← Quay lại trang sách

CHƯƠNG MƯỜI SÁU

Trụ sở Tạp chí Thơ ca và Cuộc sống kề cạnh một công viên lớn nhất thành phố, hoa nở bốn mùa. Toàn cơ quan chỉ có mười lăm thành viên, đều là các nhà thơ có tên tuổi, sống và làm việc trong một căn nhà nhỏ, xinh xắn như một bài thơ tứ tuyệt. Gác ba là nơi Khanh ngồi làm công việc hành chính; ở đó, bàn làm việc của nàng kê áp khuôn cửa sổ nhìn xuống một mặt đường suốt ngày vang động tiếng người, tiếng xe, tiếng rao hàng, nhất là tiếng trẻ rao báo.

- Mời các bạn mua báo ra ngày hôm nay. Thủ đô, Thế giới mới, Tiếp thị. Đầu tư, Thương mại. An ninh. Công an nhân dân. Thế giới tuần qua. Đặc biệt với các bài: Nato - Đối tượng tình báo Nga. Những ngày buồn thảm của Khơrútsốp. Vụ giết người tàn bạo nhất thế kỷ. Đỗ Văn Chiến, tên cướp lầm lì. Ngày cưới mẹ, ngày đưa tang con. Lưỡi dao oan nghiệt...

- Xin các bạn chú ý! Đã có báo Tiên tiến, Nữ sĩ, Thế giới đàn ông, Phái yếu, Hành tinh, Đôi lứa... đây. Mời các bạn đọc tiếp truyện dài Án tử hình cho em đăng nhiều kỳ trên báo Văn chương hôm nay. Và khởi đăng truyện Con quỷ râu xanh đạp xích lô và nàng tiên nghệ thuật trên tờ Lập Nghiệp. Cùng các vụ án li kỳ khác, như: Con dâu và bố chồng. Bẩy mươi chín tuổi còn có bồ...

- Nhân danh Công lý, Văn hóa và đời sống, Sức khỏe, Luật pháp, Thanh xuân... báo mới đây. Mời các bạn mua báo xem tin tức tòa án tuần qua. Tử hình kẻ tạt axít vào mặt tình nhân. Kẻ ăn thịt người lĩnh án xử tử. Khẩu AK bắn chết người yêu là của ai? Say rượu đánh trọng thương bố dượng. Ngàn lẻ một chuyện cô dâu Việt lấy Tây...

Khanh phải nuốt chửng một viên Decolgen để chống cơn đau nhói nửa đầu lại vừa mới tái hiện trong ít ngày gần đầy, do những dòng thác tin tức đổ vào ô cửa sổ, gợi buồn ghê gớm; nó cứ như muốn nhắc nhở nàng rằng: Thế giới tội ác còn mạnh mẽ lắm, chưa sống yên ổn được với nó đâu. Hiển nhiên là nàng sống chưa yên ổn. Điền vẫn không hồi âm.

“Thật là một ô cửa sổ nhìn ra thế giới!”. Các nhà thơ ở Tạp chí này nói vậy, theo cách diễn đạt hình tượng của văn chương khi ngồi nói chuyện ở căn buồng của Khanh, chợt nghe thấy rộ lên những tiếng rao báo từ dưới mặt đường. Rồi họ nói thêm: “Chỉ tiếc là toàn thông tin về mặt trái của xã hội đen” và ngơ ngẩn hỏi nhau: “Chả lẽ con người ta, từ trong bản thể tiềm thức là hướng về cái đen tối u ám?”.

Ở gần các nhà thơ Khanh mới nhận ra họ là những kẻ thật đáng yêu. Họ là một dạng trí tuệ đặc trưng, là phần tử tất yếu của thời đại, và phải coi họ là những tinh hoa của cuộc đời, nghĩa là phải dùng phép ẩn dụ như một biện pháp tu từ thì mới có thể hình dung ra họ. Họ trong lành và thơ ngây. Họ luôn băn khoăn, trăn trở. Họ hay lo âu và buồn bã. Họ cũng có thói xấu, đặc biệt là thói cao ngạo, nhưng nhìn chung họ mang những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người. Trong các nghệ thuật sáng tạo thì thơ thường đứng ở vị trí cao nhất, vì chúng gần với tâm linh, không bị ràng buộc và tự do vô hạn. Gần họ, Khanh như được an ủi. Cuộc đời là một kết cấu mang tính đối cực, song hành. Bên cái xấu xa hạ tiện là cái cao cả đẹp đẽ. Cái cao cả, đẹp đẽ cũng đông đảo và mạnh mẽ, nó chính là hòa sắc, là giai điệu lớn của cuộc sống này. Nếu không, nếu tất cả chỉ là những Đống, Tư, Túc, Nghiệm... thì cuộc sống làm sao có thể tồn tại được. Con người không hướng về cái ác, cái xấu. Họ chỉ tò mò nhận diện nó để xa lánh nó. Họ phải chú ý tới nó vì nó là điều nguy hiểm, thường xuyên đe dọa cuộc sống và sự an ninh của họ. Họ phải chú ý đến chúng vì bấy lâu nay mắt họ bị giăng một tấm mạng che. Rằng con người đã đẹp lên, đã tốt lên, chẳng còn xấu xa nữa; trong khi về căn bản con người vẫn còn đang trong vòng luẩn quẩn, chưa hoàn thiện, ích kỷ, tà dục, độc địa và vẫn tham lam. Và con người là một thực thể phức hợp, nó phải dựa vào lòng vị tha, tình nhân ái, tinh thần hiệp sĩ để chống lại chính nó, để xứng đáng với danh hiệu vô cùng cao quý mà nó được mang.

Từ cái cửa sổ nhìn ra thế giới ấy, các thi sĩ hay đến chơi với ; Khanh và họ bỗng phát hiện ra một vấn đề nghề nghiệp lý thú: “Thơ của chúng ta phải chăng đã quá xa cách cuộc đời hiện thực?”. Tranh luận lập tức bùng nổ. Đã có tranh luận tức là có hai phe. Phe nói: Đúng là như thế. Phe phản bác lại giễu cợt: Vậy chả lẽ trong thơ sẽ có thêm tiếng gào rống, thét lác, rên ri của những cuộc tình, có từ ngẩu pín, ngọc dương, Má mì, Tú Bà, Tú Ông, tầu nhanh, tầu suốt. Không! Thơ không vụ sự kiện như kiến trúc chủ trương dựng hình tượng để con mắt thưởng ngoạn qua hình thức tượng trưng và tính bất động vĩnh hằng. Thơ biểu hiện trực tiếp tâm hồn bằng tâm hồn. Nhưng văn chương nói chung và thơ nói riêng cần noi gương thi bá Nguyễn Du, không bỏ qua một kiếp hát rong, không ngần ngại chỉ mặt vạch tên thằng Mã Giám Sinh, mụ Tú Bà, gã Sở Khanh, lão Hồ Tôn Hiến. Văn chương tôn thờ cái đẹp, lấy cái đẹp làm chuẩn, làm cảm hứng xây dựng thế giới này, đồng thời với việc khắc vào trán bọn Đống, Tư, Kơn, Nghiệm... lời phán quyết tiêu trừ, bằng cách miêu tả cái bên trong mục ruỗng, thối tha đen tối của chúng.

Nhân nói về Nguyễn Du, có một thi sĩ đứng hàng đầu thơ ca Việt Nam hiện đại đã hàng ngày đến với Khanh và đọc từng trang Kiều cho nàng nghe. Thi sĩ nói: “Kiều thật vĩ đại. Chỉ cần mấy câu sau đây cũng đủ để các thế hệ thi sĩ thế giới chiêm nghiệm về nghề của mình một đời. Câu thứ nhất: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Câu thứ hai: “Dột lòng ta mới nao nao lòng người”. Câu thứ ba: “Văn chương nết đất, thông minh tính trời”. Còn nói về phép ứng xử ở đời thì có câu này là tuyệt đích: “Người yêu ta xấu với người”.

Khanh đã ứa lệ khi nghe câu thơ nọ. Thấy Khanh khóc, thi sĩ nọ quay đi. số phận của Khanh từ hôm ấy trở thành mối quan tâm của cả mười lăm thi sĩ trong cộng đồng.

“Một người phụ nữ có gương mặt, vóc dáng đẹp đến nhường kia, hiển nhiên là một con người thánh thiện!”. “Em là một sự cô độc, một sự cô độc lớn lao, một khối thực thể chứa đầy nỗi nhớ”. “Sự yên tình ở bên trong em là cái bí tàng huyền diệu đủ sức mạnh cho một khúc ca thi sĩ”. Đoạn đời không may mắn vừa qua của Khanh và vẻ đẹp của nàng gây ấn tượng sâu sắc cho các nhà thơ. Họ nghĩ vậy về nàng và trong thầm thì riêng tư, họ, chẳng trừ một ai đều muốn tâm sự với nàng. Tất nhiên họ chỉ có một cách tâm sự, đó là thơ. Nhưng một ngày kia, mười lăm người làm thơ nhận ra họ cùng giống hệt nhau trong những bài thơ tặng Khanh, giống nhau từ câu tứ đến ngôn từ. Giống nhau thì còn gì là thú vị nữa. Và thế là họ quay ra khích bác, chê bai nhau. Tất cả đều tự nhận mình là thi bá, là thi sĩ hạng nhất, là độc nhất vô nhị, là trước không có, sau càng không có, là cây đại bút, là bậc đại gia, đại thi hào tầm cỡ thế giới cả. Kiêu ngạo đó là tính xấu duy nhất của họ, nên họ dè bỉu nhau cũng là lẽ đương nhiên thôi. “Thơ tôi lóe chứ không lòe như thơ ai đâu!”. “Thơ tôi là tiếng vang của sự rơi đồng xu chứ đâu có phải là bản thân đồng xu như dám bì với thơ các bạn”. Chẳng ai chịu ai, kể từ các nhà thơ lão thành tiền chiến, các nhà thơ nổi danh thời kháng chiến chống Mĩ, đến các nhà thơ trẻ mới nổi nhờ dăm ba bài có cách nói lạ tai như thơ dịch. Kể từ nhà thơ bình dị dân dã kiểu Nguyễn Bính cổ điển đến thi sĩ hiện đại có giọng thơ hú gào như Alen Gilsberg Mĩ đã quá cố.

Chẳng ai chịu ai, nhưng kê kích, mai mỉa nhau mà các nhà thơ không thù ghét nhau. Cuối cùng họ thỏa thuận với nhau rằng, không một ai được đem bài thơ mình sáng tác để tặng Khanh nữa. Thay vào đó, mỗi người chọn một bài thơ của các nhà thơ lớn trên thế giới chép tặng nàng.

Cuối cùng, sổ tay của Khanh trở thành cuộc họp mặt của một tuyển thơ gồm mười lăm thi phẩm, trong đó có bài toàn vẹn, có trích đoạn, thậm chí có chỗ chỉ là một hai câu như kiểu thơ hai ku Nhật Bản được yêu thích nhất. Và đến đây thì một điều lạ lùng đã xảy ra: Tập thơ tập hợp các bài thơ các thi sĩ chép tặng nọ giống hệt tập thơ tình sưu tầm của thầy giáo Bình dạy Văn - người đơn phương yêu Khanh - tặng Khanh hồi nàng còn học ở trường trung học.

Thì cũng là Xonnê của F. Ácve, Đôi ta của Nadim Hichmét, Mùa thu của B. Paxtécnác, Người đẹp ơi! Đừng hát nữa và Gửi... của Puskin... nhưng lần này Khanh đặc biệt xúc động bởi ba bài thơ trong số đó, một là Không đề của Onga Bécgôn, Nỗi ly biệt đen, nỗi ly biệt vĩnh hằng của A. Akhmatova và một nữa cũng tên là Không đề của một thi sĩ không nhớ tên.

KHÔNG ĐỀ

Em nhớ lại chuyện ngày quá khứ

Khúc hát ngây thơ một thời thiếu nữ

Ngôi sao cháy bùng trên sông Nhêva

Và tiếng chim kêu những buổi chiều tà.

Năm tháng đắng cay hơn, năm tháng ngọt ngào hơn

Em mới hiểu giờ đây anh có lý

Dù chuyện xong rồi, anh xa cách thế.

Em hát khác xưa rồi, khóc cũng khác xưa.

Lớp trẻ lớn lên giờ lại hát theo ta

Lại nhắc lại vị ngọt ngào thuở trước

Vẫn sông Nhêva chiều tà ánh nước

Nhưng nghĩ cho cùng họ có lỗi đâu anh.

KHÔNG ĐỀ

Sung sướng như em, em đến làm chi nước Pháp chúng tôi

Người đông chen chúc, đau khổ bời bời.

NỖI LI BIỆT ĐEN, NỖI LI BIỆT VĨNH HẰNG

Nỗi li biệt đen, nỗi li biệt vĩnh hằng

Chia đều cùng anh, em mang một nửa

Khóc mà chi, đưa em bàn tay

Sẽ lại về trong mơ, xin anh hãy hứa

Em với anh, nỗi đau và nỗi đau

Em cùng anh dương gian không gặp gỡ

Trong thẳm sâu đêm xin anh một đôi lần

Gửi lời thăm em qua làn sao chớp lửa.

Khanh đã khóc nức nở khi đọc những bài thơ đó, nhất là ba bài thơ nọ, những câu thơ nói tiếng nói của trái tim nàng, của hoàn cảnh nàng. Những câu thơ nói hộ tình yêu của Điền, một tình yêu đau khổ xót xa nhưng đầy ắp những kỷ niệm sáng tươi, với nàng. Những câu thơ như những lá thuyền cập bến yêu thương. Một lần nữa nàng đã cảm nhận được cuộc sống ở chiều sâu thẳm của nó, qua trải nghiệm đớn đau và hy vọng lớn lao, nhờ vào nghệ thuật thơ ca. Thơ ca đưa chân lý đến cho con người với một hiệu quả không gì sánh nổi. Bằng việc đọc những bài thơ, nàng tự nâng đỡ mình và thâm nhập vào bản thân. Nàng nhận ra cuộc sống của nàng từ nay sẽ khác trước và nhìn lại những ngày đã qua, nàng thấy mình điềm tĩnh hơn, thương yêu ba mẹ và những người thân hơn bao giờ hết. Nàng thanh tẩy cảm giác phạm tội, nàng tin tưởng hoàn toàn ở sự trong sạch của mình và mọi ý nghĩ lúc này của nàng đều hướng cả về Điền. Ngày lại ngày, nàng vẫn là một nhân viên chăm chỉ và được mọi người khen là tháo vát và rất có duyên trong giao tiếp nên đã cởi tháo được bao mắc míu trong công việc hành chính bộn bề ở cơ quan, nhưng trong đáy sâu của ý nghĩ, toàn bộ tâm sức nàng vẫn chỉ dành cho Điền, nàng vẫn hồi hộp đợi chờ tin tức của Điền và điều đó được thể hiện rõ nhất ở những đêm mất ngủ. Những đêm mất ngủ vì những ám ảnh đầy bất trắc toát ra từ ba bài thơ nọ; những bài thơ mang mang một tiên triệu về sự li cách đang đến gần khiến nàng phấp phỏng, bồi hồi và vô cùng âu lo.

Một đêm nọ, bất thình lình như một sự lạ, Khanh đặt mình lập tức thiếp ngủ. Đó là một giấc ngủ sau nửa năm trời đêm đêm thao thức. Nhưng đó lại là một giấc mơ dài, trong đó tái hiện toàn bộ cuộc sống của nàng và Điền: Điền đến thăm nàng gặp nàng đang múc nước tưới hoa hồng, những khóm hồng đỏ tươi, buổi Điền đánh ngã thằng Nghiệm định làm nhục anh; lần Điền bắt bọn cướp chặn đường đoàn ca kịch của nàng; cuộc ân ái đắm say hôm nào và cuối cùng Điền hiện ra vẫy gọi nàng với một vầng hồng trước ngưc đỏ như hoa, như mặt trời, như máu tươi, khiến nàng bàng hoàng tỉnh giấc.

Buổi sáng sau giấc mơ kỳ lạ nọ, Khanh đến cơ quan như thường lệ. Như thường lệ, nàng đẩy tung hai cánh của ô cửa sổ nhìn ra thế giới và dội vào nàng lập tức là cả một cơn mưa tin tức. Vẫn là những giọng rao báo láu cháu, nhát gừng và liến thoắng của trẻ nhỏ. Vẫn là những dòng thông tin xô bồ, hỗn độn, tạp nham được phóng đại cố tình để kích thích trí tò mò của lớp người đại chúng ưa thích ; chuyện ly kỳ. Truyện vụ án, tin tội phạm phải truy nã. Lại có tin thêm về phát minh ghi vào xương hông bọn tội phạm quốc tế mật mã số vạch điện tử để các Rôbốt dễ bề kiểm soát chúng bằng chùm lade và tin bổ sung về con ma cụt đầu ám hại người ở vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long. Giữa những ồn ào huyên náo ấy, bỗng lọt đến tai Khanh một dòng âm thanh có tần số riêng như để báo riêng cho nàng biết, khiến nàng vội vã đứng dậy nhoai người ra cửa sổ, cất tiếng khẩn thiết gọi chú bé bán báo và chạy vội xuống đường.

Khanh mua tờ An ninh thành phố. Như có thần linh dẫn lối, nàng mở vội trang giữa tờ báo và mắt trân trân nhìn vào một bài báo nhỏ in trang trọng được đóng khung ở góc trái trang báo thứ tư.

Trần Thanh Điền, người chiến sĩ trinh sát anh hùng

Trần Thanh Điền, thượng úy trinh sát ở Trung Tâm điều tra hình sự Thành phố mới ở độ tuổi ba mươi, nhưng đã lập nhiều kỳ tích trong việc điều tra, khám phá các vụ án hình sự. Anh là con người giản dị, trung hậu, có ý chí phi thường, giầu tình cảm, luôn sống hết mình với lý tưởng cao đẹp.

Trưa ngày 20 tháng Tám, từ trại cải tạo Tam Giang, một tên lưu manh có biệt hiệu Mồm lệch lại một lần nữa trốn trại với ý định gặp thủ lĩnh đại ca của hắn từ nước ngoài là tên đại lưu manh Chu Văn Nghiệm đang trốn chạy khỏi vòng truy đuổi của Interpol mới về tới thành phố.

Thượng úy Điền được biệt phái công tác ở Trại đã đảm nhiệm việc đi bắt tên Mồm lệch này. Tại số nhà 24 ngõ 442, phố 64, quận 15, anh đã phát hiện ra tên Mồm lệch, y đang ở nơi tụ tập của đám lưu manh đứng đầu nhiều băng cướp, kể cả bọn ở nước ngoài mới chạy trốn về. Mưu trí và dũng cảm, Điền đã bắt được tên Mồm lệch và truy bắt tên thủ lĩnh trùm sỏ Chu Văn Nghiệm, một kẻ có nợ máu với đồng bào nước ta và nhiều người ở các nước khác, một tên tội phạm quốc tế, đang bị Interpol truy đuổi.

Trần Thanh Điền, người trinh sát anh hùng tài ba trên tuyến đầu chống lại cái ác đã anh dũng hy sinh, dâng trái tim hồng của mình cho sự nghiệp an ninh của nhân dân.

Trời! Buông tờ báo, Khanh gục ngay xuống bàn, chết ngất. Ba bài thơ với nàng như mang tính tiên báo đã ứng nghiệm hoàn toàn!

Cái chết! Có cái gì thật hơn cái chết? Cái chết thật gần gụi, không xa lạ, nó nằm trong kết cấu của đời người. Nó là cái bến bờ cuối cùng mọi người phải đi tới sau khi đã làm xong cuộc đời mình. Ba Khanh đã chết. Ông cụ chết trong ân hận xé ruột xé gan. Nhận ra vì mình mà con gái cụ khổ, có lẽ là vậy, nên cụ dùng dằng mãi không đi được. Xuất huyết não, nằm liệt gần nửa năm trời, đã mấy lần tưởng đã đi mà rồi lại tỉnh, tỉnh mà không nói năng, không ăn uống được, chỉ ứa nước mắt khi thấy con. Mụ Đống nói: “Cô theo Nhà hát đi diễn mấy hôm đi, để cách mặt, không ông cụ cứ quyến luyến mãi”. Khanh làm sao mà xa ba được! Nhưng thấy cụ cứ khắc khoải thế thật tội. Có lẽ cái chết sẽ khiến ba đỡ đau đớn hơn. Sau, ông cụ một mình tự lần mò ra sân, rồi ra công viên và ngã ở đó.

Khanh nhớ rằng, ba nàng mất được ba hôm thì nàng thấy ông cụ hiện về. Thất thất lai tuần. Lễ bốn mươi chín ngày gọi là lễ định nghiệp, tức sau đó linh hồn người chết về hẳn nơi âm giới, ba nàng cũng hiện về. Lễ một trăm ngày, nàng đi Thủy Nguyên Hải Phòng nhờ một người đàn bà gọi hồn ba nàng. Nói rằng người mất vẫn không khác gì người còn đang sống là bất tri. Nhưng nói mất tức hết sạch thì là bất nhẫn. Ba nàng hiện về qua người phụ nữ nọ, một bà nông dân học lớp ba, hồi chiến tranh là du kích đã góp phần tham gia bắn rơi chiếc máy bay thứ 2000 của giặc Mĩ. Vừa khấn xong, bà bỗng nhìn nàng, the thé: “Ơ kìa, sao con không cho thằng Huy nó cùng xuống đây gặp ba”. Nàng bủn rủn cả người. Làm sao người đàn bà đó lại biết ba nàng quý cậu Huy, lại gọi đúng tên nó? Tiếp đó ba nàng mếu máo nói rằng rất thương nàng. Ba nàng lo cho nàng bơ vơ một thân một mình. Ba bảo ba gặp mẹ ở dưới đó. Mẹ bảo: “Đàn ông sống một mình không có người phụ nữ bên cạnh thì dễ như cây không rễ lắm. Nên tôi không trách mình đâu. Chỉ lo cho con gái chúng ta non người trẻ dạ lại rơi vào nơi hang hùm nọc rắn”. Ba bảo: Thằng Túc tiếng thế nó chỉ là đứa hạ lưu bợm bãi như cái Lụa. Còn độc ác, hung hãn và trụy lạc, nhiều khi mất hết tính người là thằng Tư. Cái chết với ba nàng là một bước ngắt đoạn để con người chuyển qua một thời đoạn khác.

Bà nội Điền chín mươi tuổi mất trong một giấc ngủ. Chiều hôm trước cụ còn đi xới gốc dong riềng. Rửa chân tay xong, cụ đun nồi lá bưởi lá tre, trùm chăn xông. Lau khô mồ hôi, cụ bảo pha cho cụ một ấm chè đặc. uống hết ấm trà, cụ lên giường đắp chăn ngủ như thường lệ. Sáng sau sờ chân tay cụ thấy lạnh ngắt. Cứ như cụ đã sửa soạn và đi tới một nơi nào đó rồi. Mẹ Điền khóc: “U ơi, u bỏ chúng con cho ai mà u đi không nói một lời. Nơi giường cao chiếu sạch cớ sao u không nằm”. Ông nội anh bảo: “Khóc thương thì cứ khóc thương. Nhưng đấy là u các con đã hoàn tất mọi việc, về với tiên tổ rồi đó”. Hoàn tất mọi việc, tức là được quyền nghỉ ngơi, sau khi đã làm được nhiều việc tốt đẹp cho mọi người. Ông nội anh cũng thế. Cụ là chiến sĩ cách mạng thời Tiếng Trống Tiền Hải năm 1930 nổi dậy chống sưu cao thuế nặng của thực dân Pháp. Cụ bị Pháp bắt, đầy ra Côn Đảo mười lăm năm. Cụ kể chuyện: một ngày kia, một trong bẩy mươi hai người học trò của Khổng Tử đến nói với người thầy vĩ đại của mình rằng: Con đã làm việc quá nhiều rồi, nay muốn xin thầy cho nghỉ ngơi. Đức Khổng Tử nói: “Đã làm tròn nhiệm vụ đâu mà nghỉ?”. Người học trò đề đạt tiếp: “Nghỉ để trông nom cha mẹ”. Khổng Tử bắt bẻ: Trông nom cha mẹ già sao lại là nghỉ? Học trò ngài lại tiếp tục nêu lý do: Muốn nghỉ ngơi để chơi với bạn bè, để cầy ruộng, làm vườn. Kết cục đều bị người thầy lớn bác bỏ. Hết lẽ, người học trò nọ đành buông tiếng than: “Vậy người quân tử không có được lúc nào nghỉ ngơi!” - Có! Nghe người học trò nói vậy, Khổng Tử đáp liền. Ngài nói tiếp: Người quân tử được nghỉ khi thấy huyệt đã đào nhẵn nhụi, mồ mình đắp đã chắc chắn, người đi đưa cách biệt hẳn với mình. Nghĩa là người quân tử chỉ khi chết mới được nghỉ ngơi. Có câu lạc sinh ẩn tử nghĩa rằng là sống thì vui vẻ làm hết bổn phận con người. Chết là nghỉ ngơi. Chết không đáng buồn. Nhưng đó phải là cái chết đi đến đích, sau đó thì an lòng yên nghỉ!

Điền đã chứng kiến cái chết của ông nội anh. Ông nội anh chết ung dung thanh thản như bà nội anh. Cụ tự xem lá số của mình và xem lá số cho mọi người. Với cụ, cái chết được dự tính trước, chính xác từng tháng. Cụ nói: Ta sẽ chết ở tuổi tám tám, sau một cái ngã ngồi. Chả ai tin. Tám mươi bẩy cụ còn khỏe, còn tinh tường. Vào tuổi tám tám, một hôm cụ ra cây rơm, rút rơm cho trâu ăn, tay rút trượt, ngã phệt xuống đất không đứng dậy được. Khiêng cụ vào nhà cụ nằm từ đó. Nhưng không cho con cháu thuốc thang, đưa đi bệnh viện. Cụ nói: “Sau ngày tế tổ, ta sẽ đi”. Hôm ấy tế tổ xong, các cụ trong hội tế vào thăm được một lúc thì bố anh vào, thấy mặt cụ đã hao kiệt, hết khí dương, râu tóc bạc hết, liền hỏi: Ông có dặn gì nữa. Cụ nói: Huyệt đào xong, sắp đưa ông đi thì cho con cháu chạy thật đông ra đó, ngó xuống, như thế ma quỷ ở bên âm nó thấy nhà mình nhiều người, nó sợ nó không dám bắt nạt ông. Rồi cụ thở một hơi dài, khép mắt.

Những cái chết khác nhau ở hoàn cảnh nhưng giống nhau ở bản chất: họ đã kết thúc mĩ mãn công việc của mình. Cái chết của cha Điền ở nơi trận mạc cũng vậy, dẫu có éo le. Tiểu đoàn trưởng vốn tính nhỏ mọn hay ganh ghét đức tài với cha anh là cấp phó của ông ta. Lần ấy tiểu đoàn pháo của họ bị sư đoàn Anh cả đỏ Mĩ bao vây. Lệnh của trên là phải mở đường phá vây, rút ra an toàn. Tiểu đoàn trưởng phân công cha anh đột phá một mắt xích, gọi đó là mở đường máu. Cha anh sẵn sàng nhận nhiệm vụ dẫu biết rằng sẽ hy sinh, vì đó là hy sinh cần thiết. Nhưng, dẫn một tiểu đội đánh theo hướng nọ để mở đường, ông nhận ra ngay là mình đã bị lừa. Thực tế, ông dẫn quân chỉ là để làm mồi cho pháo địch, để địch tập trung hỏa lực vào đó, để thừa cơ tiểu đoàn trưởng rút êm ở hướng khác, vấn đề là, nếu như cha anh được giao nhiệm vụ thu hút hỏa lực địch, đánh lừa địch, thì đã đi một nhẽ. Đằng này ông bị đồng chí của mình lừa dối, khoác cho một sứ mệnh cao cả không có thật. Xử sự thế nào lúc đó? Nửa tiểu đội nhận ra âm mưu đê hèn của tiểu đoàn trưởng, bỏ ngũ chạy toán loạn, sau này còn hai người sống sót trong mưa đạn của địch trở về hậu phương thì đã phát điên. Cha anh không thể vậy. Biết là sự nghiệp không thành củng vẫn dốc sức làm. Luận anh hùng bất kể hơn thua. Chỉ có những tính cách lớn mới có lối xử sự như vậy. Ông vượt qua làn pháo bắn tiêu diệt của địch thì gặp bọn biệt kích Mĩ. Ông ôm thủ pháo xông vào một đám đông giặc. Ngực ông lỗ chỗ vết đạn, đỏ lòe máu chảy. Ông vẫn gắng sức áp sát địch. Thủ pháo nổ. Cái chết của ông đúng nghĩa trở về với hư vô, cát bụi. Nhưng cũng đúng như ông nội đã nói: Khi ta chết đi, ta chẳng còn gì ngoài những thứ ta đã cho kẻ khác. Thân xác không còn, nhưng cha còn hiện diện ở những gì cha đã cống hiến cho cuộc đời. Hồn cha trở về trạng thái phi hình, gia nhập vào nhiên giới và nhiều lúc Điền tin rằng linh hồn là cái tuyệt đối của tự nhiên, cha vẫn hằng dõi theo mỗi bước đường anh đi, mỗi việc anh làm, bằng sự mách bảo kịp thời, dưới các hình thức ngoại viện như vầng trăng rằm kỳ diệu sáng tươi hiện lên hôm nào đó để phù trợ cho anh...