← Quay lại trang sách

Kiếp rạ rơm *-Phận xe đạp

Côi cút như túp lều nhỏ đứng ở góc vườn, cạnh chuồng trâu, chuồng bò, hay bên bờ ao, gốc tre, bụi chuối. Đống rơm, đống rạ trong cái tổng thể chung của ngôi nhà thôn quê không chỉ là hình ảnh, nó như một bộ phận không dứt ra được của một cơ thể. Chúng gắn bó, tương tác, “nuôi nấng” lẫn nhau…

Cây lúa có hai cuộc đời, hai kiếp phận. Một khi còn ở trên đồng, một sau lúc “vượt cạn”, đi vào đời sống con người.

Ngày xưa chưa có giống lúa cao sản, một năm hai vụ chiêm mùa. Chiêm tháng Năm, mùa tháng Mười. Mùa về xôn xao, đường làng gập ghềnh gạch đỏ, rơm vàng trải ngập lối đi, thơm lừng xóm ngõ.

Hạt thóc gieo xuống, nẩy mầm mơn mởn mạ non, lội đồng còng lưng mẹ cấy.

.

Bão tháng Bảy, mưa tháng Ba, mồ hôi đổ xuống cánh đồng. Lúa vào thì con gái, xanh mướt, trổ bông đòng đòng, ra hạt, chín. Nghiêng một màu vàng bên sông.

Kĩu kịt đường quê, từng đoàn người gánh lúa về làng. Sân đình như ngày hội, những bó lúa vung lên đập xuống. Thình thịch, thình thịch, những hạt thóc văng xa.

Thóc vào kho, vào bồ mỗi nhà. Chảy vào cối xay, cối giã. Lên nong nia sàng sẩy. Thóc lại được gieo xuống đồng, hạt nẩy mầm, nhú mạ non, tái sinh đời cây lúa.

Thân cây lúa chia hai phần, phần ngọn phía trên mang hạt. Những bó lúa gặt về, tuốt, đập xong vẫn còn sót hạt, lại bị “giày vò” thêm lần nữa, bó lúa bị giẫm, xéo, vặn, cho đến lúc chỉ còn lơ thơ vài hạt thóc, một mớ bùi nhùi, là rơm.

Phần thân dưới, phía gốc, khi gặt bị bỏ lại trên đồng, là rạ. Rơm vàng ươm, rạ sậm màu đất. Sợi rơm mềm, uốn éo. Cọng rạ cứng, thẳng đuỗn. Thời con gái của rơm là ngọn lúa phất phơ. Thuở tráng niên của rạ là cái gốc chịu đựng, làm thân cho cây lúa đứng vững. Cuống rạ liền với rễ, hút nước, hút “chất tinh” từ đất rồi bơm lên cho lúa trổ đòng.

Xong một đời trên cánh đồng, trả hạt, lại một đời trên cạn, một thân đôi phận, rạ - rơm.

Sợi rơm mềm thoang thoảng mùi thơm khô nồng, chân chất nhà quê. Rạ vẫn thoáng “hôi tanh mùi bùn”. Rơm sạch sẽ, rạ dính bùn, cùng đi vào cõi người.

Rơm khác rạ, vì có hương và sắc, vì sự mềm mại, và cái mỏng manh hình hài.

Rơm hay được ca tụng về mùi, “ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì”*. Rơm làm ấm những mùa đông, Nhà quê nghèo, trải rơm làm ổ.

Bọn trẻ nằm cuộn tròn, đông một lũ lợn con. Có nhà khá giả xây “phản” bằng xi măng, lát đá hoa cho mát mùa hè, đến mùa đông lót thêm lớp rơm, đủ ấm.

Sợi rơm mong manh thế mà có khi được dùng làm dây buộc. Nhè nhẹ thôi, như trang sức. Cọng rơm vàng quấn hờ quanh lớp lá sen gói cốm. Áo cánh nâu gánh vào trong phố. Là sự quấn quít giữa sắc và hương, thô và mịn.

Nhưng đâu phải lúc nào cũng thế, cũng được thế. Rơm còn là thức ăn cho trâu bò. Rơm được bện thành cái chổi lúa đem ra thành phố, len lỏi vào từng nhà để đổi lấy thùng nước gạo mang về nuôi lợn. Cũng tần tảo, theo cái tần tảo ngược xuôi cùng người đàn bà quê ra phố...

Sợi rơm mong manh nhỏ bé, cọng rạ to và thô. Thì nó ra thân phận khác. Rơm luôn là bề nổi, rạ ẩn mình.

Cánh đồng sau vụ gặt, những gốc rạ nằm lại để một ngày kia những lưỡi cày cuốn phăng tan vào trong đất. Gánh rạ cắt về phơi khô đánh đống, đun bếp, lợp nhà.

Từ thân cây lúa đi ra, chia lìa riêng phận, rồi cùng lại vào với kiếp người. Có lúc rơm nhởn nhơ một mình, tỏa hương, mang sắc. Có lúc lại cùng rạ nhọc nhằn gánh vác, hóa thân. Ở vài phận việc, rơm rạ vẫn có đôi.

Rơm trộn với đất thành vách nhà, cùng với mái lợp tranh rạ, trong loại hình “nhà tranh vách đất” chống chọi với gió mưa. Thổi cơm nồi đồng, cái nồi “thắt đáy lưng ong”. Đun rạ phải luôn tay luôn chân, lúc cơm sôi cạn nước, quấn một vòng rơm quanh nồi đốt lửa, cơm chín đều từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài. Mở nồi cơm hương gạo mới, trên mặt lẫn một lớp tro, cũng chẳng sao.

Bên bếp lửa, người đàn bà chít khăn mỏ quạ, ánh lửa bập bùng in cái bóng bất động trên tường đi qua những mùa đông, gian bếp chật sặc khói. Lửa làm khô nứt gò má đã sạm nắng mưa. Làn khói mỏng len lỏi qua mái rạ, lờ lững lam chiều.

Gái đến thì, “rút trộm rơm nhà đi trải ổ”(1). Đường làng đêm trăng muộn, nghe thút thít bên đường tiếng khóc vẳng ra từ một đống rơm: “Anh lừa em, anh dối em, hức hức…”. Đèn pin rọi vào, thằng trai đang đè nghiến con bé, bung hết làn cúc ngực. Nhưng thương nhất là buổi hôm nào, người đàn bà vợ bộ đội bị lôi ra từ một ổ góc vườn, rồi bị kéo đi xềnh xệch. Mái tóc dài xổ tung.

Mái tóc dài, lưng ong, dải yếm. Như buổi hôm nào, vô tình vương lên ngực chị, sợi rơm vàng như đánh thức tuổi dậy thì ở một đứa trai.

Làm đồng về, mồ hôi làm cái áo phin mỏng dính chặt vào người, quần đen xắn cao hết đùi. Ở nhà quê, con gái ra đồng giữ nước da bằng cách trùm “khăn vuông” che kín mặt, chân quấn xà cạp. Chị đứng đó bên chum nước, cúi xuống gỡ từng vòng xà cạp. Những vòng trắng da thịt. Trời nực, khuôn mặt ửng đỏ. Vài lọn tóc bết mồ hôi dính vào bên má. Trên bộ ngực phập phồng hơi thở, còn vương một cọng rơm vàng.

Đứa trai chớm lớn ngẩn ngơ cắn bút ở một góc hè. Ơ hờ… nghĩ ngợi cánh đồng xa…

Lại một chiều chị cúi đầu cho em dội nước. Làn tóc dài xổ ra chảy theo dòng nước đượm mùi bồ kết. Dạo ấy em còn chưa biết đến diêu bông…

Giờ đã xa rồi, rơm vàng, lưng ong, dải yếm. Những cái tết của ngày xưa, cỗ bài tam cúc “kết tịnh hồng đưa chị đến quê em”(1). Cái làng quê của cây lúa, những mái rạ lầm lũi một đời. Tiếng trống sân đình trẩy hội, í a…

Chợt bắt gặp một chiều mùng hai chưa hết tết, em gái áo thun quần bò lưng hở tênh hênh giữa đồng, nhìn kìa… chổng mông cấy lúa. Nhanh lên chiều rồi, còn kịp theo lũ giai làng lên phố huyện hát karaoke.

Nhưng vẫn còn, mỗi mùa, sau vụ gặt. Lúa cắt đi rồi, “đồng chiều, cuống rạ”. Những đống lửa xa lũ trẻ mục đồng. Khói bay lên giời, chiều thật vắng…

Ta lại hát, ơ hời… diêu bông…

Chú thích:

(1) Câu thơ của Hoàng Cầm.

Phận xe đạp

.

Loanh quanh một hồi dễ đến hơn nửa tiếng đồng hồ, bị xua đuổi hết chỗ này đến chỗ khác, cuối cùng anh cũng tìm được nơi người ta nhận cho gửi chiếc xe đạp cũ, dù là xe Peugeot, niềm mơ ước một thời của nhiều người Hà Nội. Dạo này ở khu vực trung tâm Sài Gòn, người ta lập lại trật tự, không cho lập các bãi giữ xe tràn lan trên hè phố. Các bãi xe ngày càng chật chội, họ ưu tiên cho xe máy hơn, cùng một chỗ, xe máy 2.000 - 3.000 đồng, xe đạp chỉ 500, bõ gì! Dù anh cố năn nỉ trả thêm tiền, mà người giữ cứ ngúng nguẩy, khiến anh nổi cáu: “Mày dám khinh người nghèo hả?”.

Cách đấy chỉ mấy hôm, xem trên ti vi anh xúc động đến lặng người với những hình ảnh đã đi vào lịch sử dân tộc: từng đoàn nhữgưnờgicđhẩiyếcnxe đạp thồ nặng nhọc còng lưng lên dốc, là đoàn dân công hỏa tuyến đi chiến dịch Điện Biên Phủ. Những năm chống Mỹ, hình ảnh về một Việt Nam gian khổ và anh dũng trong các thước phim tài liệu nước ngoài hay trong nước đều thường thấy từng hàng xe đạp trôi đi như dòng nước chảy trên đường. Và trong đời sống thực ở miền Bắc khi ấy, chiếc xe đạp vừa là phương tiện, vừa là “của cải”, vừa là thời trang, cao cấp nhất là xe Peugeot do thân nhân từ Pháp gửi về, rồi đến Mifa, Diamand của những trí thức trẻ đi học ở Đông Âu, xe Phượng Hoàng của các viên chức Nhà nước, và cuối cùng là xe đạp Thống Nhất của giới bình dân. Bây giờ đến nhiều nhà chẳng còn nhìn thấy nữa, thỉnh thoảng lắm mới thấy một vài cái được treo lủng lẳng làm kỷ vật trong một vài gia đình ưa hoài cảm.

Ngẫm ra, cái phận xe đạp cũng như một kiếp người, cũng trôi nổi lên xuống, lúc “thịnh” lúc “suy” theo thời thế. Khi được trọng vọng, khi chỉ còn là “di vật” vì vai trò lịch sử đã hết.

Cái xe Peugeot cũ anh đang sử dụng là kỷ niệm của gia đình, anh mang nó vào từ Hà Nội, với nó năm xưa, cha anh đã rong ruổi trên khắp các nẻo đường Hà Nội, về quê, đi sơ tán…

Lại vừa nghe nói bên Pháp bây giờ hãng Peugeot đã tuyên bố chấm dứt làm xe đạp, có nghĩa là từ nay ai có xe Peugeot sẽ sở hữu nó như sở hữu một “cổ vật”. Vợ anh lập tức tuyên bố: Không cho đi xe đạp nữa! Và bắt lau chùi, bọc lại, treo lên… hy vọng đến một năm nào, chiếc xe đạp ấy lại được bước ra cuộc đời với một vai trò mới, “oách” hơn: một chiếc xe cổ!

Tháng 9-2004