, hai mẹ con Dao Ánh vào Sài Gòn. Sau khi kẹt ở Qui Nhơn gần một tháng từ ngày bỏ Huế xuống Ðà Nẵng rồi lếch thếch theo đoàn người ồ ạt xuôi Nam, hai mẹ con đến được Sài Gòn thì cờ Mặt Trận đã phất phới bay trên những nóc nhà dọc hai bên con lộ dẫn vào cầu Thị Nghè. Dao Ánh đến tạm trú ngà bà cô ở chợ Phú Nhuận, không ngờ cuộc đổi đời nhanh trong chớp mắt, hệt tay tráo bài ba lá chợ Ðông Ba. ‘’ Hai con bích, một con cơ. Ðặt một trúng ba, nè...’’. Ba con bài bị đẩy vòng vèo. ‘‘Tay... lật bài nào’’. Rõ là con cơ, nhưng khi lật, lại bích. Thường là vậy, nhưng cũng có người chỉ trúng cơ, được tiền. Anh bài ba lá khi đó la làng ‘’...răng mà xui bữa ni hè...’’. Tuy vậy, công việc tráo bài chắc là vững vàng, vì anh tiếp tục hành nghề ngày này qua ngày nọ. Người đi chợ rì rầm ‘’...thằng trúng là cò mồi, đừng có tin’’.

Nghe Dao Ánh ví von cuộc đổi đời, Huyền nghiêm trang ‘’bài ba lá, nay lá nào cũng là cơ. Lật cách gì, cũng chỉ một màu đỏ!’’. Ánh có lẽ chỉ thấy những con bích đen, chỉ dấu của bất hạnh. Bạn bè rủ rê, nàng đi bán thuốc tây ở chợ trời để sinh nhai. Sau hai tháng, bà cô Ánh phải cưu mang thêm bà con từ Huế vào, than nhà chật chội. Khi đó, Nhân vừa lên đường đi cải tạo trên Tây Ninh, theo chính sách Nhà Nước phổ biến là học một tháng rồi trở về đời sống bình thường. Ánh ngỏ lời xin tạm trú nhà Huyền trước khi ra Huế. Nhà Huyền rộng, nay chỉ còn U già nên Ủy Ban Nhân Dân Phường nhòm ngó, ý muốn cho một số cán bộ tiếp quản đến ở tạm. Huyền phân vân, và khi Ánh hỏi, Huyền đồng ý ngay. Ánh và bé Quỳnh dẫu sao cũng đỡ bất tiện cho Huyền, một người đàn bà đơn lẻ, hơn là những người cán bộ Huyền không quen biết. Vả lại, Huyền đợi Chính, từng ngày.

Rồi ngày lại ngày, mỗi ngày một dài. Huyền dặn U già đi gọi mình ngay khi có người từ miền Bắc vào tìm, lòng lúc nào cũng như lửa đốt mặc dầu công việc bộn bề. U già hỏi Huyền hình dạng Chính, nghe xong đầu gật gù, miệng lẩm bẩm ‘’...mợ nói kỹ thế, chắc cậu vào là nhận ra ngay thôi. Cao cao, gầy gầy...quai hàm bạnh ra...’’. Trước không sao, nhưng nay cứ tối tối, lòng Huyền lại quặn thắt. Nàng lên sân thượng một mình, lẳng lặng ngồi nhìn xuống sân ga xe lửa bên kia. Sài Gòn đêm đêm cúp điện. Sau giờ giới nghiêm, dăm ba người trong những tổ dân phố thỉnh thoảng lại đáo qua, tay xách đèn dầu, bóng đổ thẳng xuống lòng đường thành những chú lùn nhập nhòa gẫy đổ. Trên trời, không có điện nên sao ở đâu mọc ra hằng hà sa số. Huyền nhắm mắt, tìm hình ảnh Chính trong tâm tưởng, rồi tưởng tượng ra Chính từ ngày nàng lên chiến khu Việt Bắc. Lời Chính giục Huyền đi Hưng Nguyên ngày nào lại văng vẳng. Rồi hình ảnh bà đồ Cửu. Và Xoan, môi mím, mặt băng đá, quay ngoắt người đi không thèm nhìn...Tất cả bỗng dưng hiện về nguyền rủa. Chia tay bà đồ thuở ấy, Huyền cắn răng, thì thào ‘’... con lên Việt Bắc xin ở lại, nhưng con chiều lòng anh Chính nên về đây! Nhưng cơ sự thế này con cũng chẳng biết phải làm sao! Con không dám oán hận gì chị Xoan, vì con là người đi sau đến muộn...Xin bà sau này nói thế để chị ấy yên lòng!’’. Bà đồ ôm Nhân và Dân, tức tửi nói không nên lời. Trên đường về, Huyền cảm thấy một nỗi tủi nhục không chỉ cho riêng mình mà cho cả hai đứa con bé bỏng mới lẫm chẫm biết đi. Nàng tự nhủ, thế là đủ đớn đau, nàng sẽ không bao giờ đi xin xỏ gì bất cứ ai trong đời nữa. Bức thư nàng gửi cho Chính sau đó vỏn vẹn báo đã đi Hưng Nguyên nhưng rồi lại về Kiến Thụy, không nhắc gì ngoài chuyện sức khoẻ bà đồ. Nhưng chắc Chính hiểu, hứa sẽ tự mình giải quyết và dặn Huyền ở đâu cứ ở yên đấy. Và từ đó, nàng bặt tin. Lẩm bẩm, Huyền thốt ‘’ thế mà đã hai mươi ba năm...’’ rồi nàng bật lên khóc. Tử biệt, đã đành. Nhưng sống kiếp sinh ly, thử hỏi lấy gì bù đắp cho những ngày héo hon vì chờ đợi.

Dao Ánh bước ra sân thượng, ngỡ ngàng nhìn hai vai Huyền run lên nhịp cho một cơn thổn thức. Nàng im lặng, ngồi xuống bên Huyền. Hôm ấy, lần đầu Huyền kể chuyện đời mình cho một người khác nghe, nước mắt nhòa nhoạt dưới những vì sao đêm nhấp nháy âu lo. Nàng nguôi ngoai dần, hững người ngả vào thành ghế, nghe Ánh nhẹ nhàng ‘’...chắc bác trai sắp vào tới đây... ‘’, kịp ngưng lại không nói ‘’ nếu bác còn! ‘’. Tay nhét vào túi một bức thư Ánh định đưa cho Huyền đọc, nàng tự nhủ, đó là chuyện riêng của mình, và thôi hãy đợi, có hề chi...

Giữa tháng năm, Huyền lên chùa Hạnh Thông Tây gặp vị ni cô già xưa đã cho mình toa thuốc diệt dục, nhỏ giọng:

- Bạch thầy, xin thầy cho thuốc để đệ tử hồi nữ tính.

Vị ni cô ngạc nhiên:

- Mười ba năm trước, thí chủ còn trẻ thì xin thuốc diệt dục. Nay, xuân tưởng đã qua, cớ gì lại tính chuyện hồi xuân?

Huyền kể cho ni cô nghe chuyện mình. Nàng khẩn khoản:

- Bạch thầy, đệ tử đã xa chồng hai mươi ba năm, nhưng lòng đệ tử thì không. Ðệ tử muốn sống trọn vẹn với chồng như xưa. Khi gặp lại nhau, đệ tử mong được trở lại làm một người đàn bà, cho chồng...

Ni cô ngước lên mỉm cười, tay bắt mạch cho Huyền. Ngần ngừ một lát, ni cô nói, giọng khoan thai:

- Ai cũng có cái nghiệp người ấy. Già này có thể phục hồi nữ tính cho thí chủ, chỉ dặn, làm cho thèm muốn khó, nhưng còn dễ hơn là diệt đi thèm muốn. Nhưng già hiểu, tình mà không dục là không hợp lẽ tự nhiên...

Từ khi uống thuốc, Huyền biết thân thể nàng thay đổi. Ðầu tiên, những sợi ria ở mép bạc đi rồi rụng dần. Tháng sau, nàng có kinh. Và hệt như thuở mới mười sáu mười bảy, nàng nay lắm lúc trạnh lòng, dễ tủi thân, bắt đầu mơ mộng, khác hẳn khi trước nàng cứng cỏi phấn đấu trước những tình huống cam go. Quá khứ khốn khó bỗng vụt qua như một giấc mơ mờ nhạt. Huyền thấp thỏm trong chờ đợi, bôn ba đây đó dò hỏi tin Chính, tin Dân. Nàng tìm gặp những người quen trong kháng chiến chống Pháp, những kẻ đồng hương, những cán bộ trên Việt Bắc khi xưa. Cuối năm 75, Huyền gặp được người làng. Nàng biết mẹ đã qua đời cách đây gần ba năm. Còn Dân, là thương binh, nay hiện đang đi học trên Hà Nội. Thắp hương khấn mẹ, Huyền ứa nước mắt, lòng khắc khoải. Phần Dân, thế là Dân sống. Cuộc chiến khốc liệt như vậy đã chừa phần bất hạnh cho nàng, nay chỉ còn tin Chính nhưng sao đến nay Chính vẫn chẳng một tăm hơi? Và Dân? Cớ gì Dân không tìm cách liên lạc với mẹ? Những câu hỏi đục khoét với hàm răng loài chuột cắn đến rách bét tâm tư. Có một lần, Huyền mơ thấy Chính một tay xua đuổi nàng, tay kia giơ dao dọa đâm. Tay giắt hai đứa con, nàng vừa chạy vừa thét lên cầu cứu. Trước mặt vách núi đứng dựng chắn đường. Huyền không còn cách gì khác là phải quay người lại, nhưng không còn thấy Chính đâu nữa. Sực tỉnh, nàng đưa tay lên sờ mặt mình nhoè nhoẹt nước mắt. Những câu hỏi lại hiện hình dày vò. Có thể nào Chính nay vợ khác con khác, tránh nàng, tránh cả Dân... để an lòng với một cuộc sống mới? Hoặc giả Chính đã chết? Vì chiến tranh, vì bệnh hoạn? Ai biết được trong cõi đời đầy tai ương này?

Huyền rùng mình nhớ đến một người đàn bà miệt Thủ Đức lên đòi gặp Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố để khiếu nại. Chồng bà ta tập kết từ năm 55, làm lại cuộc đời khi ở ngoài Bắc, trở lại miền Nam thì dẫn theo một vợ hai con. Ông chồng đòi lại nhà cửa xưa thuộc cha mẹ ông, khai với công an huyện rằng bà ta là ‘’phản động’’, cấu kết thế nào mà công an đến đuổi bà và gia đình cậu con trai bà ra đường. Đi lính Cộng Hòa, con trai bà hiện đi học tập cải tạo, bà phải cưu mang con dâu và một đứa cháu còn ẵm ngửa. Cả ba giắt díu nhau lên Sài Gòn, ăn vật nằm vạ trước toà Đô Chính nay thành trụ sở của Ủy Ban Nhân Dân. Công an ra đuổi. Ít lâu sau, chị vợ ẵm con không biết đi đâu. Còn bà, thất tha thất thểu dọc đường Đồng Khởi, vòng xuống Nguyễn Huệ, ra Chợ Cũ, rồi quay về xin vào khiếu nại, lại bị công an nạt nộ. Cứ thế, ngày nọ qua ngày kia, bà xơ xác như một cái thây quờ quạng giữa ban ngày, miệng lảm nhảm chửi chồng, chửi con, chửi Trời, chửi Đất. Một bữa, nhà thơ Bùi Giáng tình cờ thấy bà, liền chập chững đi theo. Vẫn quần chằng áo đụp bằng hàng chục loại vải mầu sắc lung tung, nhà thơ kéo theo hai hàng dây sỏ những chiếc ống bơ leng keng đụng vào nhau khi bước, vừa đi vừa hô ‘’ mỗi người cho mọi người, mọi người cho mỗi người, hè hè...’’. Công an bắt Bùi Giáng, nhưng coi như điên, một vài bữa sau đem thả. Thả ra, Bùi Giáng lại đi tìm người đàn bà, gọi bà là ‘’mẫu hậu thê lương’’, xưng mình là ‘’ đười ươi đau đớn’’, cười ré lên và lớn giọng hô hào, ngôn ngữ thì nửa Anh, nửa Pháp, nửa Đức...Một trưa, người đàn bà tuột quần tuột áo, trần truồng vừa chạy vừa hát ‘’...như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng ‘’. Bùi Giáng phấn khích gào lên Cách Mạng thành công. Chạy theo vung tay múa chân, miệng móm mém, Bùi Giáng hả họng hát điệp khúc ‘’ Việt Nam... Hồ Chí Minh... Việt Nam... Hồ Chí Minh...’’. Lần này, công an bắt cả hai và đưa thẳng họ vào nhà thương điên Biên Hòa.

Lần Huyền đi thăm nuôi Nhân, phép xin dễ vì Huyền có giấy giới thiệu của công an quận. Nhưng với Dao Ánh, rất khác. Mất hai tháng, nàng mới có phép, sau khi đi lên đi xuống Ủy Ban Nhân Dân cấp quận đến ba bốn lần. Nhân hiện ở trại Trảng Lớn gần phi trường Tây Ninh. Cái hạn 30 ngày cho sĩ quan và viên chức trong chính quyền ‘’ngụy’’ học tập cải tạo để trở thành những công dân ‘’tốt’’ dưới chế độ mới đã trôi qua. Không một ai về. Rồi hy vọng kỳ hạn học tập thêm 3 tháng cũng tiêu tan mây khói. ‘’Ngụy’’ chắc tối dạ, đầu đặc, học sao mãi chưa ‘’thông’’. Huyền làm đơn khiếu nại, trình bầy rằng cha Nhân là Phan Thượng Chính, đảng viên từ thời tiền khởi nghĩa. Nàng yêu cầu Tư Quới xác minh chính bản thân mình hoạt động nội thành từ mười mấy năm nay, và năn nỉ ông ta đi cùng với mình lên gặp Tư Trọng, tức Thiếu Tướng Nguyễn Công Tài, một trong những người phụ trách an ninh cao nhất miền Nam khi đó. Tư Trọng thẳng thắn: ‘‘... chị nghĩ đi, ta nói học một tháng thì họ ra trình diện chứ nói khác đi, họ sẽ trốn và gây ra tình trạng khó kiểm soát, không bảo đảm được an ninh! Bây giờ thế này, chị bảo cháu cứ thành khẩn khai báo và phấn đấu cải tạo thật tốt. Mặt khác, tôi sẽ yêu cầu Công an Trung Ương cung cấp thông tin về anh Chính...Như thế, hy vọng sẽ được giải quyết nhanh gọn! ’’. Huyền thất vọng, Nhìn Tư Trọng, Huyền buột miệng ‘‘Thế là chúng ta đi lừa!’’. Tư Trọng nghiêm mặt ‘‘...ta lừa địch, địch lừa ta! Cái nghề an ninh, nó thế, chị công tác lâu năm rồi, chắc phải hiểu’’. Huyền lắc đầu, buồn bã nói nhỏ ‘‘...bây giờ địch thì ít, nên lừa phần lớn là lừa nhân dân. Không giữ được chữ tín, sau nói ai còn nghe nữa? ’’. Bất thình lình, Tư Trọng nói như quát trước mặt một thuộc hạ đang ghi chép ‘‘Chúng ta cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, một là một, hai là hai, trước thế nào sau như vậy. Thôi, xin kiếu đồng chí! ’’. Tư Trọng nắm khuỷu tay Huyền đẩy ra cửa văn phòng. Vừa bước, Tư Trọng vừa thì thào chỉ cho một mình Huyền nghe ‘‘... ngay cả ta với ta, cũng cứ thận trọng là hơn. Phức tạp lắm!’’. Ngạc nhiên, và phải hai năm sau, Huyền mới thực hiểu.

Ánh lễ mễ xách hai gói quà Tết đã được công an kiểm kê vào nơi tiếp khách của Trại học tập. Trại không xa sông Vàm Cỏ, phía Tây là đầm lầy. Cuối mắt, chỏm núi Thất Sơn nhô cao giữa những cánh đồng vàng lúa dưới ánh nắng rực rỡ buổi chớm xuân. Phòng khách của Trại có 6 cái bàn. Mỗi cái, ghế để hai đầu, một cho người thăm nuôi, một cho trại viên. Chính giữa, một cái ghế dành cho cán bộ quản giáo, người có nhiệm vụ ngồi nghe, thường tay cầm tờ Sài Gòn Giải Phóng để ngang mặt. Cán bộ trực gọi tên, tay chỉ ghế dành cho Ánh. Để quà lên bàn, Ánh nhướng mắt nhìn về phía cửa ra vào. Và đợi. Nửa giờ sau, cán bộ đưa trại viên ra, gióng to ‘’ Phan Thượng Nhân’’. Ánh đứng bật dậy. Anh cán bộ quản giáo lừ lừ xua tay, giọng sẵng ‘’Ngồi xuống!’’. Nhân nhận ra Ánh, nhưng đứng yên cho đến khi quản giáo vẫy. Tiến lại, Nhân lẳng lặng ngồi xuống chiếc ghế giành cho trại viên, mắt ngước lên. Hai người im lặng nhìn nhau. Thấy Nhân gầy rạc đi, mắt trũng xuống trông hốc hác, Ánh động lòng, cắn môi. Quản giáo giục, giọng miền Bắc, lại ngọng ‘’...Lói gì thì lói đi. Có mười nhăm phút, hết giờ nà thôi! ‘’. Anh ta há miệng ngáp dài khoe những chiếc răng bàn cuốc xỉn khói thuốc lào, tay lại cầm tờ báo lên ngang mắt. Ngập ngừng, Ánh hỏi thăm sức khoẻ Nhân, kể lại sinh hoạt ở nhà và nhắn lời Huyền động viên dặn dò. Nhân nhếch mép cười, đưa mắt nhìn nhắc Ánh còn có người thứ ba đang nghe, nói như cái máy:

- Ánh về nói cho nhà yên tâm, ở trại đây thoải mái, chẳng thiếu thốn gì...Học tập thì mỗi ngày một tiến, khi nào thông hiểu chính sách khắc về, chẳng có chi mà vội...

Ánh gật đầu, nhưng nước mắt ứa ra. Kìm xúc động, nàng nhẹ giọng:

- Báo tin anh biết, anh Thuyết hy sinh rồi...

Nhân lặng người. Châm thuốc, Nhân rít một hơi rồi nhẹ nhàng:

- Ánh biết tin hồi nào?

- Khoảng hơn tháng nay. Đầu tiên là bức thư của mạ Ánh. Sau, anh Bửu Chỉ vô Sài Gòn, nói chính anh ấy đã đào mồ chôn anh Thuyết. Các anh ấy bị bom năm 73, ở mặt trận Quảng Trị...Nay mộ anh Thuyết vẫn còn trong rừng...

- Mợ anh biết tin chưa?

Nhớ đến buổi tối trên sân thượng hôm được Huyền kể cho nghe chuyện mình, Ánh đáp:

- Em tính báo, nhưng tối hôm đó dì ngó có bộ buồn nên lại thôi, chưa nói gì.

Nhân ngửng đầu nhìn ra ngoài. Hình ảnh Thuyết ngày nào đưa Nhân đến chơi với đám sinh viên Huế ở cốc Tuyệt Tình hiện ra. Mới bước chân vào đại học, Bửu Chỉ vẽ những bức minh họa cho tờ báo Sinh Viên. Dùng bút sắt, nét cứng cỏi đến tàn nhẫn, chàng họa sĩ tài tử này không che dấu sự dấn thân của mình. Chỉ ít lâu sau, mật vụ chế độ cũ đi lùng, Bửu Chỉ cũng phải nhảy núi như Thuyết, như Trần Vàng Sao, như hai anh em Hoàng Phủ.

Ánh cố đổi giọng làm vui, thốt:

- Lại sắp Tết. Tuần sau Ánh đưa bé Quỳnh về ăn Tết với bà ngoại, sau đó sẽ ở hẳn Huế. Mạ Ánh dạo này đau ốm, Ánh cũng lo....

Nhân bật miệng, giọng không dấu được chút gì như hoảng hốt:

- Ăn Tết xong, Ánh vào lại Sài Gòn nhé...

- Ánh cũng không biết nữa. Ở lâu, sớm muộn sẽ phiền dì...Sắp tới, phải khai hộ khẩu, phức tạp lắm...

Quản giáo giả ho khan, bỏ tờ báo xuống, mắt nhìn đồng hồ, giọng khinh khỉnh:

- Hết giờ thăm luôi. Thôi! Đủ rồi!

Nhân vội bóc bao thuốc lá Capstan, rút một điếu rồi đẩy cả bao về phía quản giáo, miệng nói ‘‘mời cán bộ...’’. Anh ta thò tay rút một điếu, đưa lên kẹp vào tai. Nhân vội khẩn khoản ‘’ cán bộ lấy cả bao đi. Tôi ho, ít khi hút lắm!’’. Quản giáo đảo mắt liếc quanh một vòng, nhón bao thuốc nhét nhanh vào túi rồi đứng dậy, miệng nói:

- Thông cảm cho lăm phút lữa nhé!

Anh ta bước về phía cửa ra vào. Ôi, quí hoá làm sao năm phút tư riêng không ai dòm ngó này. Nhân nhìn vào mắt Ánh, giọng run run:

- Anh muốn em ăn Tết xong rồi lại vào Sài Gòn với mợ. Thuyết đã không còn ở thế gian thì anh có thể nói với em điều này...

Ánh òa lên khóc. Đây là lần đầu Nhân gọi Ánh bằng em. Và chỉ nói mợ, chứ không mợ anh như trước, như thể mợ là mợ của hai người. Lời Nhân nói đúng là lời cầu hôn của kẻ đang ở tù. Còn Ánh, góa phụ, chồng chết cũng sắp được ba năm, coi như gần hết tang. Nhìn Ánh đưa hai tay lên ôm mặt, Nhân bùi ngùi:

- Anh sẽ viết vài chữ xin phép mợ, Ánh nhé...

Chia tay Nhân, Ánh bỗng xấu hổ như vừa vụng trộm, chạy vuột ra ngoài. Một cán bộ chặn Ánh lại, hỏi: ‘‘Thuyết là ai?’’.

Thì ra anh quản giáo ra ngoài báo cáo. Nhưng đổi một bao Capstan lấy năm phút để nghe một lời cầu hôn lẽ ra phải nói ra từ bảy năm trước quả không mấy đắt. Ánh đáp, giọng ngậm ngùi:

- Anh ấy là một chiến sĩ Cách Mạng đã bỏ mình trong trận Quảng Trị...

Trên đường về Sài Gòn, Ánh chỉ vui được một nửa. Nửa kia, có gì nghe như một sự lỡ làng rất mơ hồ. Khi vớt hụt những chiếc lá trôi ven bờ sông Hương ở tuổi ấu thơ, nàng đã lờ mờ mường tượng ra nó nhưng chưa biết là nửa bên kia hạnh phúc nào cũng có những vết trầy xuớc của định mệnh.

Cuộc đổi đời nhẩy qua một bước ngoặt khi Quốc Hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc chính thức đổi tên thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cho một lãnh thổ từ Bắc chí Nam. Đảng Lao Động cũng lấy lại tên thật là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Riêng Sài Gòn, dân vẫn chưa quen gọi là Thành Phố Hồ Chí Minh, nhưng thôi xì xào chuyện thiết lập một Chính Phủ Cộng Hòa cho riêng miền Nam. Bấy giờ, cờ Mặt Trận Giải Phóng biến mất, chỉ còn cờ đỏ sao vàng phất phới tung bay khắp mọi nơi. Những kẻ có máu làm ăn trong Chợ Lớn nhanh chóng in ảnh Hồ Chí Minh. Chỉ ít lâu, nhà nhà treo ảnh Bác như bùa thiêng trấn áp tà ma cõi âm để giữ chút bình yên cho người cõi thế. Lực Lượng thứ Ba thời ‘‘ngụy’’ nay cũng giã từ mọi ảo tưởng khi Nhà Nước thu hồi cuốn Hồi Ký của tướng Trần Văn Trà, kẻ đã tuyên bố ngày đầu Giải Phóng rằng là người Việt Nam thì không có ai thua ai thắng, chỉ có Đế Quốc Mỹ là thua mà thôi. Tiếng đồn ông Trà không thống nhất quan điểm với Đại Tướng Văn Tiến Dũng, người viết cuốn Đại Thắng Mùa Xuân. Nhưng câu chuyện này cũng lắng dần như mọi trục trặc chốn cung đình, cách giải quyết thường là vỗ về và ban phát lại bổng lộc cho công thần.

Huyền được phân công phụ trách Ủy Ban Phụ Nữ phường. Việc chuyển từ an ninh Quận về lo một bộ phận quần chúng cấp Phường như vậy là hình thức hạ tầng công tác. Gặp Tư Quới, Huyền hỏi, ‘‘anh Tư à, tôi có khuyết điểm gì? ‘’. Tư Quới đáp: ‘‘ tui cũng sẽ đi Dầu Tiếng tháng tới...Gặp anh Tư Trọng, tui cũng hỏi ảnh như cô Hai hỏi tui...’’. Huyền ngạc nhiên, ‘‘Anh ấy nói sao?’’. Lắc đầu, Tư Quới thở dài ‘‘Tư Trọng biểu chính ảnh cũng sắp phải ra Hà Nội nhận công tác mới...Chuyện phức tạp lắm! Mình đổi nhân sự mà, cô Hai! ’’. Chủ tịch Ủy Ban hành chính quận, một cán bộ từ Hà Nội mới vào, động viên Huyền ‘‘Tôi được biết xưa chị phụ trách dân vận khu Đồng Xuân thời giành chính quyền. Phân công chị về ủy ban phụ nữ là thả cá vào nước, đúng người đúng việc...’’. Huyền dửng dưng, chỉ nhắc mình đã xin giấy phép về quê từ lâu mà vẫn chưa được phúc đáp của sở Công an Thành Phố. Huyền khẩn khoản ‘‘Mẹ tôi mất, con tôi là thương binh... Đến nay đã hơn hai mươi ba năm tôi chưa về quê hương bản quán, mong đồng chí nói hộ cho một tiếng!’’.

Công việc mới bắt Huyền phải họp, họp và lại họp. Họp với khu, với phường, với những tổ dân phố. Họp để nghe và học hết nghị quyết này đến nghị quyết kia. Học xong, phải phổ biến, phải giải thích này nọ cho quần chúng, nhắc đi lập lại quyền làm chủ tập thể và tinh thần tiến công dưới hai ngọn cờ trong ba dòng thác cách mạng. Quần chúng phần lớn ù ù cạc cạc và chỉ quan tâm đến đời sống thiết thực, phải thúc giục mới chịu nêu thắc mắc để cán bộ giải đáp. Ngôn ngữ ‘‘mới’’ bắt đầu thấm vào những người dân một chế độ ‘‘người không bóc lột người’’. Những từ lạ như phấn đấu, tích cực, tiên tiến, điển hình...thâm nhập cùng với số người Bắc, dân gọi là Bắc Kỳ 75, mỗi ngày một đông. Ở Thành Phố, cán bộ công nhân viên vào chiếm lĩnh những căn nhà do Ủy Ban hành chính cấp phát. Một số không nhỏ đi từ những nơi dân số quá lớn như Thái Bình, Nam Định... ồ ạt vào những khu kinh tế mới trên Lâm Đồng, Bảo Lộc... và ven biên giới Kampuchia, vừa có đất canh tác, vừa đồng thời ‘’bảo vệ’’ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trong xã hội hiện nay, người làm ít, người ăn nhiều. Không làm, thì họp. Họp sáng. Rồi trưa. Tối vẫn lại họp. Có bữa, ba giờ sáng tập hợp để đi mít tinh mừng ngày Lao Động Quốc Tế. Có đêm mãi đến 11 giờ vẫn phải ngồi nghe cán bộ Thành xuống phổ biến phương hướng cải tạo kinh tế xã hội. Đảng đề ra chính sách hợp tác xã kết hợp công-nông nghiệp. Cán bộ giải thích, sản xuất nông sản nhưng đồng thời hợp tác xã vận dụng làm ra của cải công nghiệp nhẹ như rượu, đường, phân bón... tùy theo yếu tố thuận lợi từng địa phương. Nhân dân ta vốn cần cù sáng tạo. Thiếu xăng, thì dùng xe ‘‘cải tiến’’ chạy bằng than đá Hòn Gai, vãi ra hàng đống than hồng lổm ngổm bò trên xa lộ như ma chơi đùa rỡn giữa một trong ba dòng thác cách mạng có tên là khoa học kỹ thuật.

Chị Sáu bán cháo lòng là một thành viên ‘’ phấn đấu tốt’’ trong Ủy ban Phụ nữ Phường. Dậy từ 4 giờ sáng, chị nấu hai nồi cháo, gánh ra bến xe đò Ngã Sáu và bán đến độ 10 giờ thì về. Sau bữa trưa cho ba đứa con nhỏ, chị ‘’công tác phụ nữ’’ đến chiều và cứ tối tối đi họp, không vắng mặt buổi nào. Anh Sáu, Hạ sĩ bộ binh ‘’ ngụy’’, đi học chỉ một tuần là giác ngộ, về nhưng không công ăn việc làm. Việc anh là coi mấy đứa nhỏ khi mẹ nó vắng nhà, và buồn nên anh nhậu dài dài, lúc lời ra tiếng vào là có thể quên mất ‘’nếp sống văn minh’’, thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vợ con, và dọa đốt nhà ‘’cho VC nó biết tay!’’. Chị Sáu ngậm tăm, cố khuyên can, và khi bị đánh u mặt thì lại giả lả nói là té mặt đập xuống đất. Cho đến khi có người tố với cán bộ. Huyền đến tận nhà anh chị Sáu hỏi sự tình. Anh Sáu văng tục ‘’... ĐM, ‘’zợ’’ tui, tui có quyền đánh. Tui có đánh zợ người khác đâu! ‘’. Huyền bực mình, bảo ‘’ vợ anh, nhưng là cán bộ Ủy Ban phụ nữ! ‘’. Anh Sáu bị giam hai ngày ở Công An Phường, phải chị Sáu bảo lãnh mới được tự do. Anh tỉnh rượu nên khi Huyền đến nhà, anh buồn rầu nói, ‘‘Cô Hai à, không công ăn việc làm, nó zậy, buồn mới nhậu lai rai...’’. Bàn với chị Sáu, Huyền gom góp được một số tiền giúp anh Sáu ‘’làm ăn’’ hành cái nghề anh học được với cha anh từ nhỏ là sửa đồng hồ. Chỉ ba tuần sau, anh thành chủ nhân một cái tủ đóng bằng gỗ dưới có bốn bánh xe cút-kít, mặt trên lồng kiếng che mấy chiếc đồng hồ cũ kiểu Timex, Movado... bên cạnh dăm cây bút bi và mấy cái hộp quẹt ga bằng nhựa. Sáng sáng, anh đẩy tủ đồ nghề ra mé cửa ga xe lửa, chăng cái bảng cạc-tông trên viết: bơm mực, đơm ga, sửa đồng hồ. Anh thôi đánh vợ và cười toe toét ‘‘lao động đúng là ‘‘zinh’’ quang, cô Hai à! ’’ nhưng luôn luôn giấu trong tủ đồ nghề một xị đế đã mở sẵn.

Đội ngũ ông bà thuộc loại ‘‘ba mươi’’ thưa dần, một phần chán vì không trục lợi được, một phần bị kiểm điểm vì tác phong phản cách mạng. Ngược lại, quần chúng lao động rất tích cực, đặc biệt là các bà, các chị. Họ buôn thúng bán bưng quần quật cả ngày, nhưng tối đến họ họp hành, xung phong làm những việc cho phường, cho xóm đến khuya. Bán đủ thứ lặt vặt trên vỉa hè, kể cả ở những đường phố xưa nay sang trọng nề nếp như Lê Lợi, Nguyễn Huệ...họ bị công an đến dẹp. Học nghị quyết, họ cãi lý, cho rằng họ chỉ thi hành quyền làm chủ tập thể. Công an phần đông là người khu 4, sẵng ‘’...về nhà mà làm chủ’’ thì nghe trả lời ‘‘chỉ cho làm chủ ở nhà thì sao chính sách lại kêu là phải làm chủ tập thể? Hè đường mà không thuộc tập thể thì cái gì là của tập thể? ‘’. Công an bắt về trụ sở phường, nhưng ở đấy các bà các chị vi phạm luật lệ thường lại là những người sinh hoạt tích cực trong chòm xóm nên rốt cuộc cứ chín thì bỏ làm mười, và thế là họ thoát ‘‘nạn’’.

Mức sống dân Sài Gòn tuột xuống đến chóng mặt. Năm 77, xăng nhớt thiếu hụt trầm trọng. Than và củi thay xăng và điện, bếp nhà nào cũng ám khói đen xì. Trên xa lộ Sài Gòn -Biên Hòa, xe tải ‘’cải tiến’’ chạy, bụi than đầy trời, ban đêm than đỏ lổm nhổm bò trên mặt đường. Nhà cửa xuống cấp. Ở những buyn-đinh hàng chục tầng, cán bộ chiếm ngụ cuốc những nơi xới được đất lấy chỗ trồng rau để ‘’cải thiện’’ kinh tế gia đình. Bồn tắm, nhà cầu...từ từ thành nơi nuôi heo. Ống nước tắc, cống nghẹt, mùi phân bốc lên thum thủm trong những khu chung cư xưa thuộc loại sang. Một nhà thơ bộ đội hóm hỉnh nhại thơ bác ‘‘nên ở trong thơ phải có c...Nhà thơ nay cũng biết nuôi heo’’.

Xã hội mới, qui luật mới. Cả ngôn ngữ, cũng mới. Bắt đầu lạ tai, sau quen dần, nghe không còn kệnh cỡm như giễu nhạo thuở mới giải phóng. Nhưng cũng còn những điều lấn cấn. Số người từ miền Bắc vào tạm cư ở những hộ bỏ trống ở phường ngày một đông. Họ thường nghiêm và buồn, rất ít cười, khinh khỉnh quay ngoắt người khi gặp hàng xóm mới và hầu như không bao giờ biết nói xin lỗi hay cám ơn ai. Trong những buổi họp dân phố, họ thường tỏ vẻ thông hiểu chính sách, ‘’góp ý’’ và ‘’bổ túc’’ liên miên giúp cán bộ miền Nam ‘’xác định lập trường cách mạng‘’ mà họ khoe cho mọi người biết họ đã thấm nhuần với kinh nghiệm hai mươi năm cải tạo xã hội miền Bắc. Người miền Nam kêu ‘’... thôi mà, cảm phiền đừng phát biểu ba dê nữa’’. Người miền Bắc hỏi ‘’ba dê là cái gì?’’. ‘’ Là nói dài, nói dai và nói dở...’’. Không khí xum họp Bắc - Nam vì thế có lúc chẳng lấy gì vui cho lắm.

Nhưng trẻ con thì khác. Chúng hội nhập với nhau rất nhanh. Trẻ miền Nam học chửi kiểu miền Bắc, và ngược lại. Nhưng về mục chửi thì miền Bắc quả ‘’tiên tiến’’ và đầy ‘’bản sắc dân tộc’’, nhất là các bé gái. Mới chín, mười tuổi đầu, chúng chửi nghe như các bậc phụ huynh già dặn. Chia hai phe, phe Cách Mạng và phe Mỹ - Ngụy, có đứa tụt quần xuống, réo rắt nhịp điệu hẳn hoi ‘’...cha tiên nhân bố thằng Ngụy liếm máu... l... bà đây cho mà biết thế nào là đại thắng mùa Xuân nhé...’’. Anh Ngụy miền Nam, động một cái là chỉ biết đ..., thường là kêu ‘’uýnh, uýnh’’ nhưng chạy. Tục chửi bậy lây nhanh, và ‘’trên’’ ra chỉ thị cấm chửi. Phải giáo dục các em. Muốn quàng khăn đỏ, cần phấn đấu tốt. Các cô giáo ra sức giải thích thế nào là ‘’nếp sống văn minh’’. Trong trường, lớp trưởng hò hét ‘’...phải văn minh nghe không, địt mẹ chúng mày, nay cấm chửi! Đứa nào chửi, ông báo cáo phạt bỏ mẹ chúng mày!’’.

Giữa năm, đã có những gia đình phải độn mì hột, bo bo vào cơm. Thời ‘‘ngụy’’, có viện trợ Mỹ và gạo Thái Lan, không thiếu. Nhưng nay, nông nghiệp chưa khôi phục. Trung Quốc hình như ngưng ủng hộ lương thực cho miền Bắc như trong thời chiến nên cơ nguy thiếu đói đe doạ. Chị Sáu vẫn nói, nhưng nhẹ giọng dần, ‘’đừng nóng vội! ‘’. Bụng không no, an ủi nhau bằng cách bảo ‘’ tất cả cho mai sau ‘’ chứ biết làm gì hơn được. Nhưng một bữa, chị Sáu lên phường khiếu nại về chuyện thuế. Chị kêu ‘’cái chú công an kinh tế cứ sáng là ra đếm mấy cái tô dơ vào giờ cao điểm, rồi nhân bốn lần lên để tính số tô bán được trong cả buổi sáng. Nhưng ‘’zậy’’ là không có tính khoa học xã hội chủ nghĩa. Từ 7 tới 8 giờ, bán nhiều nhưng sau đó lai rai, nhân bốn thì số tô gấp hai lần hai thùng cháo tui gánh ra bán phục vụ nhân dân. Tui quyết không chịu...’’. Rồi chị bầy, cứ tính số tô bằng hai thùng cháo, tới kiểm kê số cháo chưa bán hết, tính ra số tô bán được, và suy ra số thuế phải đóng cho Phường, như zậy mới bảo đảm được sự công bằng. Công an kinh tế lắc đầu, báo cáo với Ủy Ban là ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa không làm như vậy, chính quyền ta phải cảnh giác để khỏi mắc mưu dân miền Nam vốn có kinh nghiệm ‘’tư bản chủ nghĩa’’. Chị Sáu thôi bán cháo và từ đó bớt sinh hoạt tập thể. Chị ấm ức, kêu ‘’ bán cháo đóng thuế xong thì gần như huề vốn, vậy tức cho không lao động, và như thế không người bóc lột người thì còn là cái gì? ‘’. Huyền nghe chị nói, cười ra nước mắt nhưng không biết trả lời làm sao cho phải.

Nhu yếu phẩm khan hiếm, tức có chợ đen. Thiếu tất cả: đường, sữa, bột ngọt, mỡ, vải vóc... và nhất là thuốc men. Trúng gió, cảm hàn, đau bao tử...cái gì cũng chữa bằng Xuyên Tâm Liên, thuốc của ta trị bách bệnh. Và cho công hiệu, mỗi ngày phải nuốt đến ba, bốn chục viên. Thuốc Tây do Việt Kiều gửi về cho gia đình bán chui trong chợ đắt như vàng. Để chặn sự lũng đoạn của con buôn đang tìm cách khôi phục ‘’thị trường’’, Nhà Nước áp dụng những biện pháp đã xử dụng ở miến Bắc trong thời chiến. Chế độ tem phiếu được đem ra phổ biến, cái gì cũng ‘’quản’’, cái gì cũng ‘’phân’’. Với khẩu hiệu địa phương phấn đấu ‘’tự cung tự cấp’’, chuyện ngăn sông cấm chợ là hệ luận tất yếu. Kinh tế xã hội chủ nghĩa điều tiết bằng nghị quyết nên hàng hóa chỗ thiếu chỗ thừa, từ tỉnh này qua tỉnh kia chỉ mang 5 kí-lô gạo cũng chặn, cũng bắt nên nền kinh tế mất cân đối cứ như thai nhi nhiễm chất độc da cam, méo tròn, phình bóp, dị dạng. Sài Gòn phồn vinh ‘’giả tạo’’ lui vào trí nhớ, hóa kiếp ra Thành Phố Hồ Chí Minh chăng trên mặt tiền chợ Bến Thành khẩu hiệu viết bằng chữ đỏ ‘’ Tất cả cho con em chúng ta’’. Tất cả, đúng vậy, như trong trò ảo thuật, chớp mắt đẩy hiện tại giật lùi đến sát vực bờ chung quanh vang vang tiếng reo hò cho một tương lai chưa ai tưởng tượng ra nổi.

*

Nhà Nước ban hành lệnh đổi tiền, cứ 500 đồng tiền Cộng Hòa ăn một đồng, mỗi hộ được đổi 100,000 tức 200 đồng tiền mới. Theo chính sách, gia đình nào có thừa số qui định thì phải đem nộp Ngân Hàng, và sau có lý do chính đáng mới được rút ra. Người nhiều tiền mặt tìm cách mua vàng, mua hàng...nhưng xoay trở không kịp, biết rằng tiền gửi thì sau chỉ có mà bắc thang lên hỏi ông Trời. Họ phân tán cho bà con quen biết nhờ giữ giùm, nhưng kết cuộc cũng mất trong một xã hội giật gấu vá vai, không công ăn việc làm. Những cán bộ như Huyền phải giải thích giông dài thế nào là bình đẳng xã hội, và 200 đồng nhà Nước cho đổi tương đương với 5,6 tháng lương giáo viên cấp 1. Vả lại, với tem phiếu nhu yếu phẩm nhà nước phát cho, tiền không quan trọng như xưa. Dân nghèo nghe yên tâm, thậm chí nhiều kẻ hả hê khi nhận thấy chênh lệch giầu nghèo giảm đi trông thấy. Đằng sau, ai cũng biết những người giầu còn dấu vàng, hột xoàn, chương mục ngân hàng ở ngoại quốc...Nhưng xe hơi, sập gụ tủ chè, máy lạnh, tủ lạnh, bếp điện, bếp ga... thì nay hết thời, đồ phụ tùng gỡ ra xếp đống bán ở chợ Cũ mà không có ai mua. Người mạnh miệng reo, xã hội công bằng bình đẳng là đây. Kẻ xấu, thường là giai cấp tiểu tư sản, than nhỏ với nhau đúng là phú quí giật lùi, nhưng ngoài mặt vẫn phấn đấu chấp hành chính sách, ngoan ngoãn bước vào cái xã hội đồng phục quần đen áo bà ba trắng dẫu chẳng mấy an tâm.

Nhà Nước cử Đỗ Mười, người có kinh nghiệm cải tạo công-thương nghiệp miền Bắc cuối những năm 50, vào Nam phát động cuộc cải tạo cho lũ tư sản mọc rễ từ thời Mỹ-Ngụy. Tư sản được phân loại thành tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Loại ‘’dân tộc’’ gồm những người có ý thức, mang tài sản ra cống hiến, nhưng chắc họ không nhiều lắm. Loại ‘’mại bản’’ là đối tượng đấu tranh. Chúng thu mình nằm ép xuống giấu của trong những đợt kiểm kê tài sản, tuồn vàng theo những đường dây do người gốc Hoa dựng ra, và chắc chắn có những thế lực ngoại bang che chắn. Chợ Lớn bỗng nhiên co mình lại, người vắng, cửa hàng trống trơn, không còn dấu vết sầm uất thuở nào. Kêu gọi tư sản đi vào ‘’hợp tác’’ kiểu đã áp dụng ở miền Bắc khi xưa ít hiệu lực. Hợp tác làm sao trong một nền kinh tế không nguyên liệu, không năng lượng và nhất là không một niềm tin nào vào những chính sách ‘’nói zậy mà không phải zậy’’. Bằng chứng là những người đi học tập cải tạo cho đến nay đã hai năm nhưng số về còn thưa thớt. Thôi thì ‘’ta’’ xoay sang phương thức gà què ăn quẩn cối say.

Anh Sáu là một trong những nạn nhân đầu của phương thức này. Đang ngồi đợi khách bơm mực hay bơm ga, anh bị một đám công an ùa đến kiểm kê ‘’tài sản’’ đòi đem về quận. Anh nhất định không chịu, xô xát với công an, bị đánh bầm mặt. Về nhà, chị Sáu hỏi, anh bảo ‘’mất hết rồi, công an kết tui là tư sản mại bản! ‘’ Chị Sáu ré lên cười ‘’...cái chi mà kỳ cục vậy. Chục cái đồng hồ hư với dăm lọ mực bút bi mà tư sản sao được! Rỡn hoài. Hay là lại đế vô, nói bậy nên mới bị uýnh? ‘’. Anh không trả lời. Hôm sau, anh đến trụ sở Ủy Ban Phường khiếu nại. Huyền hứa sẽ giúp giải quyết, chắc sai sót hiểu lầm. Tuần sau, anh lại lên hỏi, vẫn chưa có quyết định, hồ sơ phải đưa lên cấp quận. Anh lang thang vào chợ trời, tình cờ nhận ra mấy cái đồng hồ của anh đã bị kiểm kê. Về nhà, anh uống rượu, uống liên miên, rồi vô bếp đào lên một khẩu súng ngắn anh giấu không mang nộp ngày giải phóng. Giắt vào bụng, anh loạng choạng lên trụ sở công an, to tiếng chửi ‘’ĐM...thằng nào cướp đồ nghề mần ăn của tao ra đây! ‘’. Công an xông ra, anh móc súng bắn. Một công an trúng đạn. Bị bắn trả, anh chết, đạn phá nát một nửa mặt, óc phòi ra trắng hếu.

Huyền đến nhà thì chị Sáu ôm hai đứa con, mắt đỏ hoe, mũi sụt sịt. Xác anh Sáu quàn trong đồn công an để điều tra thêm xem việc anh Sáu làm có bọn phá hoại phản động nào đứng đằng sau không. Chị Sáu khóc, ‘’Tội tui quá cô Hai à, cách mạng chi mà kỳ ghê, tui hết hiểu nổi! ‘’. Huyền ngậm ngùi. Nàng cũng thế, nàng cũng không còn hiểu gì. Công an quận gặp Huyền, đề nghị tìm hiểu thêm và có chi lạ thì báo cáo. Huyền gượng cười, khiên cưỡng gật đầu. Ít lâu sau khi chôn cất anh Sáu, chị Sáu xin cho về quê làm ruộng, sống trên Thành Phố hết nổi. Chị nói, ‘’...cô Hai à, ảnh chết mới thấy thương. Mẹ con tui mang bàn thờ ảnh về cho ông già bà già, làm nương làm rẫy mà sống dưới quê chớ cứ tem phiếu hoài, vừa cực, vừa nhục. Cô Hai làm phước giúp xin cái giấy cho phép mẹ con tui hồi hương, nghe cô Hai ‘’. Huyền đề đạt, nhưng không có quyền quyết định gì. Một tháng, rồi hai tháng trôi qua. Chị Sáu thôi không ra đường. Không thấy hai đứa nhỏ đi học, nhà trường hỏi. Cửa nhà chị Sáu khoá trái. Báo lên công an, họ phá cửa xông vào, chỉ thấy xác ba mẹ con chị Sáu lê lết trên những bãi nôn mửa đã bốc mùi. Ba mẹ con chị uống thuốc rầy trộn vào một bữa cháo lòng cuối cùng, ăn xong đứt ruột ra chết. Nghe anh Thiếu úy công an hồn nhiên hỏi căn cớ, Huyền đáp, ‘’ Chắc chị Sáu bị bọn ‘‘phản động’’ đẩy vào đường cùng! ’’. Hôm sau, Huyền gặp Chủ Tịch Ủy Ban hành chính xin tạm ngưng công tác một thời gian. Hỏi tại sao, Huyền đáp: ‘‘... Tôi bị dao động! Cái hòm đồ nghề khiến anh Sáu thành tư sản mại bản là do chính tôi bày ra, đâu ngờ vì vậy mà cả nhà anh ấy chết!’’.

Tiếng súng lúc một gần. Tay khều Nhân, anh Trung Úy Biệt Động Quân tên Thắng nói nhỏ, giọng hả hê ‘‘... có cả tiếng B-40. Còn lại, toàn AK-47. Thế này thì ‘’phe ta’’ đánh nhau to rồi! ’’. Tin người nhà bên ngoài trại cho biết Việt Cộng đụng độ ở biên giới với Khơ-me-đỏ, và nghe đâu chính Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đã vào thị sát chiến trường. Thiếu Tá Thưởng, xưa thuộc Cục Chiến Tranh Chính Trị của Sư Đoàn 1 cười khẩy, chép miệng, ‘‘chỉ Khơ-me thì bố bảo cũng không dám đụng Việt Cộng. Đằng sau chắc là Trung Quốc đấy! ’’. Nhân lặng người, thì thào, ‘‘Thế lại chiến tranh nữa à?’’. Thưởng trầm ngâm một lúc, rồi thốt: ‘’...kiểu này cứ để Khơ-me vào làm thịt bọn ngụy tụi mình là tiện đôi bề, vừa không ra tay vừa có dịp đổ tội cho Polpot!’’. Thắng rùng mình, quay bảo, ‘‘ thế thì lúc hỗn loạn là phải trốn’’. Thưởng cười nhạt ‘‘trốn đi đâu? Chẳng lẽ qua Kampuchia nộp mạng à? ’’. Nổi tiếng bướng, Thưởng bị biệt giam một tháng vì bất tuân kỷ luật và hô hào lãng công. Số là ban chỉ huy trại ra lệnh đào phi đạo Tây Ninh lên để lấy đất canh tác trồng trọt. Thưởng xin gặp Trại trưởng, hỏi ‘‘Cán bộ có biết một thước phi đạo giá là bao nhiêu triệu không?’’. Trại trưởng lắc đầu. Thưởng tiếp: ‘’... nhiều, nhiều lắm. Đào cả cái phi đạo này lên để trồng trọt thì thu nhập hàng trăm năm sau cũng không bằng được thế đâu! ‘’. Dĩ nhiên, có chính sách. Và chính sách là tập cho trại viên biết lao động là vinh quang, trại ‘‘ta’’ từng bước quá độ tiến lên tự túc chất xanh. Ra phi đạo, Thưởng vứt cuốc xuống đất, hô ‘’anh em đừng đào! Tài sản này là thuộc đất nước, không ai có quyền phá đi! ‘’. Ban chỉ huy tím mặt, cùm Thưởng vứt vào biệt giam, họp trại viên ‘‘đả thông’’ chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa, vạch mặt chỉ tên bọn phá hoại phản cách mạng mang xu hướng tư bản bóc lột ra mê hoặc lòng người.

Nhưng sự lo ngại của Thưởng tiêu tan khi trại viên nhận lệnh chuyển trại vì tình hình mất an ninh ở biên giới. Nhân bật cười khi Thắng nhìn Thưởng, tếu ‘‘chỉ được cái lo trời sụp!’’. Thưởng nghiêm mặt ‘‘ chỉ có thế mà đã mừng à? Chuyển đi đâu mới là vấn đề’’. Vài ngày sau, một đoàn xe cam-nhông đến đón trại viên, chở ra Long Bình. Ở đó, chờ hai tuần rồi trại phân tán. Nhân và Thưởng vào một xe, đi cùng với một số người không phải thuộc diện sĩ quan quân đội. Có hai Thượng Tọa, một Linh Mục, và dăm người đã đứng tuổi, có lẽ là công chức cao cấp chế độ cũ. Thưởng nhìn, quạu cọ, ‘‘thế này thì quả không biết đi đâu!’’. Thì thào vào tai Nhân, Thưởng tiếp, ‘‘Đi với đám dân sự này, bọn mình chắc kẹt!’’.

Xe nhắm hướng Bắc. Vị Linh Mục nhắm mắt, miệng tươi, tay l